Chương 6
Chỉ hai đứa mình là biết chuyến về thăm lại chiến trường đã làm thay đổi tính tình Đại tá như thế nào. Theo chỗ tớ nhớ thì khoảng cỡ tám mấy chín mấy gì đấy, đúng không nhỉ? Đúng thì vẫy đuôi mấy cái chứ đừng kêu, buổi chiều trí nhớ của tớ hay rụt rè, cậu mà kêu chưa chắc nó đã dám mò về đâu.
Chuyến đó Đại tá đi cùng với Hòa. Tớ được ké theo, vì mọi người trong gia đình thấy cần tớ để đỡ đần, phục vụ Đại tá. Bản thân bác ấy cũng muốn cho tớ đi để mở mang đầu óc vì tớ chưa hề được đi máy bay bao giờ. Nhưng người ngố nhất trên máy bay không phải tớ mà là Đại tá, thế mới buồn cười chứ Phốc. Trên máy bay, bác ấy loay xoay một hồi, ngó mây ngoài cửa sổ, ngó tiếp viên đi lại, ngó màn hình treo phía trước báo con số kí lô mét đã qua, con số kí lô mét còn lại, rồi ghé sang hỏi Hòa có nhớ cái vụ giải quyết tù binh theo mật lệnh của sư không. Hòa ậm ừ trong miệng như không muốn đáp, nhưng lúc sau, khi nhìn đăm đăm ra cửa sổ bé tí hin, nơi mây trắng lướt qua không ngừng, anh ta lại hạ giọng kể với tớ vụ đó.
Đại để thì thế này, đơn vị họ bắt được hơn sáu chục tù binh, chủ yếu là địa phương quân, tối thì nhận được điện của trên là bằng mọi cách giải quyết nhanh gọn để còn đánh phát triển xuống dưới. Thế là nửa đêm phải dẫn toàn bộ sáu mươi tư tù binh ra bắt quỳ bên bờ suối...Thoạt nghe, tớ đinh ninh sẽ dùng súng, nhưng hóa ra Hòa lại bảo là họ dùng dao cậu ạ.
Đơn vị cũ cho xe con ra tận sân bay đón, gặp mặt, ăn cơm với chỉ huy của tiểu đoàn rồi hôm sau đi thăm mấy nơi. Cậu tuyên huấn tiểu đoàn dẫn bọn tớ ghé vào công ty trồng cao su trên địa bàn. Giám đốc công ty kể ngày đầu kéo quân tới đây khai phá đất, khi xuống suối tắm, người ta phát hiện ra cả đoạn dài toàn xương, lúc đầu chẳng biết của người hay của động vật, sau công nhân đi mò cá vô tình phát hiện thêm ở chỗ gấp khúc có một đống sọ người.Trên đường ra suối, Đại tá ghé tai Hòa bảo bác ấy rất ngạc nhiên về chi tiết sọ vun thành đống. Con suối nhỏ nhưng lại khá sâu, bờ bên này là cát và sỏi còn bờ bên kia thì đất bazan đỏ hực.
Đến chỗ bờ sông lõm vào, um tùm lau, Đại tá hất hàm hỏi cậu tuyên huấn đó có phải là chỗ vớt được xương không, khi cậu ta chớp chớp mắt thay cho lời xác nhận, bác ấy lại hỏi xem có đủ sáu mươi tư bộ không. Cậu tuyên huấn gãi đầu thanh minh là cậu ấy vào sau nên chỉ nghe kể chứ không tận mắt thấy nhưng mộ thì cậu ta biết.Theo cái khoát tay của cậu tuyên huấn, tớ thấy chếch về phía trái một đoạn là bãi cỏ lượn sóng lô xô. Đại tá kéo tay tớ xăm xăm đi lại. Hai bác cháu đứng lặng trước mấy nấm đất. Không phải là sáu mươi tư, chỉ khoảng bảy, tám nấm mộ, lùm lùm, xâm xấp dưới cỏ. Cậu tuyên huấn mở cái túi đeo bên người lấy ra một thẻ hương và chiếc bật lửa rồi ngồi thụp xuống khum tay che gió. Cậu ta vừa châm hương vừa giải thích sở dĩ chỉ có mấy ngôi thế này là vì xương cốt lẫn hết vào nhau, nên mò được bao nhiêu thì chôn chung luôn cho gọn.
