← Quay lại trang sách

Chương 3

Phốc, dậy lâu chưa? Tớ có thêm một giấc mơ nữa. Tự dưng tớ thấy mình ở giữa rất nhiều những cánh tay nõn nòn, oải mềm, tay nào cũng cầm một vật to, dài cỡ chuôi dao, hơi loang đen, phần đầu mum múp và mịn bóng. Những cánh tay ấy cứ vòn khắp người tớ với những tiếng ù ù hừ hừ rất khó hiểu nhưng không khó chịu mà lại cực kỳ khoan khoái.

Giờ thì tớ phải tắm cái đã.

Nước sáng nay cũng như mọi sáng, du dương, mềm mại. Tớ nhắm chặt hai mắt, thấy cơ thể mình được xoa bóp, vuốt ve dễ chịu y chang giấc mơ đêm qua. Nước là một người tốt bụng cậu ạ.

Không muốn ăn sáng nhưng tớ vẫn qua nhà Rồ mua xôi. Đang chống tay gãi nách sồn sột, thấy tớ, Rồ chồng ngoác miệng chửi:

- Mẹ cái đồ nhìn rau gắp thịt kia.

Rồ vợ lừ mắt ra hiệu cho chồng im mồm rồi cầm tờ tiền tớ đưa, định đơm xôi xéo như mọi khi, nhưng tớ lắc đầu bảo lấy xôi lạc vì từ nay tớ sẽ thích xôi lạc.

Khi tớ ngoái sang Rồ chồng thì hắn đã đi vào nhà.

Rồ vợ lau tay vào cái khăn mặt ướt, hỏi nhỏ xem ai xui khiên mà thi thoảng đêm hôm tớ lại mò sang đập cửa nhà người ta. Tớ chẳng hiểu Rồ vợ muốn gì nên cũng chang đáp lời. Rồ vợ nhìn bâng quơ qua vai tớ, môi trễ xuống.

Lanh bảo loại người bán hàng ăn mà có cái nhìn bâng quơ là cực hiếm. Rồ vợ trước làm nhân viên trông thư viện thành phố, vì sinh con ngoài kế hoạch nên cơ quan bắt phải thôi việc. Nếu không triệt sản thì có khi chị ta còn đẻ thêm một lô một lốc nữa. Chả bù cho Lĩnh, cứ khiến gia đình ông Văn hóng mãi mà cuối cùng chẳng có gì.

Tự dưng tớ nhớ Lĩnh quá thể.

Rồ chồng vừa đi ra vừa chửi đổng tiên sư đứa nào nghĩ ra cái trò ị đái trong toa lét, mất thòi giờ của hắn. Nghe nói hồi trước Rồ chồng toàn đái ở ngoài trời, từ ngày lấy vợ mói, bị vợ bắt vào đái trong toa lét thì đâm ra khó chịu, lần nào cũng chửi đổng như thế. Chửi thành quen miệng, có hôm đái bậy ở gốc cây mà Rồ chồng cũng vẫn chửi câu đó.

- Ngó cho tôi xem bọn trẻ con chúng nó đang giở trò gì mà ầm ĩ thế.

Rồ vợ bảo chồng khi nghe cả mớ âm thanh gào khóc mè nheo của bọn trẻ phía trái nhà. Rồ chồng nhìn tớ, đầu hơi nghênh nghênh, cặp môi dày thâm chúm lại rồi mở ra để lộ mớ răng vàng khé, lởm khởm:

- Đéo có buồi thì chả sợ con nào.

Tớ chẳng chấp cái loại lúc nào cũng lủng lẳng, cũng phồng căng một cách thô lậu. Rồ vợ xem chừng cũng đồng tình cùng tớ nên đã cô tình nghiêng người chạm nhẹ vai vào vai tớ. Có lẽ Rồ vợ họp với tớ hơn là với chồng.

