← Quay lại trang sách

BẢY

Khi về hướng Tây múi giờ thay đổi khiến ngày dài ra thay vì ngắn đi. Thời gian bù lại cho chúng tôi những giờ hụt đi hai ngày trước. Chúng tôi đáp xuống sân bay Dulles vào lúc hai giờ chiều. Tôi tạm biệt Joe và anh lên taxi đi về hướng thành phố. Tôi đi tìm xe buýt nhưng chưa tìm thấy chiếc nào thì đã bị bắt.

Ai kiểm sát kẻ đi kiểm sát? Ai bắt giữ sĩ quan Quân cảnh? Vào trường hợp tôi thì đó là ba viên chuẩn úy làm việc trực tiếp cho văn phòng tổng chỉ huy trưởng Quân cảnh. Họ gồm hai chuẩn úy cấp 3 và một chuẩn úy cấp 4. Gã cấp 4 ấn vào mặt tôi thẻ sĩ quan của hắn cùng trát bắt giữ còn hai gã cấp 3 khoe tôi hai khẩu Beretta cùng bộ còng, rồi gã cấp 4 cho tôi quyền lựa chọn sau: hoặc tôi ngoan ngoãn hoặc ăn đòn. Tôi cười nhạt. Tôi thích phong cách làm việc của hắn. Nghiệp vụ rất tốt. Tôi không biết nếu là mình thì mình liệu có cư xử khác đi, hay tốt hơn không.

“Anh có vũ khí không, Thiếu tá?” hắn hỏi.

“Không,” tôi đáp.

Sẽ rất đáng lo cho chất lượng đào tạo của quân đội nếu hắn tin lời tôi nói. Vài tay cấp 4 khác hẳn sẽ tin tôi rồi. Họ sẽ thấy quá hồi hộp trong tình huống tế nhị thế này. Đi bắt giữ một sĩ quan cấp trên cùng ngành là một nhiệm vụ khó khăn. Nhưng gã cấp 4 này làm rất đúng quy trình. Gã nghe tôi trả lời Không thì liền gật đầu ra lệnh cho hai gã cấp 3 kia tiến hành lục soát người tôi nhanh như thể tôi đã trả lời là Có, tôi có đầu đạn hạt nhân. Một gã kiểm tra người tôi còn gã kia xem qua túi đồ. Họ lục soát rất kỹ lưỡng. Xem xét phải mất mấy phút bọn họ mới thỏa mãn.

“Tôi có cần phải tra còng Thiếu tá không?” gã cấp 4 hỏi.

Tôi lắc đầu. “Xe các cậu ở đâu?”

Hắn không trả lời. Hai tay cấp 3 vào đội hình tiêu chuẩn là mỗi người một bên tôi và hơi lui lại đằng sau một chút. Gã cấp 4 tiến lên đằng trước. Chúng tôi băng qua vỉa hè và đi qua bến xe buýt tới khu vực dành riêng cho xe công vụ. Ở đó đang đậu một chiếc sedan màu xanh ô liu. Đây là lúc cần cảnh giác nhất của bọn họ. Tay nào có ý đồ sẽ gồng cứng người khi ấy, sẵn sàng vùng thoát. Bọn họ biết điều đó, nên đội hình khép lại chặt hơn ban nãy một chút. Quả là một đội phối hợp ăn ý. Lấy ba chọi một, họ đã giảm xác suất rủi ro xuống còn năm mươi-năm mươi. Nhưng tôi để họ đẩy mình vào xe. Sau đó, tôi thắc mắc không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi vùng tháo chạy. Nhiều khi, tôi vẫn ước mình đã làm như vậy.

Xe của họ là một chiếc Chevrolet Caprice. Nó từng có màu trắng trước khi được quân đội sơn lại thành màu xanh lá. Tôi thấy màu sơn gốc trong khung cửa xe. Ghế xe được bọc nhựa vinyl và cửa kính quay bằng tay. Loại xe đặc trưng của cảnh sát dân sự. Tôi trượt vào băng ghế sau và ngồi trong góc ngay đằng sau ghế lái phụ. Một gã cấp 3 chen vào cạnh tôi và gã kia trèo lên ghế tài xế. Gã cấp 4 ngồi bên cạnh hắn phía trước. Chúng tôi không nói gì thêm.

