← Quay lại trang sách

Chương 10

Đêm qua chắc chắn ai đó đi ngang qua cửa sổ vì sớm nay tớ nhìn thấy dấu vết còn hằn trên không khí.

Ăn quáng quàng bát phở quánh mỡ của vợ chồng nhà Rồ xong, tớ qua gọi Thảnh cùng sang Tuyệt Sơn. Gọi tới câu thứ ba thì Lanh thò đầu ra cửa nói Thảnh đã đến cơ quan.

Thế là một mình tớ lóc cóc đi.

So với gần hai chục năm trước, khi tớ cùng Thảnh thay mặt Đại tá đem thiếp sang mời mọi người dự cưới Hoành, con đường hầu như chẳng thay đổi. Vẫn lổn nhổn gập ghềnh bởi những viên đá quặng và hai bên là đồng lúa tràn chảy loanh quanh dưới chân những ngọn đồi trơ trọi.

Từ xa bãi tha ma giống như hơi thở cũ kỹ, thoi thóp, càng đến gần càng rời rạc, tàn tạ. Không một nấm đất mới, chứng tỏ là Hoành đã nói đúng Phốc ạ. Cậu ấy thánh thật.

Mấy con chim đen lượn lên lượn xuống trên cây nhội cuối bãi tha ma cùng với tiếng gió u ơ lúc thoảng lúc rõ. Chẳng hiểu sao tớ vẫn thấy thiêu thiếu một thứ âm thanh nào đó mà không nhớ ra được, thế mới lạ.

Vừa mò mẫm đi tìm nơi mà khả năng Hòa chọn cho Đại tá, vừa ngó những tấm bia sơ sài cắm trên mộ, tớ nhận ra vài ba tên tuổi lờ mờ quen trong đó có cả thằng Tuấn, bạn của tớ với Hoành. Đến góc trái của bãi tha ma thì tớ vấp phải tấm bia mốc meo của chú Khoa. Cậu biết chú Khoa không? Chắc là không. Cậu biết vì sao chú ấy nằm ở đây không? Càng không rồi.

Chú Khoa chết vì đánh nhau với tay Voong người Hoa. Đến bây giờ tớ vẫn nhớ như in cái mùi của ngày ấy. Đó là mùi hồng ủng, cứ nồng nồng, ngằn ngặt. Hàng xóm đã nhiều lần cảnh báo chú Khoa nên tránh xa gia đình nhà ấy ra, vậy mà chú không nghe, cứ lấn hàng rào sang đất nhà Voong và tay Hoa kiều ấy cũng không kìm chế được, thế là đôi bên văng nhau dữ dội. Chú Khoa cậy mình vâm cây hơn nên đánh Voong trước mặt vợ con tay đó. Voong bị đấm ngã dúi dụi, quệt máu mồm máu mũi đứng dậy, lại bị chú Khoa đạp cho một đạp giữa mặt, đổ vật xuống như cọc rào bị trâu xéo. Voong nằm một lúc, mắt trừng trừng nhìn trời, ai cũng tưởng không thể gượng lên được nữa, thế mà tay đó đứng bật dậy, gọn đến mức tất cả mọi người đều thất kinh. Voong lơ lớ bảo: Mày đánh tao nhiều rồi, giờ tao sẽ đánh lại mày. Chú Khoa cười hô hố, ưỡn ngực, thách: Địt mẹ thằng già này, tao cho mày đánh thoải mái. Voong bảo: Tao chỉ đánh một cái thôi, đúng một cái, ba tháng sau mày sẽ chết. Chưa dứt lời, Voong thoắt đảo người vòng ra sau và điểm vào bên dưới bả vai trái của chú Khoa điểm đúng một cái, rất nhẹ, rồi lại đảo người về đứng đối diện với chú ấy. Ngạc nhiên quờ tay ra chỗ bị điểm chú Khoa ngớ ngẩn hỏi: Ông đâm tôi hả? Nhưng không ai thấy Voong cầm vật gì, chỉ chụm năm đầu ngón tay điểm nhẹ thôi. Voong dắt vợ con về nhà, mặc chú Khoa chửi rủa, giễu cợt phía sau. Cú đánh ấy, như chú Khoa thuật lại sau đó vài tuần cho y tá của trường lái xe Tiến Bộ, chỉ là nhói một cái rồi chẳng thấy đau gì nữa. Chỗ bị Voong điểm vào không có vết thâm tím nào.

