← Quay lại trang sách

Chương 5

Thấy Hòa, Đại tá cố nhổm dậy nhưng không được, bác ấy giống như quả bóng bay thủng.Hòa cầm tay Đại tá nhấc lên, nắn nắn, bóp bóp sau đó thả xuống một cách lỗ mãng, rồi tiếp tục lật tấm chăn mỏng phủ người bác ấy sang bên làm lộ ra một cơ thể teo tóp, với những nám màu nâu xỉn trên nền da vàng nghệ, những lóng xương lồng ngực và xương sườn hằn rõ dưới lóp da thịt nhũn nhèo đang tóp lại. Đại tá rên rẩm trước cái nhìn vạch vòi của Hòa, tớ tín rằng nếu còn khỏe mạnh, hẳn bác ấy sẽ nổi xung lên.

Xem ra chính Thảnh cũng có vẻ không vừa lòng, vì tớ thấy lông mày anh ta cau lại.

Cũng may là đến giờ vệ sinh phòng cho nên y tá vào xua mọi người ra ngoài hết. Thảnh kéo tấm chăn đắp lại cho Đại tá, rồi bọn tớ ra ngoài cổng viện tìm quán nước chè ngồi trò chuyện.

Hòa cho Thảnh biết mạch của Đại tá đã rời rạc, thoi thóp, cùng lắm chỉ trụ thêm được vài ngày và anh ta phỏng đoán bác ấy sẽ mất vào quãng nửa đêm về sáng.

Thảnh không nói gì, chỉ chăm chú nghe, nhưng tớ thì hăng giọng cố gắng át đi lời Hòa. Dường như cũng nhận thấy mình đã quá đà, Hòa lái sang chuyện khác, anh ta khoe vừa đi lên Điện Biên, vào tận Tủa Chùa, học được bài thuốc chữa ung thư của người Thái đen. Bài thuốc này đơn giản nhưng hiệu nghiệm, chỉ cần dùng tay trái ngắt một nắm lá, sau đó vẫn phải dùng tay trái, tuyệt đối không cho tay phải chạm vào nắm lá đó, đem vắt lấy nước và trộn với máu của ba con vật màu đen là con vịt con lông đen, con chó con lông đen và con mèo con lông đen rồi xoa lên khắp người con bệnh, đảm bảo sau một tuần thì khoanh vùng được ổ ung thư, sau một tháng sẽ tẩy sạch luôn căn bệnh. Tớ hỏi đã áp dụng bài thuốc ấy chữa cho ai chưa thì Hòa xoa cằm không đáp, lại kể lảng sang chuyện hồi trước bố anh ta mất thanh thản, nhẹ nhàng như thế nào.

Buổi sáng hôm ấy thầy Quyền vẫn ăn hết bát mì tôm, sau đó pha trà ngồi uống như mọi khi. Qua tuần trà đầu, ông ta bảo con dâu, chính là cái cô người dân tộc nói lơ lớ đấy cậu ạ, chạy đi gọi ngay Hòa về. Lúc ấy Hòa đang đưa hai đứa nhỏ đi học, khi anh ta về thì thầy Quyền đã vào giường nằm. Thầy Quyền hất đầu ra hiệu cho con dâu ra ngoài, rồi hỏi con trai: Có nhớ ngày đầu tiên đi học lớp vỡ lòng, bố dặn gì không? Hòa lắc đầu thú nhận không nhớ. Thầy Quyền lại hỏi: Nhớ khi mẹ chết bố viết thư dặn gì không? Hòa đáp: Có, trong thư bố dặn con là lúc nào cũng phải coi như mẹ đi vắng chứ không phải chết. Thầy Quyền nhắm mắt ra chiều công nhận, lại hỏi: Thế lúc đi bộ đội, bố dặn gì? Hòa trả lời: Bố dặn là không được phản trắc, không được hèn. Thầy Quyền ngước mắt nhìn lên trần nhà, con dâu mang nước đường vào, ông ta lắc đầu từ chối. Khoảng ba giờ, thầy Quyền hỏi con trai: Chân thế nào? Hòa dùng tay thăm thật kỹ, bảo đã hơi lạnh. Thầy Quyền hài lòng, nói: Vậy là sắp đi. Những gì bố dặn lúc trước, bây giờ vẫn như thế, nhớ chưa? Hòa xác nhận: Nhớ rồi. Thầy Quyền hỏi: Nhớ thế nào? Hòa nhắc lại: Lúc nào cũng coi như mẹ đang đi vắng thôi, cả bố cũng đang đi vắng thôi. Thầy Quyền thều thào, giọng lịm dần đi: Ừ, không được hèn, không được phản trắc anh em...