Xe chạy về phía Đông hướng vào thành phố trên đường cao tốc chính. Chắc tôi đi sau taxi của Joe chừng năm phút. Chúng tôi rẽ hướng Đông Nam và đi qua trung tâm thương mại Tysons Corner. Tới đó tôi biết ngay điểm đến của mình rồi. Vài dặm sau chúng tôi thấy bảng chỉ đường tới Rock Creek. Rock Creek là một thị trấn nhỏ cách doanh trại Belvoir hai mươi mấy dặm về hướng Bắc và cách trại Thủy quân lục chiến ở Quantico bốn mươi mấy dặm về hướng Đông Bắc. Gần như có thể coi đó là nơi công tác chính thức của tôi. Vì trụ sở chỉ huy Đội Đặc nhiệm 110 được đặt ở đấy. Nên tôi biết mình đang đến đâu. Tôi chỉ chưa hiểu vì sao mà thôi.

Trụ sở chỉ huy 110 về cơ bản là một văn phòng kiêm trung tâm quân nhu. Không có phòng giam nào. Không có trang thiết bị cho việc giam giữ. Họ giam tôi trong một phòng thẩm vấn. Cứ thế vứt túi đồ của tôi lên bàn rồi khóa cửa lại để mặc tôi trong đó. Chính căn phòng này là nơi tôi từng giam nhiều người. Nên tôi biết quy trình ra làm sao. Sẽ có một gã cấp 3 canh gác ngay hành lang bên ngoài. Hoặc có khi cả hai cùng gác không chừng. Vậy nên tôi chỉ ngả chiếc ghế gỗ ra sau rồi gác chân lên mặt bàn và chờ đợi.

Tôi đợi một tiếng đồng hồ. Tôi đương mệt và đói và khát sau chuyến bay. Tôi đoán nếu họ biết điều đó dám họ sẽ bắt tôi chờ tới hai tiếng. Có khi hơn. Nhưng rồi họ trở lại sau sáu mươi phút. Gã cấp 4 dẫn đầu và hất hàm ra lệnh cho tôi đứng dậy đi theo hắn ra cửa. Hai gã cấp 3 lại lui ra sau kèm tôi. Họ đưa tôi lên hai tầng thang. Hết dẫn quẹo trái lại quẹo phải qua các hành lang quét màu xám trơn. Đến lúc đó tôi biết ngay mình đang đi đâu. Chúng tôi đang tới văn phòng của Leon Garber. Nhưng tôi vẫn không biết vì sao.

Họ chặn tôi ngoài cửa văn phòng của ông ta. Cửa ấy lắp kính mờ và trên đó có ký hiệu tắt của Sĩ quan chỉ huy sơn vàng. Tôi từng bước qua đây nhiều lần rồi. Nhưng chưa bao giờ trong vị trí người bị bắt cả. Gã cấp 4 gõ cửa và đợi, rồi hắn mở cửa xong lùi lại cho tôi bước vào. Hắn đóng cửa lại sau lưng tôi rồi ở lại ngoài hành lang cùng hai gã kia.

Đằng sau bàn làm việc của Garber là một người đàn ông tôi chưa từng gặp bao giờ. Ông ta là đại tá. Trên người đang mặc bộ đồ dã chiến. Trên bảng tên có ghi: Willard, Lục quân Hoa Kỳ. Tóc ông ta màu bạc để rẽ ngôi kiểu học sinh. Trông rất cần được cắt tỉa. Ông ta đeo cặp kính gọng sắt với vẻ mặt phục phịch mà tôi đoán đã trông già nua tự thuở hai mươi tuổi. Tướng ông ta khá lùn và bè, và nhìn đôi vai không vừa với bộ dã chiến tôi biết hẳn ông ta không hề bỏ công tập thể hình gì. Ông ta không ngồi yên được. Vừa ngồi vừa nghiêng trái vừa kéo chỗ quần đang bó vào hơi chặt ở đầu gối phải. Tôi vào phòng chưa tới mười phút ông ta đã đổi thế ngồi tới ba lần. Hoặc ông ta bị trĩ. Hoặc hồi hộp. Tay ông ta trông mềm. Móng tay tưa cả. Không nhẫn cưới. Đã ly dị, chắc chắn. Nhìn bề ngoài thì biết. Chẳng bà vợ nào để ông chồng mình tha kiểu tóc kia ra đường cả. Và chẳng bà vợ nào chịu nổi cái kiểu giật giật ngả nghiêng đó. Dù có cũng chẳng được lâu.