Lâu rồi, tớ nghe kể, mà chính ông Trần phó chủ tịch cựu chiến binh kể chứ ai nữa, rằng trước khi chuyển ra đây thì Rồ vốn ở Túc Duyên. Vì gia đình gặp vận đen, cùng lúc có ba cái tang, xiêu điêu nên hắn mói phải di chuyển. Mẹ Rồ chết vào mùng bảy tháng Bảy, sau đó đến em gái Rồ, chết vào mùng chín tháng đó và hai tháng sau thì vợ Rồ trúng gió, chết ngay bậc cửa nhà. Người ta bảo thế là trùng tang. Vì mẹ Rồ chết vào giờ xấu, nhiều người đã xui mời thầy về làm lễ giải hạn nhưng hắn không chịu nghe, còn khểnh miệng nói bà cụ đã tám mươi thì đi ngày nào cũng là ngày tốt. Khi nghe điện thoại của cậu em rể nói em gái mình bị xe máy tông thẳng vào, bay xa đến hơn năm mét mà người chẳng xây xước gì, Rồ vẫn nghĩ đó chỉ là vụ va quyệt nhỏ, thậm chí các bác sĩ cũng nghĩ vậy. Đúng là ngay sau vụ va quyệt, em gái Rồ vẫn tỉnh táo, bình thường. Nhưng chỉ nửa ngày sau, trên đường tới cơ quan, ngồi sau xe máy của chồng, thì em gái hắn bỗng nôn khan, rồi ngã vật xuống chết đứ đừ, không kịp trăng trối lấy một câu. Cái chết của cô em gái khiến Rồ vội vã đi mời thầy về làm lễ. Hắn sì sụp lễ bái, phèng la, hương khói liên miên mấy buổi để giải hạn, vậy mà hai tháng sau thì đến lượt vợ chết. Thế là Rồ vứt bỏ hết cả bát nhang, bàn thờ, đấm vẹo mũi ông thầy, từ đấy đi qua đền miếu, chùa chiền mặt cứ vác lên, khinh khỉnh, hằn học. Rồ lấy vợ mới và chuyển hẳn ra đây để sinh sống.

Cậu bảo người như thế, có nên dây vào không? Dứt khoát là không rồi. về pha trà thôi.

Này, ngồi vào cái ghế Đại tá thường ngồi, vừa uống trà bằng cái chén bác ấy hay uống vừa ngó xem cậu đang lục sục trong cái chuồng nhỏ bé làm từ chiếc ngăn kéo bàn hỏng cũng thú ra phết.

Từ ngày Đại tá vào nằm viện, rõ ràng cậu trở tính trở nết, cậu không cho ai động vào mình, lúc nào cũng bồn chồn, rầu rĩ, chẳng thiết ăn. Đói lắm cậu cũng chỉ la liếm lấy lệ cho đỡ nhớ thức ăn rồi lại nằm bẹp gí, gối mõm lên hai chân trước, đôi mắt gà gật nhìn không cố định vào đâu. Chẳng bù cho dạo trước, Đại tá đi một bước cậu chạy vòng quanh ba bốn bước, Đại tá ngồi, cậu phủ phục ép sát vào chân bác ấy, Đại tá nằm trên giường thì cậu ra ngoài cửa trông nhà. Chính cậu là công vụ mới đúng Phốc ạ.

Giờ thì cậu khác nhiều, ít sôi nổi mà hay ưu sầu, thi thoảng chạy ra cổng ngó ngơ, rồi lại thất vọng lử lả quay về chỗ nằm. Nhiều lúc tớ còn hình dung cậu đưa chân trước lên miệng nhằn móng, mặt tư lự, xa xôi.

Suỵt, Thảnh sang.

Thảnh đẩy cánh cửa sắt qua một bên, nghe con sáo đá the thé cất tiếng giọng mũi tiến tấu tiến tấu, anh ta cau mày dứ nắm đấm về phía chiếc lồng rồi đi thẳng tới chỗ cậu. Cảnh giác, con người này hay lấy chân thúc vào bụng cậu lắm đấy. Biết ngay mà. Thúc chân xong, như mọi lần lại lẩm bẩm đúng câu ấy:

- Xem mày lạnh nhạt với tao được đến bao giờ.

Cậu ư hừ, khinh khỉnh nhắm mắt lại. Tớ cũng thấy đau nhói ở bụng.

Thảnh trề môi, ra hiệu cho tớ đứng dậy nhường ghế cho anh ta ngồi. Tớ chuyển sang ghế bên cạnh, hơi xoay người lại. Thảnh ngồi sập xuống, cầm ấm trà rót nước nhưng không còn giọt nào liền đặt trở lại vị trí cũ, ngửa cổ ra sau dùng ngón trỏ vê ghét ở yết hầu.