Hôm thầy Quyền chết, bầu trời Tuyệt Sơn xuất hiện một vết nứt chạy chéo từ Tây bắc sang Đông nam, khoảng hơn tiếng sau thì tan biến và trời lành lại. Đó là ngày mười sáu tháng Bảy. Cậu biết là ngày gì không? Ngày mặt trời lên thiên đỉnh ở Thái Nguyên. Đấy là Hòa bảo vậy.Nhưng tớ lại từng hình dung về cái chết của ông thầy Quyền thế này: không hiểu sao tớ thấy mình đứng trước miếu Ngài, sân miếu đèn đuốc sáng choang, người ngựa nhốn nháo bâu lấy một chiếc xe đen vẽ rồng với hàng cờ sặc sỡ cắm hai bên thành xe. Rồi trong miếu có tiếng hỏi hách dịch: Đã cho người đi triệu về chửa?

Tiếng ngoài sân đáp lại: Dạ bẩm, bắt đầu lên đường rồi ạ. Tiếng nói trong miếu bảo: Ừ, đường sá xa xôi, diệu vợi, đi gấp kẻo muộn. Thế là tớ chạy một mạch đến gọi cửa nhà thầy Quyền kể lại cho ông ta, rồi bảo như thế là ông ta sắp chết. Thầy Quyền há mồm nghe xong, sụp xuống chân tớ, giọng run rẩy: Lạy ngài, con về ngay. Mình cậu biết về hình dung ấy thôi đấy nhé. Hòa không biết, Đại tá không biết, không ai biết hết.

Thấy Hòa hơi cúi đầu, miệng hé ra, tớ đoán thế nào anh ta cũng nói tiếp gì đó. Đúng thật.

- Chôn ông cụ nhà tôi xong, tôi mới nhận ra là chưa bao giờ cụ đi xa khỏi nhà quá năm cây số. Lạ thật.

- Bà cụ thì có vẻ đi nhiều, anh nhỉ.

Thảnh thêm vào cho có chuyện.Tớ nghe nói mẹ Hòa chết vì vướng phải dây điện trần của nhà hàng xóm bị đứt, thõng xuống ngang lối bà hay đi gánh nước. Lá thư báo tin dữ của thầy Quyền phải lặn lội vượt núi, xuyên rừng gần hai tháng qua hàng chục trạm giao liên mới tới được tay Hòa.

Gió mạnh làm lá tơi tả rụng xuống và bóng cây trương phình trên vỉa hè gạch nâu đỏ. Ông bán nước chè nhấc cái ấm đen thủi đen thui lên, dùng que sắt chọc dúi dụi vào lòng bếp để tìm không khí và lửa bùng lên như một ngọn núi bị chọc tức. Thế nhưng có lửa mà chẳng có mùi lửa. Tớ e dè hỏi ông bán nước xem tên ông ấy có phải là Vận không. Ông bán nước chè gật đầu và tớ thấy một con gì đó nửa ruồi nửa ong hốt hoảng bay khỏi chỏm tóc ông ấy. Thảnh cau có nhìn tớ, mũi chun tũn lại.

- Trước khi bị, cụ có biểu hiện gì bất thường không?

Câu hỏi đột ngột của Hòa làm Thảnh giật thót, anh ta đặt chén trà xuống, liếc xéo sang tớ.

- Em cũng chẳng rõ, để hỏi lại chúng nó xem, nhưng chắc là không.Mặt Hòa căng lên, giọng kẻ cả:

- Chú là trưởng mà vô tình với ông cụ như thế, các em nó trông vào không hay ho gì đâu. Thôi, đừng hỏi.