Đáng lẽ tôi phải nhanh chóng nghiêm rồi giơ tay chào và hô: Thưa, Thiếu tá Reacher có mặt. Đó là nghi thức chuẩn mực của nhà binh. Nhưng tôi thà chết còn hơn. Tôi chỉ uể oải nhìn xung quanh mà vẫn đứng nghệch ra trước chiếc bàn.

“Tôi cần cậu giải thích,” người mang tên Willard lên tiếng.

Ông ta lại trở mình trên ghế.

“Ông là ai vậy?” tôi hỏi.

“Cậu nhìn thì phải biết chứ.”

“Tôi nhìn thì thấy ông đây là một đại tá Lục quân Hoa Kỳ tên Willard thôi. Nhưng làm sao tôi giải thích gì được khi chưa biết ông có trực tiếp chỉ huy tôi hay không.”

“Tôi chính là chỉ huy của cậu đấy, nhóc con. Trên cửa ghi gì?”

“Sĩ quan chỉ huy,” tôi đáp.

“Và ta đang ở đâu?”

“Rock Creek, bang Virginia,” tôi đáp.

“OK, cậu hỏi cậu tự trả lời rồi đấy,” ông ta nói.

“Ông là người mới,” tôi bảo. “Hai ta chưa gặp nhau bao giờ.”

“Tôi tiếp quản vị trí này cách đây bốn mươi tám tiếng. Giờ ta gặp nhau rồi đó. Và giờ tôi cần lời giải thích.”

“Về việc gì cơ?”

“Cậu đã VKP, bắt đầu bằng việc này đi,” ông ta nói.

“Vắng không phép?” tôi bảo. “Lúc nào cơ?”

“Trong bảy mươi hai tiếng đồng hồ vừa qua.”

“Sai rồi,” tôi nói.

“Sai thế nào?”

“Việc vắng mặt của tôi đã được đại tá Garber duyệt cho.”

“Không hề.”

“Tôi gọi đến văn phòng này rồi,” tôi nói.

“Khi nào?”

“Trước khi tôi đi.”

“Cậu có nhận được phê duyệt của chính ông ta không?”

Tôi khựng lại. “Tôi có để lại tin nhắn. Ông đang nói là ông ấy không duyệt sao?”

“Ông ta có ở đây đâu. Ông ta được lệnh tới Hàn Quốc cách đây vài giờ.”

“Hàn Quốc sao?”

“Ông ta tiếp quản vị trí chỉ huy Quân cảnh ở đó.”

“Đó là việc của chuẩn tướng mà.”

“Quyền chỉ huy thôi. Việc thăng cấp của ông ta chắc chắn sẽ được duyệt vào mùa thu.”

Tôi không nói gì.

“Garber đi rồi,” Willard nói. “Tôi là người điều hành ở đây. Vòng xoay quân đội vẫn xoay vòng. Cố quen đi.”

Trong phòng im lặng. Willard mỉm cười nhìn tôi. Không phải một nụ cười dễ chịu. Gần như mỉa mai vậy. Cứ như có người vừa giật đi tấm thảm dưới chân tôi, và ông ta ngắm tôi ngã xuống vậy.

“Cũng nhờ cậu để lại lịch trình,” ông ta nói. “Nên ngày hôm nay không khó khăn mấy.”

“Ông nghĩ vắng mặt không phép đáng bị bắt giữ sao?”

“Cậu không nghĩ thế à?”

“Chỉ là hiểu lầm thôi mà.”