Tớ chẳng thèm chế thêm nước vào ấm cho Thảnh vì tớ biết dù có cố mấy thì anh ta cũng không bao giờ ngồi vừa cái chỗ của Đại tá.

Tiếng là người thường xuyên đảo qua nhà Đại tá, nhưng mỗi lần qua Thảnh cũng chỉ như khách vãn cảnh chùa, thọc tay vào túi quần hoặc chắp hai tay ra sau, đi lại ngó nghênh, tiện có ấm trà pha sẵn thì làm một vài chén, không thì cun cút về lôi truyện chưởng ra đọc. Cái sân đầy lá rụng trong khi Đại tá đau lưng không quét được, Thảnh cũng mặc kệ, nếu có ai phàn nàn gì thì anh ta lại viện cớ mình vừa giữ chức trưởng phòng hành chính, vừa kiêm phụ trách công đoàn của cơ quan nên bận bịu như nuôi con mọn, hết giờ làm lê thân về được nhà đã may, sức đâu phục vụ người khác. Mọi việc đỡ đần, chăm sóc Đại tá Thảnh lẳng lặng phó thác cho Lĩnh và tớ. Sau khi Lĩnh dọn ra ngoài ở thì mình tớ phải gánh vác hết. Cái vòi nước ở bếp của Đại tá bị hỏng, bác ấy nhờ Thảnh thì anh ta lại sai tớ tìm người chữa, giường long mộng cũng tay tớ gọi thợ vào dộng lại, đến cậu bị xe cán què chân nằm bệt ở rìa đường thì Thảnh cũng chẳng mó tay vào mà gọi tớ đến bế cậu về. Cậu có thể...

- Này, có phải mày bảo mày chỉ là công vụ phải không?

Chờ chẳng thấy tớ động tĩnh gì, Thảnh gây sự khiến tớ giật mình, lưỡi cứng dơ. Thảnh được dịp lại giở giọng đay nghiến chuyện nhà tớ:

- Mẹ, loại vớ được vàng mà không biết giữ thì con cái làm công vụ là còn may.

Ừ, tớ công nhận là may thật. May là Lanh xuống. Có mặt vợ nên Thảnh cũng nói sang chuyện khác. Vừa vấn lại tóc, Lanh vừa ngai ngái hỏi xem ai đang trực trong viện. Thảnh vẫn không ngưng tay vê ghét, đáp:

- Thằng kia chứ ai nữa. Rót tí nước vào đây, từ sáng tới giờ chưa được chén trà nào.

Cậu phải hiểu thằng kia tức là Hoành đấy.

Lanh nhấc cái phích ở ngay sát chân Thảnh, chế thêm nước vào ấm, ngồi xuống thấy gói xôi tớ để trên bàn liền giở ra véo từng miếng nhỏ, uể oải nhai. Thảnh nhấm nháp chén trà, mặt giãn ra, phởn phơ, lơ lả, bảo với tớ và Lanh là thằng Mẫn con bà Thảo đã bỏ trốn.

Tớ ngạc nhiên, ngoái cổ sang hỏi lại cho rõ thì Thảnh nghênh nghênh cái đầu, dài giọng:

- Ông kễnh con ấy đánh một con đề ba trăm triệu, giờ không có tiền trả phải bỏ trốn.

- Gớm, ba trăm triệu lại còn may. cắm sổ đỏ rồi kia kìa.

Lanh đã biết chuyện về Mẫn trước cả chồng mình, giờ bổ sung thêm thông tin. Lẽ ra Mẫn đánh con đề đó ở chỗ Lanh nhưng đã bị chị ta từ chối khéo vì không muốn dính dáng tới người quen thân.