Mọi người chia nhau hương cắm lên các nấm mộ. Tớ theo sát Đại tá đến đứng trước lùm đất to nhất. Gió ràn rạt bạt vía hương thành những làn khói mỏng mảnh, nắng dữ dội còn ve thì kêu ran khắp bốn phía.Quay trở ra, Đại tá bần thần ngó lại đoạn suối có khóm lau bạc lất ngất rồi phỏng đoán với tớ lý do sọ người dồn đống có lẽ vì chỗ đó gấp khúc nên nước cuốn quẩn vào. Cậu biết đấy, tớ chỉ việc gật đầu, bác ấy nói gì mà tớ chẳng gật.Buổi trưa hôm ấy hầu như Đại tá chẳng ngủ tí nào, cứ trằn trọc rồi vùng dậy ra hiên hóng gió. Qua khe cửa, tớ nhìn thấy lưng của bác ấy khòng xuống. Khi tớ tới ngồi cạnh, Đại tá không hề ngoái sang, nhưng lại chỉ về cái cây to nhất, đứng riêng lẻ bên bìa lô cao su xanh thẫm, tán xòe rộng, uy vũ như đám mây trong những vụ thủ hạt nhân mà tớ xem trên vô tuyến, hỏi tớ có biết đó là cây gì không.
Đại tá tự trả lời đó là cây kơ nia, rồi bác ấy chủ động kể cho tớ rằng có một gốc cây kơ nia ruỗng đã cứu bác ấy khi bác ấy bị trực thăng quần đuổi và phải rúc vào cái gốc cây mục ruỗng ấy.Con người ta sống chết có số và không gì có thể làm cho nó thay đổi được. Đại tá của bọn mình thoát chết tới ba lần vì số chưa tận Phốc ạ.
Lần đầu, anh em trong tiểu đội kiếm được một con nai, tổ chức đánh chén. Đến khi chuẩn bị ăn mới phát hiện ra thiếu mấy đôi đũa nên Đại tá phải chạy đi kiếm. Lúc kiếm được đũa, đang về thì nghe có tiếng rít qua đầu, rồi một tiếng nổ to và chói, chỉ một tiếng duy nhất. Chạy tới nơi, bác ấy thấy chỗ cả tiểu đội đang ngồi đã biến thành cái hố pháo toang boàng, khét lẹt. Nhặt cho đến mẩu cuối cùng cũng chỉ đầy hai cái gùi và không thể phân biệt đâu là nai, đâu là xương thịt của mấy anh em. Từ đấy bác ấy không bao giờ ăn thịt thú rừng.
Lần thứ hai, Đại tá dẫn tiểu đoàn trưởng đi kiểm tra hệ thống đường dây thông tin liên lạc, vừa kiểm tra xong thì địch đổ bộ bao vây, bác ấy lệnh cho đơn vị phân tán, tìm cách thoát ra ngoài, còn mình và tiểu đoàn trưởng rút cùng với nhau. Tiểu đoàn trưởng bảo Đại tá đi chếch phía trước, ở thế cao hơn, tức là gần với sườn đồi, còn tiểu đoàn trưởng đi thấp phía dưới. Thường thì bọn biệt kích hay đặt mìn theo hướng hất lên để gây thương vong nhiều, vì thế đi theo hướng thấp sẽ an toàn. Đang đi, Đại tá đạp phải mìn. Không hiểu sao quả mìn lại bị đặt ngược cho nên sức công phá hất xuống mé dưới. Bác ấy chỉ bị đẩy tung ra xa, dính vài mảnh kim loại nhỏ còn tiểu đoàn trưởng thì hứng trọn vẹn quả Claymore. Phần còn lại của tiểu đoàn trưởng là hai cẳng chân, một thẻo sườn trái và mấy mảng tóc bết máu.
Lần thứ ba thì bác ấy không bao giờ kể nên tớ cũng không biết dù đảm bảo với cậu là có lần thứ ba.Đến giờ tớ vẫn nhớ như in vẻ mặt như bị rút hết máu của Đại tá khi đứng trước một ngôi nhà lụp xụp, tồi tàn ven đường vào nghĩa trang. Bác ấy kể với cậu tuyên huấn là khi mới cơ động tới đây, bác ấy nghe báo cáo gia đình sống trong ngôi nhà đó ít giao tiếp với dân địa phương, họ không ưa cả bộ đội Bắc Việt lẫn lính Việt Nam Cộng hòa. Ông chủ nhà là người Kinh, vợ người Khmer, họ sinh được ba đứa con, hai gái, một trai. Đứa con trai một lần theo mẹ ra sông Côngpô đã ngã và bị cuốn trôi mất. Ông chồng chán đời đay nghiến, đánh đập vợ khiến chị ta uất quá treo cổ tự tử. Tất cả những thông tin ấy do trinh sát thu lượm, gom góp từ các nguồn mà có được, chẳng biết chính xác hay không.