“Cậu tự ý rời bỏ vị trí của mình mà không được phép cấp trên, Thiếu tá. Đó là sự thật. Việc cậu tưởng mình sẽ được duyệt không hề thay đổi điều đó. Đây là quân đội. Ta không tự ý làm điều gì khi chưa có mệnh lệnh hoặc được sự đồng ý của cấp trên cả. Ta phải đợi đến khi nhận được sự cho phép chính thức và chắc chắn. Không tuân theo tất loạn.”

Tôi không trả lời.

“Cậu đã đi đâu?”

Tôi nhớ lại hình ảnh mẹ tôi, chống khung tập đi bằng nhôm. Tôi nhớ lại gương mặt anh trai tôi khi anh lặng lẽ nhìn tôi thu dọn đồ đạc.

“Tôi đi nghỉ vài hôm,” tôi đáp. “Tôi đi biển chơi.”

“Việc bắt giữ cậu không phải vì lỗi vắng mặt chưa xin phép,” Willard nói. “Mà bởi vì cậu mặc bộ cảnh phục nghi lễ vào buổi tối mồng một.”

“Vậy cũng là vi phạm sao?”

“Cậu có đeo bảng tên hôm đó.”

Tôi im lặng.

“Cậu đánh hai thường dân nhập viện. Khi đang đeo biển tên của mình.”

Tôi trân trân nhìn ông ta. Ngẫm nghĩ thật kỹ. Tôi không tin gã hộ pháp lẫn tay nông dân kia tố cáo tôi. Không thể. Chúng đần, nhưng không đần đến vậy. Chúng biết tôi có thể quay lại tìm chúng.

“Ai nói vậy?” tôi hỏi.

“Hôm cậu thượng đài có quá trời khán giả.”

“Một người của ta sao?”

Willard gật đầu.

“Ai?” tôi hỏi.

“Cậu không cần biết đâu.”

Tôi giữ im lặng.

“Cậu còn gì để nói không?” Willard hỏi tôi.

Tôi nghĩ thầm: Hắn còn lâu mới dám làm chứng chống tôi trước tòa án binh. Chắc chắn. Tôi muốn nói vậy đó.

“Không,” tôi đáp.

“Cậu nghĩ tôi nên xử lý cậu sao?”

Tôi không trả lời.

“Cậu nghĩ tôi nên làm gì hả?”

Ông nên biết điểm khác nhau giữa một tay cứng đầu với một thằng đầu đất là gì, ông già. Ông hiểu được càng sớm càng tốt.

“Tùy ông,” tôi đáp. “Quyết định của ông.”

Ông ta gật đầu. “Tôi cũng vừa nhận được báo cáo của tướng Vassell và đại tá Coomer.”

“Báo cáo việc gì cơ?”

“Báo cáo việc cậu có thái độ vô lễ với họ.”

“Vậy thì báo cáo đó sai rồi.”

“Cũng như việc nghỉ không xin phép là sai phải không?”

Tôi không nói gì.

“Đứng nghiêm đi,” Willard bảo.

Tôi nhìn ông ta. Đếm thầm Một giây. Hai giây. Ba giây. Rồi mới nghiêm.

“Chậm quá,” ông ta nói.

“Tôi đâu có đua với ai,” tôi đáp.

“Cậu quan tâm gì ở Vassell và Coomer?”

“Bản chương trình nghị sự cho một hội nghị Thiết giáp bị mất. Tôi muốn biết nó có chứa thông tin mật nào không.”

“Làm gì có bản chương trình nghị sự nào,” Willard nói. “Vassell và Coomer nói rõ rồi còn gì. Họ đã khai như vậy với cậu, và với tôi. Việc tra vấn của cậu có thể chấp nhận được. Dù sao về căn bản, cậu có quyền đó. Nhưng cố tình phủ nhận câu trả lời trực tiếp của một sĩ quan cấp cao là vô lễ. Gần như xúc phạm rồi.”

“Thưa, tôi ăn lương để giải quyết những việc này. Tôi tin rằng có một bản chương trình nghị sự ở đâu đó.”

Đến lượt Willard không nói gì.

“Cho phép tôi hỏi trước đó ông chỉ huy gì?” tôi hỏi.

Ông ta cựa mình trên ghế.