Cậu lạ gì. Bố Mẫn là ông Phan, thương binh nặng ở mặt trận Quảng Trị, mới mất cách đây ba năm, mẹ là bà Thảo, làm công tác cán bộ của điện lực tình, đã về hưu. Hai vợ chồng hiếm muộn, mãi tới năm bảy mươi chín mới sinh được thằng Mẫn. Vừa là hàng xóm, vừa là lính lại họp tính nhau nên ông Phan chơi thân với Đại tá. Mỗi lần ông Phan sang là tớ phải pha một ấm trà đặc cho hai người vừa uống vừa nói chuyện. Bề ngoài ông Phan trông lạnh lùng, khó gần, nhưng tiếp xúc lâu lại thấy đó là người hóm hỉnh, tình cảm. Dạo thằng Mẫn còn bé, vợ chồng ông Phan hay gửi nó sang nhờ Đại tá trông giúp vì họ phải đi làm cả ngày cho nên thằng Mẫn gắn với bác ấy nhiều hơn với bố mẹ. Tốt nghiệp đại học, Mẫn về làm ở Cơ quan cũ của bà Thảo rồi lập gia đình với một cô giáo dạy cấp hai ở Cát Nê. Hai vợ chồng nó đã có một đứa con lên ba tuổi.

Theo Thảnh thì chuyện đánh con đề của Mẫn chỉ là vòng ren cuối cùng để con ốc văng ra. Thực ra từ lâu nó đã theo bạn bè trong cơ quan làm ăn, hùn nhau mua một mỏ than nhỏ, khai thác bán sang Trung Quốc. Thời gian đầu có lãi, nó tậu hai, ba miếng đất trong khu Đán, rồi bên kia họ mua than với giá rẻ, sau đó không mua nữa, thế là lỗ vì vẫn phải trả lãi ngân hàng. Nợ lớn cõng nợ bé, phải bán đất đi trả mà vẫn không đủ, túng quẫn, nghe người ta xui, nó biện cái lễ xin bố phù hộ cho mình đánh một con đề ba trăm triệu để trả nợ. Con đề ấy chẳng về. Nhân lần tháp tùng giám đốc đi Đà Nẵng công tác, nó bỏ trốn, đến nay đã hơn một tuần mà vẫn bặt âm vô tín. Trước khi trốn, nó viết đơn ly dị và ký sẵn để lại cho vợ.

Tớ lén lau những vụn mồ hôi lấm tấm trên hai cánh mũi, thắc mắc trong bụng, nếu thằng Mẫn thua đề ba trăm triệu thì có thể vay thế chấp nhà để trả, sao phải trốn.

- Đấy, vấn đề nó ở chỗ ấy. Nhà nó bán rẻ cũng phải được bốn tỉ. Cứ cho là trả nợ tất tần tật hết năm trăm triệu đi, còn ba tỉ rưỡi, có thể mua nhà khác ngon ơ. Sao phải trốn cơ chú.

Thảnh hào hứng mở cửa cho cái sở trường phân tích, phán đoán của mình sổ lồng. Tớ thấy Lanh tẹt môi không chỉ với Thảnh, mà với cả tớ:

- Không thể là nợ vài trăm triệu được. Nếu vài trăm triệu thì nó đã thế chấp sổ đỏ hoặc bán nhà trả ngay, còn lâu mới bỏ vợ bỏ con để trốn như thế. Vợ nó chán, bế con về nhà ngoại rồi.

Lanh tiết lộ rằng sổ đỏ không phải đang nằm ở ngân hàng như bà Thảo nói với mọi người, mà lão Khải trùm cho vay nặng lãi ở Lưu Xá đã cầm, cho nên muốn bán nhà cũng khó. Lão Khải thì tớ biết, đó là người còn ghê gớm hơn cả ông Văn. Đã tám mươi mốt tuổi mà vẫn còn uy lực, cầm trịch gia đình hai tư con cháu chuyên cho vay lãi. Thế lực của lão mạnh vì có tới chín đứa con cả dâu lẫn rể làm trong ngân hàng.

Tớ đứng dậy, bất chợt nhìn thấy một con bọ ngựa xanh lét bậu trên cành hoa giấy đang nghển cổ ngó vào nhà. Hóa ra nó lén lút hóng hớt câu chuyện từ lúc nào mà chả ai hay, cậu cũng chả hay. Thế là bố láo chi khươn, bất lịch sự, cậu có công nhận không.

Con bọ ngựa hoảng hốt, tẽn tò vì bị bắt quả tang lẩn ngay vào đám lá khi tớ cầm hóa đơn thuốc bước ra cửa.