Mọi chuyện lại bình thường. Voong vẫn lù đù lờ đờ chấp nhận hoàn cảnh cái hàng rào hàng xóm lấn sang phần đất nhà mình.

Chỉ có chú Khoa là tự nhiên thấy người yếu hẳn, hay tức ngực, hay ho khan và mỗi lúc một rộc đi. Chú ấy tới bệnh xá của trường lái xe Tiến Bộ để khám, sau đó xuống bệnh viện huyện, lên bệnh viện tỉnh, nhưng cả mấy nơi ấy đều không chẩn đoán ra bệnh. Rồi chú Khoa ho ra máu, nửa đêm là ho, máu lẫn với đờm như người lao. Gia đình mời thầy Quyền tới, nhưng thầy Quyền lắc đầu bất lực, lại mời một ông lang ở Ba Bể xuống, ông này bắt mạch xong, không nói gì, khăn gói quả mướp đi thẳng. Chú Khoa chết lúc tảng sáng, trước khi chết hay nói hoảng, van vỉ cầu xin đổ nước vào miệng mình vì thấy lửa hun rần rật trong người.

Bấm ngón tay ra mới thấy từ lúc bị Voong điểm cho tới khi chú Khoa chết, đúng ba tháng. Kinh thật cậu ạ.

Trước khi chú Khoa chết khoảng một tuần thì gia đình Voong chuyển đi, sau đó tất cả người Hoa cũng bị quét sạch sành sanh.

Bà Voong rỉ tai riêng với bà Hồng rằng gia đình bà phải trở về bên kia vì linh cảm rằng mọi thứ sẽ không như trước nữa. Người Hoa tin vào linh cảm của họ, điều này chẳng phải tớ nói mà ông thầy Quyền ông ấy nói. Bà Voong còn tặng bà Hồng bộ bàn ghế bằng gỗ trắc, một cái tủ chạn cũng bằng gỗ trắc cùng mấy thứ đồ lặt vặt khác mà họ không mang đi được. Đến khi gia đình Voong đi rồi, bà Hồng mới dám kể lại cho mọi người. Ông Bách phệ dè bỉu: Quẫn cả một lũ. Mãi mới lắng được một tí thì lại đùng đùng khuấy lên, có mà đói rã họng với nhau.

Cậu biết không, thời gian ngắn sau thì linh cảm của gia đình Voong ứng nghiệm. Câu dè bỉu của ông Bách phệ cũng ứng nghiệm.

Quẩn quanh một hồi mà chẳng thấy chỗ đất nào đèm đẹp cho Đại tá nằm, tớ chuồn khỏi bãi tha ma.

Nơi ở cũ của gia đình Đại tá khác xưa nhiều. Ngôi nhà mái lá gồi, tường toóc xi giờ đã thay bằng nhà xây mái bằng, cái hủm phía trước đã được san đầy, nối với mảnh sân cho nên sân rộng hơn. Những dây hồng tiên hoa trắng quả vàng không còn dấu tích nào nữa, không còn dấu tích của những đám xấu hổ bùng nhùng, tròn tròn với màu xanh thẫm và những chùm hoa hồng tía đầy ma mị. Chỗ cây ổi đã thay vào một cây xoài to bằng thân của đứa trẻ đang tập đi. Tớ tiết lộ cho cậu điều này: Hồi xưa, Thảnh đã ngã một cú trời giáng ở cây ổi đó khi cố nhoài ra hái quả.