“Tình báo,” ông ta đáp.

“Đặc vụ hiện trường,” tôi hỏi. “Hay ngồi bàn giấy?”

Ông ta không trả lời. Ngồi bàn giấy rồi.

“Ông có bao giờ dự hội nghị nào mà không có bản chương trình nghị sự không?”

Ông ta trừng mắt nhìn tôi.

“Mệnh lệnh trực tiếp đây, Thiếu tá,” ông ta bắt đầu. “Đầu tiên, chấm dứt mọi sự quan tâm đến Vassell và Coomer. Ngay lập tức, không chậm trễ. Thứ hai, chấm dứt mọi sự quan tâm đến tướng Kramer. Chúng ta không muốn gây lớn chuyện, nhất là trong tình cảnh này. Thứ ba, chấm dứt việc trung úy Summer tham gia công tác của đội đặc nhiệm. Ngay lập tức, không chậm trễ. Cô ta chỉ là Quân cảnh cấp dưới và sau khi lướt qua hồ sơ thì tôi nghĩ cô ta không tiến xa được hơn nữa đâu. Thứ tư, không tiếp xúc với đối tượng thường dân địa phương bị cậu đả thương. Và thứ năm, không tìm cách xác định nhân chứng đã khai báo vụ ẩu đả của cậu.”

Tôi không đáp.

“Cậu có hiểu mệnh lệnh vừa rồi không?” ông ta hỏi.

“Tôi muốn có văn bản chính thức,” tôi trả lời.

“Bằng miệng là đủ rồi,” ông ta nói. “Cậu có hiểu mệnh lệnh vừa rồi không?”

“Có,” tôi nói.

“Cho nghỉ.”

Tôi đếm thầm Một giây. Hai giây. Ba giây. Rồi tôi giơ tay chào và quay ra. Tôi vừa bước tới cửa thì ông ta bắn thêm một phát chia tay.

“Nghe đồn cậu là một ngôi sao lớn, Reacher,” ông ta nói. “Cậu nên cân nhắc xem mình có muốn tiếp tục làm ngôi sao, hay trở thành một thằng nhãi láo lếu ngạo mạn. Và cậu nên nhớ chẳng ai ưa bọn láo lếu ngạo mạn đâu. Và cậu nên nhớ chúng ta sắp đến thời điểm mà việc người ta ưa mình hay không sẽ rất quan trọng. Quan trọng cực kỳ đấy.”

Tôi không đáp.

“Tôi nói có rõ không, Thiếu tá?”

“Rõ,” tôi trả lời.

Tôi đặt tay lên nắm đấm cửa.

“Một điều cuối,” ông ta nói. “Tôi sẽ tạm gác lại việc tố cáo hành vi bạo lực của cậu. Tới chừng nào hay chừng đó. Chỉ vì những thành tích của cậu. Cậu may lắm nên tố cáo mới chỉ đưa trong nội bộ thôi. Nhưng tôi muốn cậu nhớ rằng nó vẫn còn nằm đây, và vẫn có thể được đem xử lý đấy.”

Tôi rời Rock Creek trước năm giờ chiều một chút. Đoạn bắt chuyến buýt về Thủ đô Washington, rồi bắt chuyến nữa về hướng Nam theo cao tốc I-95. Sau đó tôi gỡ huy hiệu trên ve áo rồi bắt nhờ xe suốt chặng ba mươi dặm cuối về trại Bird. Như vậy nhanh hơn. Giao thông địa phương lúc đó chủ yếu toàn lính, hoặc lính đã giải ngũ, hoặc gia đình họ, và hầu hết đều không có thiện cảm với Quân cảnh. Nên từ kinh nghiệm tôi biết tốt nhất cứ cất hết phù hiệu đi cho xong.