*

Xuống cửa hàng của bà chị gái Oánh ở Xuyên Từ mua mấy lọ thuốc đặc trị mà anh ta kê để dùng thử cho Đại tá, quay về tớ đã thấy bà Thảo ngồi nói chuyện với Hoành và Sửu. Bằng cái giọng giao giảo, khác với cách nói chậm rãi, từ tốn vốn có, bà Thảo khẳng định mình có thể bán nhà trả nợ cho con mà vẫn còn thừa để mua một căn nhà khác nhỏ hơn để sống. Thế nhưng trước khi ra về, đột nhiên bà ta lại bấu lấy vai Sửu, nức lên:

- Bây giờ cô chỉ muốn biết em nó còn sống hay không thôi. Lỡ nó mà mệnh hệ gì thì cô chết mất.

Sửu ân cần tiễn bà Thảo ra tận cổng, luôn miệng ngọt nhạt động viên bà, khi quay vào mặt anh ta thoắt cái đã lạnh tanh như vừa ném xong túi rác. Hoành phùng má, trợn mắt bảo:

- Đừng có nghe bà ấy, bây giờ cùng quẫn nên nói dối như cuội rồi đấy. Bác không biết chứ, trước khi thằng Mẫn trốn đi, nó có qua cửa hàng của em hỏi vay nóng trăm triệu. Em nghi nghi, nghĩ bụng, mẹ kiếp, tại sao mày lại cần trăm triệu đột ngột như thế. Em liền bảo, Mẫn ơi, anh vừa dồn tiền mua thêm con xe tải cho chúng nó chạy đường dài nên chẳng còn đồng mẹ nào. Còn, anh cho mày vay ngay. Thông cảm cho anh nhé, anh chẳng tiếc đéo gì chú cả.

Hoành châm điếu thuốc, co chân lên ghế, rít hơi dài, thả khói ra cả mũi lẫn mồm rồi thủng thẳng nói nốt:

- Đấy, bác bảo, hôm ấy em mà không tỉnh táo, con cón mở két đưa cho nó thì bây giờ coi như buộc trăm triệu vào chân chim, mà lại còn mang tiếng là ngu nữa chứ. May thật. Đúng là thời này chẳng tin bố con thằng nào cả.

Như được gãi đúng chỗ ngứa, Sửu khoái sướng hùa theo khen Hoành nói chí lý. Tớ cam đoan với cậu là lục phủ ngũ tạng của hai người đang nhảy múa lộn sòng bên trong.

Con người ta nó thế đấy Phốc, dễ đổi lòng thay dạ.

Trước, Sửu là bí thư đảng ủy, phó giám đốc xí nghiệp luyện kim màu, lúc nào cũng đạo mạo, mở mồm là lý tưởng là đạo đức, đến Đại tá cũng phát bực lên. Từ khi mất chức do đấu đá nội bộ thì anh khác hẳn, mắt khác, mồm khác, cả trán cũng khác, mọi thứ cứ hầm hè giương lên trong tư thế sẵn sàng nghênh chiến.

Nhìn mà xem kìa, nhìn xem Sửu hả hê tựa cả người vào thành ghế, hai tay vắt sang hai bên như chim sải cánh kìa. Sau lưng anh ta bức tường bị ẩm bởi đường ống thoát nước mưa vỡ, loang lổ các đốm vân xanh viền trắng đủ kích cỡ, hình thù hệt những đám mây cuống cuồng vần vũ. Thi thoảng mủn vữa lại rớt xuống với tiếng thở dài thoang thoảng, thầm kín mà chắc là chẳng bao giờ Sửu nghe được.

Sao thế, sao bỗng dưng cậu rít ư ử, lao vụt ra cổng sau đó quay vào như kẻ đi xa mệt mỏi, sụp đổ trở về thế?

- Em nghi thằng này vẫn quanh quẩn ở trong nước thôi, không dám sang Trung Quốc đâu. Các bác bảo, lấy đéo đâu ra tiền để sang bên ấy sống.

Miệng nói, tay Hoành gí mẩu cuối điếu thuốc vào cái gạt tàn bằng thủy tinh, những lọn khói đau đớn oằn oại, giãy giụa. Bên nhà Thảnh vang lên tiếng quát tháo rất dữ. Hoành nghênh đầu, giỏng tai rồi chép miệng:

- Lại chiến tranh.