Tớ nghĩ Thảnh liếc xéo sang tớ là đúng, còn Hòa trách Thảnh thì lại sai bét nhè. Mấy khi Đại tá tâm sự với Thảnh đâu, chỉ tâm sự với tớ và cậu thôi, đúng chưa? Vì thế mà chỉ bọn mình mới biết bác ấy có biểu hiện hay không có biểu hiện bất thường, chứ Thảnh sao mà biết được. Tớ rất muốn bảo với Hòa là có đấy, có biểu hiện bất thường đấy. Này nhé, mấy hôm trước khi bị đột quỵ, trong giấc ngủ bác ấy thường thấy lại ngôi nhà hồi bé bác ấy ở cùng với bố và các anh em của mình. Mặc dù ngôi nhà không còn nữa, nó đã bị phá đi, trên nền cũ, gia đình bác hai tớ xây lên căn nhà hai tầng mái bằng, nhưng trong mơ bác ấy vẫn thấy nó còn nguyên vẹn, với ánh lửa loằng nhoằng hắt từ bễ lò rèn lên những bức tường màu cháo lòng và bộ cánh cửa bằng gỗ trang trí hoa dây leo. Toàn bộ ngôi nhà cùng khung cảnh xung quanh mang một không khí ủ dột, lưu cữu, thoắt gần gũi, thoát xa lạ, thành ra lúc tỉnh dậy bác ấy thấy người rất mệt mỏi. Khi kể lại chuyện này với tớ, bản thân giọng bác ấy đã thế hiện sự mệt mỏi đó với những quãng hẫng hụt dài như bị rút hết không khí.Đấy chẳng phải là biểu hiện bất thường thì là gì nào?

Nhưng có điều này thì tớ hoàn toàn không hiểu, là thời điểm ấy tuy Đại tá đã rất hay lẫn, thế nhưng riêng những gì về gia đình, về bác cả, bác hai thì bác ấy lại nhớ chi li như mới xảy ra vài ngày gần đây. Chính vì thế mà tớ với cậu mới láng máng chút ít về cuộc sống của gia đình mẹ tớ đúng không Phốc.

Chả giấu gì cậu, tớ vô cùng hãnh diện khi biết trong thị xã, ông ngoại tớ thuộc loại khá giả, nhà cửa sân vườn rộng rãi, có đủ bộ sập gụ tủ chè, đèn măng sông mạ vàng và quạt trần bốn cánh mang từ Pháp sang. Mà sản phẩm của xưởng rèn ông ngoại tớ nổi tiếng nhất là dao, nhỉ cậu nhỉ. Đủ loại dao, từ dao phay dài cả thước cho tới loại dao bé bằng hai ngón tay. Đại tá bảo bác ấy còn nhớ nguyên tắc của ông ngoại tớ là dao càng to càng không được sắc quá vì dễ trở thành hung khí. Đại tá cũng kể trong số thợ làm thuê, có một ông già rất giỏi. Những khi rảnh rỗi ông thợ rèn già này thường kể chuyện cho bác ấy nghe, toàn chuyện lạ lùng, kỳ dị mà ông ta chứng kiến trong cả quãng đời lang thang kiếm sống của mình. Chỉ đến khi ông thợ rèn già chết, ông ngoại tớ sa đà vào rượu chè, mấy người con lại chẳng ai theo nghề thì bễ lò mới leo lét dần. Đến lúc xảy ra chuyện bác hai tớ mê đắm cô Ngải, mê đến mức người xọp như cái bánh mì bị moi ruột, sau đó cùng với bác cả thoát ly đi hoạt động cách mạng thì gia đình ông ngoại tớ rơi rụng như bông hoa tàn mà Lĩnh có lần từng ví với tớ.

- Nếu đặc quá thì tôi chế thêm tí nước.