Tôi kiếm được xe đi nhờ và xuống xe cách cổng trại Bird chừng hai trăm yard, quá mười một giờ đêm một chút, mồng bốn tháng Giêng, sau hơn sáu giờ đồng hồ đi đường. Bắc Carolina lúc ấy đã tối mù và trở lạnh. Trời lạnh quá, tôi phải chạy bộ suốt hai trăm yard ấy cho ấm người. Đến cổng chính thì hết cả hơi. Tôi ký nhập trại rồi chạy xuống văn phòng. Bên trong ấm áp vô cùng. Cô trung sĩ có đứa con trai nhỏ đang trực. Cô đã pha sẵn cà phê. Cô đưa tôi một cốc rồi tôi bước vào văn phòng và tìm thấy mẩu giấy nhắn của Summer trên bàn. Mẩu giấy đính trên tập hồ sơ mỏng bìa màu xanh lá. Trong ấy đựng ba loại danh sách. Danh sách nữ quân nhân có xe Humvee cá nhân, danh sách nữ quân nhân từ trại Irwin, và bản đăng ký xuất nhập trại đêm Giao thừa. Hai bản danh sách đầu khá ngắn. Còn bản đăng ký kia thì hỗn loạn vô cùng.

Người ta ra vào trại thâu đêm, tiệc tùng không nghỉ. Nhưng chỉ có một cái tên lặp lại trong cả ba danh sách: Tr. tá Andrea Norton. Summer đã khoanh tròn cái tên đó trong cả ba danh sách. Lời nhắn của cô như sau: Gọi tôi để nói về Norton. Mong mẹ sếp vẫn khỏe.

Tôi tìm thấy mẩu giấy cũ ghi số điện thoại của Joe và quyết định gọi cho anh trước.

“Anh ổn không?” tôi hỏi.

“Đáng lẽ ta nên ở lại,” anh đáp.

“Mẹ cho cô y tá nghỉ một ngày,” tôi bảo. “Mẹ chỉ cần một ngày đó thôi.”

“Dù sao ta vẫn nên ở lại chứ.”

“Mẹ không muốn có khán giả đâu anh,” tôi bảo.

Joe không trả lời. Ống nghe điện thoại nóng hổi và câm lặng bên tai tôi.

“Em muốn hỏi cái này,” tôi hỏi. “Khi còn làm ở Lầu Năm Góc, anh có quen thằng khốn nào tên Willard không?”

Anh giữ im lặng một hồi, cố lục lợi trí nhớ. Anh ngừng công tác bên Tình báo cũng khá lâu rồi.

“Phải lão bè bè lùn lùn không?” anh hỏi. “Không ngồi yên nổi một chỗ ấy? Lúc nào cũng rục rịch trên ghế, mày mò nếp quần hả? Lão chuyên ngồi bàn giấy thôi. Hình như là thiếu tá.”

“Lão lên đại tá rồi,” tôi bảo. “Lão mới chuyển qua Đội 110. Tới Rock Creek làm sĩ quan chỉ huy của em.”

“Từ Tình báo sang Đội 110 à? Cũng hợp lý.”

“Em chẳng thấy hợp lý chỗ nào.”

“Học thuyết mới đấy,” Joe bảo. “Họ đang bắt chước bên kinh tế tư nhân. Họ cho là những người không rõ mô tê gì sẽ làm tốt hơn, vì những người đó sẽ không bị lệ thuộc vào tình trạng hiện có. Họ nghĩ rằng như thế sẽ đem lại những quan điểm mới mẻ ấy mà.”

“Em cần biết gì về lão không?”

“Chú nói lão khốn nạn, thì chắc cũng biết ít nhiều về lão rồi đó. Thông minh thật, nhưng khốn nạn, không phải bàn. Độc ác, hẹp hòi, thích bè phái, giỏi chiêu trò công sở, đặc biệt thích đứng đầu, rất thạo bợ đít, luôn biết gió đang thổi chiều nào.”

Tôi không nói gì.

“Vô vọng với phụ nữ,” Joe bảo. “Cái đó anh nhớ.”

Tôi im lặng.

“Lão là ví dụ tốt,” Joe nói tiếp. “Cho việc anh bàn với em đó. Lão từng tham gia phân tích phe Xô Viết. Lão theo dõi lượng sản xuất xe tăng và lượng tiêu hao nhiên liệu của bên đó, theo anh nhớ là vậy. Hình như lão thiết kế thuật toán nào đó giúp ta tìm ra chương trình tập huấn của quân Thiết giáp phe kia dựa vào lượng tiêu hao nhiên liệu. Cả năm trời ấy lão phất lắm. Nhưng bây giờ anh nghĩ lão đã lường trước được tương lai. Quyết định thoát ra ngay khi tình hình còn đang thuận lợi. Em cũng nên làm vậy. Hoặc chí ít cũng thử suy xét xem. Như ta đã bàn ấy.”