Lời cậu ấy chưa dứt, đã thấy Tuyên, ôm cái iPad hậm hực sang, cổ áo phanh ra ngổ ngáo, xấc xược, qua chỗ treo lồng chim, nó giậm chân thật mạnh khiến con sáo đá mở choàng mắt, nhướn cổ uốn lưỡi gào lên tiến tấu, tiến tấu, rồi lại rụt cổ nhắm mắt chìm vào trạng thái ủ rũ trước đó. Tuyên thả cái thân hình đèn dẹt xuống ghế, vớ bao thuốc của Hoành để trên bàn, rút một điếu châm hút. Hoành nói xẵng, giọng như tiếng va của hai tảng đá:

- Bố con mày giống nhau, thấy thuốc là hút, đéo hỏi lấy một câu. Cài cúc áo ngực vào, đừng có học cái thói lấc cấc của bọn du thủ du thực.

Tuồng như những lời của Hoành rơi ngỏm xuống cái màn hình iPad xanh đỏ xao động mà Tuyên đang cắm mặt vào. Tớ cúi xuống vờ tìm gì đó ở gầm bàn, còn Sửu thì mượn cớ quan tâm để khơi chuyện xem vì sao Tuyên bị mắng, nhưng nó không bắt lời, mặt chỉ hơi tái đi, hàng ria mép lim phún lệch về bên trái.

- Chắc bố mày vẫn ngứa dái vụ con bé kia phải không?

Hoành sỗ sàng hỏi. Tuyên rời mắt khỏi cái màn hình, nhìn lơ láo lên trần nhà, khói thuốc tuồn ra từ lỗ mủi như ống xả xe máy bị gằn.

Hai năm liền thi trượt đại học, Tuyên chán nản suốt ngày vùi đầu vào chơi game, vì thế Thảnh rất ghét. Gần đây nghe phong thanh nó cặp kè với một con bé nhà mãi tận bên Gờ Đậu, Thảnh lại càng hận. Con bé đó là cháu ông Khang bán tương, người mà năm bảy mươi hai bị bắt vì nghi làm chỉ điểm cho máy bay địch đánh phá.

Hoành duỗi chân, ưỡn người, ra rả mắng Tuyên là loại ngu chẳng kém gì Hương Mai. Đã vô công rồi nghề thì phải chăn đứa nào rủng rẻng một tí, ai đời nhắm mắt nhắm mũi lao vào con nhà rách như tổ đỉa, đến đít cũng không có cứt mà dính, đã thế lại quê mùa tít tắp. Sau đó Hoành bảo Tuyên sang làm thêm cho cậu ấy để có tiền tiêu vặt, đỡ mang tiếng ăn bám.

- Thế chú trả bao nhiêu?

Tuyên ngỏng cổ, lên tiếng gần như ngay sau câu mời chào của Hoành. Hoành cười thành tiếng, phô ra cả bộ răng vàng ố vì khói thuốc.

- Mẹ, con cháu nhà này đứa nào cũng sát ván các bác ạ. - Rồi cậu ấy quay sang Tuyên - Chú trả ba triệu một tháng, được chưa? Mà nói thật, nếu mày thấy chưa được thì chú thuê ngay người ngoài, rẻ như bèo luôn, chỉ có hơn triệu thôi.

Sửu oang oác nói riêng với tớ về khả năng có thể Thảnh không đồng ý vì con ông cả phải đi làm thuê làm mướn cho ông em út nghe chừng cũng chướng. Đã thuộc làu cái bài chọc ngoáy bóng gió của người anh rể nên Hoành bỏ qua không thèm chấp. Tuyên thì khác, nó chân thành nhún vai khủng khỉnh đáp lại là chắc bố nó phải mừng hú lên.

- Giỏi, mày chỉ được cái thuộc tính thuộc nết của ông anh tao.

Hoành đắc ý vỗ đùi khen, khiến tớ thót lên đau buốt như ngồi phải cọc nhọn.

Chẳng biết làm thế nào để hết cái tật đau hậu môn khi nghe người ta khen nhau.