Một con bé khoảng sáu tuổi, gầy nhỏng, chạy ra chào đón tớ hơn là dò xét tớ, nó mặc chiếc áo hoa màu tím, chân đi đôi dép nhựa trắng đã ngả sang màu cháo lòng và đôi lông mày nhàn nhạt của nó vồng lên hình cánh cung. Nghe tớ bảo tớ đi chơi thì con bé hơi cau mày càu nhàu:

- Cái bác này buồn cười thật, ai lại đi chơi một minh. Mắt bác làm sao thế?

Tớ còn chẳng biết vì sao sinh ra mắt tớ đã bị thế thì làm sao mà giải thích cho nó được. Thế là tớ phải đánh trống lảng, hỏi con bé xem bố mẹ nó đâu.

- Trong nhà. Bố mẹ cháu bảo nhà này hồi trước là của ông Đại tá đấy. - Con bé nói với vẻ dọa nạt ngầm và cẩn trọng đóng cái cổng sắt lại, khi đã ở bên trong cổng sắt, nó mới yên tâm gặng tớ - Bác chẳng quen ai ở đây hả?

Tớ gật đầu, hơi lặng đi, chắc là nhìn bề ngoài trông tớ giống đám mây, đung đưa, bồng bềnh. Hai tay giấu ra đằng sau, khuôn mặt quắt của con bé vênh lên, nó bảo mẹ nó dặn tránh gặp người lạ, họ không ăn cắp thì cũng bắt trẻ con mang bán sang Trung Quốc.

Sau câu nói của con bé, tớ thấy không khí cũ đi, ngả sang màu vàng úa bơ phờ.

Hôm ấy tớ đang đứng trước cổng nhà tò mò ngó dải sương mù dồn từ chân núi tới thì ông cụ râu tóc trắng lóe từ màn sương ấy bước ra, lẳng lặng cầm tay tớ dắt đi. Chẳng hiểu sao tớ lại ngoan ngoãn trôi theo ông cụ ấy. Trước khi rẽ vào cái lối nhỏ, tớ còn kịp ngoái nhìn cây hồng nhà mình. Chưa bao giờ tớ và con em gái tớ được ăn thỏa thuê hồng vì phải để dành mang sang thành phố bán lấy tiền đong gạo. Ông cụ hứa sẽ đưa tớ tới nơi có rất nhiều cây hồng như thế, sẽ tha hồ ăn, không ai cấm. Hai ông cháu đi mãi, đi cho tới khi tớ mệt quá nhắm mắt ngủ và sáng hôm sau thì bàng hoàng nhận ra mình đang ở nơi khác, rất xa nhà. Tớ đã khóc, đã lăn lộn đòi về nhưng một người đàn ông gầy dẹt, da mai mái dọa sẽ móc mắt khiến tớ phải nín bặt và quãng thời gian sáu tháng ấy mãi mãi chỉ là dải sương mù chờn vờn với đôi cánh cửa bằng gỗ gụ chắc nịch, mở ra đóng vào một cách bí ẩn, lạnh lùng trong tâm trí tớ. Sáu tháng ấy không biết bao lần cái bàn tay rơm róp mồ hôi của người đàn ông kia rờ rẫm trong quần tớ...

Tớ ngồi xổm trước cổng, hỏi dò con bé xem đã có bạn nào của nó bị người dân tộc bắt chưa. Con bé nhăn trán, có vẻ nó đang cố gắng lục lọi trí nhớ, lục lọi một cách kịch liệt nhưng rồi lắc đầu, mái tóc cũn cỡn văng vẩy sang hai bên. Nó cũng lâm vào tình cảnh ngắc ngứ y như tớ lúc ở bãi tha ma.