Ngôi nhà đã quá tạ tàn vì thế mà lúc ấy tớ nghĩ chắc ông chủ nhà cũng tàn tạ chẳng kém.Đại tá bạo dạn đi thẳng vào trong sân và hắng giọng. Tiếng phụ nữ hỏi vọng từ trong nhà, rồi một người cở tuổi trên dưới bốn mươi vừa vấn tóc vừa bước ra, vẻ mặt ngái ngủ. Đại tá ngoái lại tìm Hòa và cậu tuyên huấn nhưng họ đứng ở cách đấy một đoạn, đang mải trao đổi gì đó với nhau. Người phụ nữ ngỡ ngàng nhìn bác ấy rồi nhìn tớ, tay kéo lại vạt áo vừa bị gió tốc lên. Đại tá so vai bảo với người phụ nữ rằng hồi chiến tranh bác ấy từng ở đây, từng nghe nói về ông chủ nhà...Một người nữa bước từ trong bếp ra, mặt đỏ văng vì nóng. Tới lượt tớ và Đại tá ngỡ ngàng vì hai người phụ nữ giống nhau đến mức họ có thể chập khít lại. Thấy Đại tá và tớ, người phụ nữ thứ hai có vẻ ngượng, lí nhí chào. Người phụ nữ là chị bảo cô em rằng Đại tá từng biết bố của họ và khi nghe vậy mắt cô em chợt sáng rỡ. Khi Đại tá lại khoát tay sang phía gò đất chỉ cho hai người phụ nữ chỗ đóng quân trước kia của đơn vị mình, tớ thấy chiếc cúc ở cổ tay áo của bác ấy bắt nắng cũng vụt sáng rỡ.
Vào hẳn trong nhà bọn tớ mói biết hai chị em nhà này không lấy chồng mà ở vậy. Hôm nay là ngày giỗ của ông bố và cũng chỉ có chị em họ với nhau. Bóng của vật gì đó hắt lên mặt Đại tá một vệt sẫm rất khó tả, nó giống như vệt sẫm tớ nhìn thấy trên mặt Lĩnh lúc báo tin gia đình ông Văn sẽ chuyển lên Võ Nhai.
Khi leo lên cái nghĩa trang nằm trên đỉnh đồi, tớ thấy những luồng gió rờn rợn quấn siết dọc hai cánh tay mình. Hòa bóc thẻ hương, châm lửa rồi trao cả bó cho Đại tá, sau đó đứng lùi lại. Đại tá cắm hương vào chiếc lư bằng xi măng và cúi đầu, khấn. Bó hương hực lên thành ngọn đuốc, đùng đùng cháy khiến tớ bứt rứt. Tớ cũng muốn bốc cháy, nếu không phải tớ thì cái gì khác cháy tiếp cũng được, càng to càng thích, to như nhà tớ thì càng thích. Cậu hình dung nổi không, lúc ấy tự dưng bốn phía tối sầm lại, chỉ một vệt sáng mảnh sắc chiếu chênh chếch làm tượng đài nổi bật lên như lưỡi dao chém xả xuống. Tớ nói nghiêm túc đấy, không ngoa tẹo nào đâu.
Lúc tiễn khách ở cửa sân bay, trao tận tay hai thùng quà của tiểu đoàn xong, cậu tuyên huấn gãi đầu gãi tai rồi rụt rè hỏi Đại tá tại sao bác ấy lại nghĩ là sáu mươi tư bộ xương thì bác ấy ngước nhìn tấm bảng điện tử ở quầy làm thủ tục, đáp qua loa rằng bác ấy đoán bừa vậy. Tớ đi lùi lại, nói nhỏ với cậu tuyên huấn là Đại tá chưa bao giờ đoán mò cả. Cậu tuyên huấn cười rất ý nhị.