Tôi vẫn không đáp.

“Còn bây giờ thì cẩn thận đấy,” Joe dặn. “Là anh thì không muốn lão Willard làm sếp mình đâu.”

“Em không sao đâu,” tôi bảo.

“Đáng lẽ ta nên ở lại Paris,” anh nói, và dập máy.

Tôi gặp Summer tại quán bar O Club. Cô cầm sẵn lon bia trên tay và đang ngả lưng vào tường trò chuyện với vài tay chuẩn úy cấp 2. Cô rời họ ngay khi vừa trông thấy tôi.

“Garber tới Hàn Quốc rồi,” tôi nói. “Ta có sếp mới.”

“Ai cơ?”

“Lão đại tá nào tên Willard đó. Từ bên Tình báo.”

“Nhưng ông ta phù hợp chỗ nào?”

“Lão có phù hợp đâu. Lão khốn nạn ấy.”

“Sếp tức lắm hả?”

Tôi nhún vai. “Lão bảo ta tránh xa vụ Kramer ra.”

“Ta có nghe theo không?”

“Lão cấm tôi nói chuyện với cô. Lão còn bảo sẽ từ chối đơn xin chuyển công tác của cô nữa.”

Cô im lặng. Quay mặt đi.

“Chết tiệt,” cô nói.

“Tôi xin lỗi,” tôi bảo. “Tôi biết cô mong lắm.”

Cô trở lại nhìn tôi.

“Ông ta nghiêm túc về việc Kramer đó chứ?” cô hỏi.

Tôi gật đầu. “Cái gì lão cũng nghiêm túc hết. Lão cho người bắt giữ tôi tại sân bay, chỉ để chứng minh quan điểm thôi.”

“Bắt sếp á?”

Tôi gật đầu lần nữa. “Có người khai báo vụ ẩu đả tại bãi xe của tôi.”

“Ai cơ?”

“Chắc tay quân nhân nào trong đám đông.”

“Người của ta sao? Ai thế nhỉ?”

“Tôi chịu.”

“Lạnh lùng thật đó.”

Tôi gật đầu. “Chưa bao giờ tôi bị vậy cả.”

Cô lại im lặng.

“Mẹ sếp thế nào rồi?” cô hỏi.

“Mẹ tôi bị gãy chân,” tôi đáp. “Bình thường ấy mà.”

“Người già dễ bị viêm phổi lắm đó.”

Tôi gật đầu lần nữa. “Mẹ tôi chụp X quang rồi. Không bị viêm phổi.”

Mi mắt dưới của cô cong lên.

“Sếp cho tôi hỏi một câu hiển nhiên nhé?” cô hỏi.

“Có à?”

“Hành hung thường dân là tội nặng. Và dường như ta đã có văn bản báo cáo cùng nhân chứng rồi, từng ấy thôi cũng đủ để bắt giữ sếp.”

“Thì sao?”

“Thì sao sếp vẫn được tự do đi lại thế này?”

“Lão Willard đang tạm gác qua vụ đó.”

“Tại sao phải làm thế, nếu ông ta thực là đồ khốn?”

“Vì nể thành tích của tôi thôi. Lão nói vậy đó.”

“Sếp tin không?”

Tôi lắc đầu.

“Chắc đơn tố cáo có vấn đề,” tôi bảo. “Một tay khốn nạn như Willard sẽ dùng nó để hại tôi ngay, chắc chắn là vậy. Lão đâu quan tâm gì đến thành tích của tôi.”

“Đơn tố cáo không thể có vấn đề được. Có nhân chứng quân nhân là tốt nhất rồi. Họ bảo hắn làm chứng việc gì thì hắn sẽ làm ngay thôi. Khác gì chính tay Willard viết đơn tố cáo ấy đâu.”