Một chiếc xe công nông bành bạch chạy qua cuốn theo lớp bụi đỏ quạch phía sau. Con bé đưa hai tay lên bịt toàn bộ khuôn mặt để tránh bụi. Tớ cũng làm như nó. Chiếc công nông xa dần như một cơn lốc nhỏ, đơn lẻ, ngẫu hứng khi trời lộng gió. Con bé buông thõng hai tay và một vệt bụi đỏ mờ hằn ngang giữa chân tóc và chân mày của nó, đó là nơi hai ngón tay không khít vào với nhau được.

- Cháu chẳng sợ ai cả, thật đấy, chẳng sợ tí nào. - Đột nhiên con bé leo lẻo - Cả cái mắt lác của bác cháu cũng chẳng sợ. Cháu chỉ sợ người lạ thôi.

Câu cuối con bé lí nhí, tuồng như nó ngượng với chính mình. Tớ bần thần dặn con bé nếu có ai dỗ đưa đi ăn hồng chín thì phải từ chối ngay, nhưng nó không gật mà rướn cổ nuốt nước bọt.

Ngày tớ trốn qua được cánh cửa gỗ gụ dày ự của gia đình người Thổ kia, tìm được về cũng là ngày nhà tớ trở thành một đống tro khổng lồ. Do nhà bị cháy lúc nửa đêm cho nên mẹ và em gái tớ không kịp chạy ra ngoài. Tớ không khóc, nhớ nhé Phốc nhé, tớ không khóc, chỉ nhìn ngọn lửa như cái lưỡi khổng lồ cố gắng liếm vào cây hồng đang rụng hết lá, quả đỏ rực, chiu chít. Tớ không khóc vì chẳng ai tìm tớ cả. Rõ ràng là mọi người trong nhà không muốn thấy tớ nữa. Cậu biết không, hôm sau tớ tha hồ bứt những quả hồng chín trong tầm với để ăn, tớ nuốt lấy nuốt để vào mồm như nuốt những cục than đượm. Rồi tớ quay lại rúc vào trong miếu Ngài năm. Tớ đang thiu thỉu thì một người đến lôi tuột tớ ra ánh sáng. Đó là Đại tá của bọn mình, là anh ruột của mẹ tớ, là bác của tớ. Tớ trôi theo Đại tá ngoan ngoãn như đã từng theo ông cụ dạo nọ, chỉ có điều lúc ấy bụng tớ đã ních căng hồng. Tớ gia nhập gia đình Đại tá khi vừa tròn mười một tuổi. Mãi sau này cậu mới gia nhập...

Cả cái hàng mười chín cây muỗm lá mướt xanh cũng biến mất gần hết, chỉ còn lại một cây duy nhất, nó to lớn, tán lá xòa rộng nhưng cô đơn. Chẳng hiểu vì lý do gì mà nó sót lại. Những rễ cây gồ lên trồi lặn một khoảng rộng và nắng lọc qua tán lá in hoa văn trên những chiếc rễ khiến chúng như đàn trăn đất đang di chuyển xa khỏi tổ. Nắng cũng rải lên người tớ một giấc mơ hoa đuợm vàng, phù du.

- Mả cái con mẹ nó chứ...

Tiếng người xào xạc phía bên kia hàng rào găng làm tớ giật thột ngoái sang. Một mái tóc bù xù nhấp nhô bên trên khuôn mặt hình tam giác ửng đỏ, một lão già chệnh choạng tiến lại gần bờ rào và hai cẳng tay gây guộc khua lên.

- Mả cái con mẹ nó chú ạ, tôi đã bảo rồi, cứ thử lần nữa xem, nó vật chết dứ đừ ngay.

Mùi rượu thoang thoảng bay qua hàng rào tạt lại chỗ tớ. Trong buổi trưa tĩnh mịch, tiếng của lão già nghe rõ đến mức không thực nữa. Có thể lão già sẽ phi qua hàng rào găng để ra gây sự với tớ, phải phi qua thôi, chứ vạch rào thì không thể, bởi những cây găng đan nhau chật kín và gai tua tủa đến mức chó, gà cũng khó lòng chui qua. Thực ra lão già vẫn tỉnh táo, lão chỉ đỏ mặt và hơi gân gân vậy.