Giờ thì cậu có thể kêu lên mấy tiếng được rồi. Tốt, tốt rồi.Sau chuyến đi ấy Đại tá bắt đầu thay đổi, bác ấy dễ nổi cáu và hay bất chợt hỏi người bên cạnh những câu không ăn nhập gì với chuyện đang nói. Cậu còn nhớ hôm Đại tá vào viện thăm tướng Vĩnh chứ, về nhà, bác ấy đem rượu ra uống, đến lúc hơi ngà ngà mới vẫy tớ lại bảo nếu phải đi thì bác ấy mong mình đi càng nhanh càng tốt. Tớ đã nói với bác ấy là bác ấy không được chết, cậu cũng hùa theo một tiếng ủng hộ tớ, đúng không Phốc. Cậu rất đáng nể.Thật ra thì ái ngại nhất là lần tớ và Đại tá đang ngồi ăn cơm tự dưng bác ấy hỏi tớ nhớ chuyện bắt được con hổ do động rừng ở Hờ Lênh không. Tớ ngẩn tò te, những người trong ảnh cũng ngẩn tò te. Động rừng xảy ra ở ngay tại Tuyệt Sơn, có tớ chứng kiến đàng hoàng, chứ không phải ở Hờ Lênh hờ liếc nào đó. Chuyện ấy trăm phần trăm là cậu chưa biết vì cậu chưa được đẻ.Tớ nhớ như in là đêm trước trận động rừng có con thú lạc xuống, nó gõ móng lộp cộp trên mặt đường đá, kêu ư ử. Sáng hôm sau bố con lão Cần rỗ từ rừng về bảo với mọi người sắp có động vì cây đổi màu lá, lay động, chao đảo ghê gớm. Đến gần trưa dân Tuyệt Sơn nghe tiếng ù ù ầm ầm hệt tiếng máy bay B52, sau đó thú rầm rập lao từ rừng ra, cuốn lốc bụi mù trên đường, nhiều con còn xông qua cả các vườn rau. Chim bay loạn trên trời, từng đám nháo nhác như tàn tro gặp gió. Đại tá vội vàng quờ tay tìm súng và lệnh cho đơn vị tản ra, nhưng bắt gặp khuôn mặt mấy người con vây quanh thì bác ấy bừng tỉnh, hơi chút ngượng ngập, sượng sần.Bố con lão Cần rỗ đợi mấy ngày cho rừng ổn định mới dám tiếp tục đi lấy củi. Vành ngoài rừng vẫn bình thường, cây cối không suy suyển gì, nhưng vào sâu một chút thì thấy đất dưới các gốc cây đều tơi xốp, chỉ tác động một lực rất nhẹ là cây kéo nhau cùng đổ thành từng mảng lớn. Thẳm sâu dưới lòng đất thoang thoảng vọng lên những tiếng rền rĩ tê dại. Không lấy được củi, nhưng bố con lão Cần rỗ vớ được một con hổ bị cây đè đang ngắc ngoải. Lão Cần kín đáo thuê người từ Đồng Xẩm sang nấu cao hổ, tiền công trả bằng một phần tư số cao nấu được. Chuyện không giữ kín được, lọt ra ngoài, chính quyền xã tới đòi lập biên bản tịch thu nồi cao đang nấu. Lão Cần tức khí liền xúc một xẻng cứt từ hố xí nhà mình đổ vào nồi cao, thế là hòa cả làng. Lộc trời cho từ trận động rừng bị xóa sổ bởi một xẻng cứt đầy tính chất manh động, may mà còn vớt vát được bộ da hổ do mấy đứa con nhanh chân tẩu tán kịp.
Hồi đầu, mỗi khi tớ nhắc Đại tá rằng bác ấy đã nhớ lộn thì bác ấy còn đần người, mặt rượi buồn, sau thì bác ấy cứ thản nhiên như chính tớ nhớ lộn chứ không phải bác ấy.
Trí nhớ con người ta tương tự như bầu trời cậu ạ, thoạt tiên thì hưng hửng, tươi rói, sau thì chói chang, kết thúc lại êm êm lìm lịm một cách đầy bẽ bàng.Nhìn kìa Phốc, những vạt nắng đỏ ối nằm soài trên mặt sông hắt lên hàng tre bờ bên kia những dải chờn vờn như lửa cháy ngầm. Lâu lắm sông Cầu chẳng dâng lũ, có lẽ thượng nguồn đang cạn kiệt. Sông thiếu nước thì giống như thanh gươm cùn gỉ, lam nham, hẻo lả.
Về thôi, không nên nấn ná quá lâu ở chỗ hoàng hôn tàn.