Tôi không trả lời.

“Mà sếp tới đây làm gì vậy?” cô hỏi.

Tôi chợt nghe tiếng Joe nói: Chú nên tìm hiểu xem ai cần mình tới trại Bird đến mức rút chú ra khỏi Panama rồi để cho một thằng khốn nào đó tiếp quản.

“Tôi chẳng biết mình tới đây làm gì,” tôi đáp. “Tôi chẳng biết gì cả. Kể tôi nghe về trung tá Norton đi.”

“Ta rút khỏi cuộc điều tra rồi mà sếp.”

“Kể tôi nghe cho vui thôi.”

“Không phải cô ta đâu. Có bằng chứng ngoại phạm. Lúc đó cô ta đang tiệc tùng tại một quán bar ngoài doanh trại. Thâu đêm luôn. Có gần cả trăm người ở đó cùng cô ta.”

“Cô ta là ai?”

“Chuyên viên đào tạo tác chiến tâm lý. Một tiến sĩ tâm sinh dục chuyên về tấn công trạng thái cảm xúc xoay quanh cảm giác về sự nam tính của đối phương.”

“Có vẻ là người thú vị đó.”

“Cô ta được mời đi bar tiệc tùng mà sếp. Rõ ràng có người thấy cô ta thú vị.”

“Cô đã kiểm tra danh tính tài xế của Vassell và Coomer chưa?”

Cô gật đầu. “Nhân viên gác cổng ghi vào sổ cái tên thiếu tá Marshall. Tôi tra thì biết hắn thuộc Quân đoàn XII đang tạm thời công tác ở Lầu Năm Góc. Có vẻ được ưu ái lắm. Hắn đã ở đây từ hồi tháng Mười một.”

“Cô đã xem qua lịch sử cuộc gọi đi từ cái khách sạn ở Thủ đô rồi chứ?”

Cô gật đầu lần nữa.

“Trống trơn sếp ạ,” cô bảo. “Phòng Vassell chỉ nhận một cú điện thoại gọi tới lúc mười hai giờ hai mươi tám phút buổi sáng. Tôi đoán đó là Quân đoàn XII gọi tới từ Đức. Cả hai ông chẳng ai gọi ra ngoài cả.”

“Không một cú nào sao?”

“Không một cú nào hết.”

“Cô chắc chứ?”

“Chắc chắn. Tổng đài điện tử mà. Muốn gọi ra ngoài phải bấm phím số chín, và máy tính sẽ tự động ghi lại. Phải thế đặng còn tính cước nữa.”

Đụng ngõ cụt rồi.

“OK,” tôi bảo. “Quên hết mọi chuyện đi.”

“Thật ư?”

“Lệnh là lệnh,” tôi nói. “Không tuân theo tất loạn.”

Tôi trở về văn phòng rồi điện tới Rock Creek. Tôi đoán lão Willard đã đi từ lâu rồi. Lão thuộc dạng cứ tới giờ là về thôi. Tôi nói chuyện với một thư ký đại đội và nhờ anh ta tìm giúp bản gốc lệnh thuyên chuyển công tác của tôi từ Panama về trại Bird. Anh ta trở lại ống nghe sau năm phút. Trong lúc chờ, tôi đọc bản danh sách mà Summer đã đưa. Chúng ghi đầy những cái tên chẳng có ý nghĩa gì với tôi cả.

“Tôi tìm được rồi đây,” người trên điện thoại nói.

“Ai ký duyệt thế?” tôi hỏi anh ta.

“Thưa, là đại tá Garber.”

“Cảm ơn anh,” tôi nói, rồi dập máy. Tôi ngồi đó suốt mười phút thắc mắc vì sao người ta nói dối tôi. Rồi chợt tôi quên bẵng đi thắc mắc đó, bởi điện thoại lại đổ chuông và một binh nhì Quân cảnh trẻ tuổi đang trên đường đi tuần quanh trại như thường lệ gọi báo phát hiện một người bị giết trong rừng. Có vẻ khủng khiếp lắm. Bởi cậu ta phải dừng tới hai lần để nôn ọe mới báo cáo xong nổi.