Tớ hỏi có phải lão già nói về cái cây này không thì lão ta đáp:

- Nó chứ ai nữa. Vật hộc máu mấy thằng rồi, cho nên đừng có lảng vảng mà đo với đếm. Tôi đố chú dám mua đấy, mả cái con mẹ nó, thế mới hay chứ...

Lão già khạc đờm và đánh mặt sang bên nhổ phù một cái. Hóa ra tớ bị nhầm là người đi mua cây cổ thụ và tớ cũng hiểu tại sao mười tám cây kia biến mất không dấu tích. Lão già quay ra xua lũ gà đang bới tung đất ở gốc cây con mới trồng rồi bỏ vào nhà như lúc ra, đột ngột, bất lịch sự. Tớ mở to con mắt lành lặn nhìn ngôi nhà của lão, gọi với theo:

- Chú Cần phải không?

Lão già khựng lại như bị bập một nhát rìu vào trán. Khi lão ta quay lại thì tớ nhận ra đích thị là lão Cần rỗ thuở xưa.

- Cháu là Phong cháu Đại tá đây.

Lão Cần ré lên:

- À, mả cái con mẹ nó, thằng hâm hấp, thằng cháu bồ côi bồ cút mắt lác của Đại tá đây hả? Tao nhớ cái lần Đại tá dắt mày về, cả khu đổ sang xem như xem một con lợn giống. Buôn cây lâu chưa?

Tớ cười gượng gạo, cải chính rằng tớ sang tìm Hòa có tí việc chứ không phải mua cây. Nói xong tớ lại thấy mình như đụn mây rung rinh, chao đảo. Lão Cần rỗ khoát tay một vòng, chỉ cho tớ lối vào nhà lão.

Còn lại một người cũ, một lão Cần rỗ ngạo ngược, cơ cực, thuở xưa chuyên vào rừng hạ cây làm củi bán. Bây giờ lão Cần sống với vợ chồng đứa con gái út, còn bốn thằng con trai đã tản mát ra ở riêng. Vợ chồng đứa con gái Út của lão ta cùng công tác ở trường tiểu học bên Đồng Xẩm, vợ là giáo viên thể dục, chồng làm hiệu phó. Tớ theo lão Cần vào nhà, thấy mọi thứ gọn gàng, sạch sẽ, phần lớn là mới hoặc được giữ cẩn thận nên vẫn mới. Chỉ trừ mỗi chiếc xe đạp gióng khung ngang dựng ở góc nhà là không ăn nhập gì, nó tróc lở, rách nát, lốp bó chằng bó đụp bằng những vòng dây cao su. Đó chính là chiếc xe ngày trước lão Cần hay dùng để thồ củi. Lão Cần bảo lão giữ làm kỷ niệm, nhắc cho vợ chồng đứa con gái Út nhớ chúng nó sống được là nhờ cái xe này. Tớ hỏi về bộ da hổ thì lão Cần rân ran bảo cái dạo đói quá đã đem đổi lấy gạo mất rồi.

Cậu hình dung được không, ở khu Tuyệt Sơn, gia đình lão Cần sống vất vả nhất, nhếch chác nhất vì đông con, có đến bảy đứa, sáu trai, một gái Út. Năm thằng con trai đầu của lão chỉ học đến hết cấp một rồi nghỉ, hằng ngày theo bố vào rừng lấy củi đem sang thành phố bán. Cả khu sơ tán ngưỡng mộ những xe củi của bố con lão, đi thì đèo nhau, về thì dắt bộ, hai người một xe, kẻ dắt người đẩy, xe nào cũng chất ự củi, từ xa nhìn chỉ thấy một đống đỏ au lừ lừ chuyển động. Cái khoảng sân trống trải bây giờ, ngày trước từng lúc nào cũng chật củi, bó lớn bó nhỏ trông rất đẹp.