Mặc bộ quần áo bộ đội cũ nhàu, người hom hem, lại không cạo râu tóc cho nên cả người ông bán nước chè cứ như bụi cỏ úa tàn. Tớ vẫn đinh ninh đây là ông Vận, chắc chắn là ông Vận vì tay ông ấy còn vết sẹo do đóm thuốc lào đốt. Khi tớ thổ lộ điều này với Thảnh thì anh ta gắt khẽ:- Sao mày cứ cố tình làm nhục ông cụ nhà tao thế?Tớ đau lắm Phốc. Ông bán nước chè cũng đau vì tớ thấy tay ông ấy run run khi chế thêm nước vào chén của tớ. Cả tớ và ông ấy cùng ngó lên những biển hiệu quảng cáo. Ở đấy nụ cười mê hồn của hoa hậu, mông trẻ con đóng bỉm, hàm răng trắng như băng Bắc Cực và những con chữ xộc xệch, dị kỳ đầy ấn tượng quấn quýt lấy nhau thành một thế giới vui vẻ. Đại tá kể với tớ là năm một chín bảy mươi lăm, đặt chân tới thành phố Sài Gòn, lúc lùng sục tìm người để chuyển cái ba lô về cho gia đình anh chàng chụp ảnh đã chết, bác ấy bị choáng váng vì sa vào một thế giới biển quảng cáo trên các con phố. Lần đầu tiên bác ấy lúng túng, thậm chí là mặc cảm vì chẳng hiểu chút gì về nội dung của chúng, những tấm biển quảng cáo sặc sỡ, xa lạ đó.Có lần Hoành bảo tớ là biển hiệu quảng cáo lúc nào cũng văn minh tiên tiến hơn người xem nó.

Thấy tớ với ông bán nước chè ngó cái thế giói vui nhộn ấy, Hòa cũng tò mò ngó theo. Lúc sau anh ta nhìn thẳng vào mắt Thảnh, giọng trầm xuống:- Này, tôi sẽ tìm cách lo một chỗ ở bên Tuyệt Sơn cho nó gần.

Đột nhiên tất cả các hình quảng cáo chảy xệ xuống, nhòa đi.Nhắc tới Tuyệt Sơn là nổi da gà Phốc ạ...

Năm nào bên ấy cũng có dăm ba người chết vì sét. Mùa hè, những cơn mưa bất chợt luôn là nỗi sợ của người dân Tuyệt Sơn. Cậu không thể hình dung mưa ở đấy đến nhanh thế nào đâu. Trời đang quang quẻ, xanh ngắt chỉ hơi trầm lại chút ít, sau đó đã thấy mây kéo tới ùn ùn, sau đó nữa thì sấm ùng ục ở trong những đám mây màu chì nặng trình trịch ấy. Khi nước đổ xuống tối mặt tối mũi cũng là lúc sét bắt đầu đánh, rạch một nhát mỏng, sắc lẹm, chói lòa từ trời xuống kèm theo tiếng nổ đinh tai nhức óc. Sét như những nhát dao khổng lồ chém bừa phứa xuống mảnh đất Tuyệt Sơn.

Tớ nhớ gia đình ông Lũy có một người bị sét đánh chết, đấy là đứa con gái út của ông ta, nó mới chín tuổi rưỡi. Hôm ấy con bé đang chăn trâu giữa đồng thì mưa tới kèm theo một ngọn sét quật xuống, cả trâu lẫn người đều sém sẹm, còng queo. Trong những bức thư gửi cho anh con trai cả đang ở chiến trường, ông Lũy không hé tí gì về tổn thất ấy, mà quyết định dành phần đời còn lại đi phổ biến kinh nghiệm tránh sét cho tất cả dân Tuyệt Sơn. Theo ông ta, khi giông sét nên mang cơm ra ăn sẽ an toàn vì trời đánh tránh miếng ăn, còn nếu giữa đường gặp mưa thì tránh cây to, phải ngồi xuống, thu nhỏ mình lại, cố gắng chỉ để một chân chạm đất và khấn xin lỗi ông trời dù chưa biết đó là lỗi gì. Ông Lũy khẳng định từ mười tuổi trở lên ai cũng mắc lỗi với trời.

Người ta đồn trên đất này còn rất nhiều chỗ người Tàu chôn của. Nhưng Phốc ơi, vàng nó có nanh có vuốt đấy, đừng dại mà sán đến gần nó. Chuyện của gia đình tớ ai ở Tuyệt Sơn mà chẳng từng nghe...