Lão Cần xoa cật lực hai tay vào hai đầu gối hỏi Đại tá bị sao mà phải vời tới Hòa. Tớ kể với lão tình trạng của Đại tá và cái quyết định sang bên này xem đất chuẩn bị lo hậu sự cho bác ấy. Lão Cần rỗ nghe mặt ngẩn ra, rồi buông một câu chẳng đâu vào đâu:

- Từ dạo dân sơ tán về hết bên phố thì đất này chán hẳn. Lắm lúc...

Câu nói bị bỏ lửng như kẻ nói bỗng dưng rơi hút vào khoảng hư vô. Thoang thoảng tiếng liếp nhiếp chẳng rõ của loài gì, gà con hay chim trời, lả lướt rờ rờ trên khoảng sân vắng.

- Mày bảo nhờ thằng Hòa lang băm xem đất cho ông cụ hả? - Lâu sau lão Cần mới lên tiếng trở lại, giọng lao xao - Bố nó thì xem ra còn được, chứ nó, chậc, chú nghi lắm. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ tới giờ tao mới thấy có nó là một, ai đời vừa bốc thuốc vừa cò đất nghĩa trang. Thế mày không buôn cây thì làm quái gì?

Tớ không muốn bị hỏi lôi thôi nên nói dối là làm trưởng phòng hành chính kiêm luôn cán bộ công đoàn ở cơ quan nhà nước. Mặc dù nhìn tớ đầy nghi hoặc, nhưng lão Cần vẫn xa xót bảo nếu Việt nhà lão mà còn, giờ cũng có khi bò lên đến Đại tá.

Phải nói thêm thế này để cậu hiểu: Việt là con cả lão Cần, nhập ngũ tháng Hai năm bảy chín và hy sinh sau đó đúng một tháng ở mặt trận Cao Bằng. Tớ nhớ là Việt không giống bố tí nào Phốc ạ. Lão Cần xương xương, vèo vọ, còn Việt lại to đậm, chân đi chữ bát, hai cánh mũi tròn căng, bóng nhẫy như cánh mũi của trâu. Việt cả ngày chẳng nói một câu, ai trêu cũng kệ, chỉ biết ăn và đốn củi, nhưng cục tính, lúc đã nổi máu lên thì trời đối với Việt cũng chỉ là con gà mái mơ, có thể quăng rìu cho chết tươi. Khi nhập ngũ theo lệnh tổng động viên thì Việt vừa cưới vợ được hai tháng.

Lão Cần khoe với tớ bây giờ vợ Việt đã có con đi làm ở thành ủy, nghe nói thư ký thư cọt gì đấy, có điều đó không phải con Việt mà là con của người chồng thứ hai.

Chiếc quạt điện của Tàu màu xanh nõn chuối êm ro lắc từ bên nọ sang bên kia, chậm chạp, từ tốn, từ tốn chậm chạp lại làm tớ cồn lên vì nhớ Lĩnh. Ngoài sân, mấy con chim sẻ tìm kiếm thức ăn cùng với đàn gà con, thi thoảng chúng túa lên rồi lại sà xuống.

Bỗng dưng tớ muốn chết thế cơ chứ.

Lão Cần như vừa trồi lên từ hư không để nói nốt câu đã bỏ dở lúc trước. Tớ từ chối lời mời, đứng dậy xin phép đi. Lão Cần cũng không giữ. Ra khỏi cổng, đi qua cây muỗm cổ thụ, tớ nghe tiếng lão với theo:

- Hai cây bị sét đánh chết, một cây bị sâu, còn lại thì bị chúng nó bứng sang phố bán hết. Còn mỗi cây này đấy. Mả cái con mẹ nó.

Chẳng cần lão Cần rỗ mách thì tớ cũng đã biết những cây kia đang ở đâu rồi.