← Quay lại trang sách

Chương 11

Nhìn đi Phốc, ban mai đang đến. Thoạt đầu lóp mây dày đặc mênh mang cựa nhẹ, sau đó nứt dần để ánh sáng đỏ hồng xuất hiện, cuối cùng thì mặt trời thò đầu ra, ngơ ngơ nhìn quanh. Buổi sáng nở tung bừng như trứng gà nở. Chiêm chiếp, rạo rực.

Hôm qua Vân bảo sáng nay nhà sẽ có khách cho nên tớ phải dọn dẹp sớm. Tớ quét sân xong thì Hoành tới. Cậu ấy khấp khênh đi đi lại lại ở khoảng giữa tớ và cái đống lá, luôn mồm thắc mắc sao tớ không hót luôn ra ngoài đường đổ mà lại vun vào một góc. Cậu ấy chẳng biết rằng lâu lắm rồi, kể từ hồi nhà tớ cháy, tớ không được ngửi mùi lửa vì thế tớ vun vào để đốt. Mùi khói thì dễ ngửi, nhưng mùi lửa thì không phải ai cũng ngửi thấy. Ông giời ông ấy cho ai thì người ấy được.

Hoành gần như cẫng lên vì kích động khi tớ buột miệng nói ra. Cậu ấy hỏi dồn tớ xem mùi lửa nó thế nào. Nghĩ là Hoành đã quên nên tớ tả cho cậu ấy nó giống mùi lá hồng khô. Hoành ngả hẳn người về sau nhìn tớ, ra chiều phân vân rồi bảo thi thoảng cậu ấy vẫn hận tớ vì dạo bên Tuyệt Sơn tớ đã từng lấy cành cây đánh cậu ấy.

Thế là tớ sực nhớ ra, vội khoe với Hoành hôm qua ở bên ấy tớ đã gặp thằng Tuấn, trông rất đổ nát, nham nhở. Cậu ấy lại nhảy cẫng thêm lần nữa, hỏi tớ gặp ở đâu.

- Ở bãi tha ma.

Sau câu của tớ, Hoành lặng phắc.

Trước lúc Tuấn chết, tớ đến chơi, mặc dù nằm bẹp trên giường, người trong suốt như một củ cải, nó vẫn hỏi vay tớ một viên bi đá. Tớ hứa sẽ cho nó luôn, vì tớ có hai viên, đang xoáy một viên nữa. Cậu biết không, dạo ấy ở Tuyệt Sơn chưa hề có loại bi ve óng ánh như mắt cậu bây giờ, mà chủ yếu chỉ toàn bi đất sơn xanh đỏ vì thế những viên bi đá trở thành bố tướng. Nhưng tớ chưa kịp mang bi tới thì thằng Tuấn đã chết. Nó chết đúng lúc lũ từ mạn ngược tràn về dìm lút cả vùng Tuyệt Sơn, phải chờ tới ba hôm, nước rút hết mới đem chôn được.

Ngay khi thằng Tuấn chết, tớ đã mộng thấy nó. Nó cầm tay tớ dắt vào giữa một đám người và đám người dạt ra nhường lối cho hai đứa. Tớ hỏi, mày dắt tao đi đâu đây, thằng Tuấn không đáp, chỉ ầm ừ và khi đến một cánh cửa lóng lánh thì tớ ngập ngừng. Thằng Tuấn muốn tớ đi vào đó cùng nó, nhưng có ai cố gắng cản trở bằng cách làm nguội lạnh, tê điếng tớ ngay tại cánh cửa.

Ông thầy Quyền nói cánh của mà tớ nhìn thấy là cửa tử.

Biết không Phốc, hồi ở chiến trường, sau trận đánh, tảng sáng, người hy sinh cũng thường kéo nhau về rủ rê Đại tá của bọn mình đấy. Bác ấy bảo có lần họ gạ gẫm ngọt nhạt thế nào mà bác ấy đã xuôi xuôi kề nòng súng vào thái dương rồi. Nhưng rất may là lúc bóp cò thì bác ấy lại nhìn thấy hình ảnh sóng sánh của mình in dưới đáy nước cho nên thoát được ra khỏi giấc mơ. Đấy, thế mà vợ Hòa cứ choanh choách bảo lính phải cứu thủ trưởng. Chả tin.

Đã tới rồi, đúng không. Thấy cậu tênh tếch chạy ra cổng, cả đuôi và mặt đều vác lên là tớ đoán được ngay.

Hóa ra khách là chị em Hương Mai, Hương Mơ và Nguyên, con rể bác Hai tớ.

Thoạt đầu tớ choáng, tưởng là Lĩnh về, khi thấy Hương Mai. Lâu không gặp nên không hình dung ra nó lại giống Lĩnh đến thế. Cũng tóc dài, dày, cũng da trắng và đôi mắt to đen, long lanh vời vợi như vừa nhúng nước. Trước tớ có nghe chuyện Hương Mai yêu một thằng làm thợ sửa xe máy, bất chấp sự ngăn cản của vợ chồng Vân, hai đứa vẫn quyết định cưới nhau. Sáu tháng sau thì vợ chồng Hương Mai ra tòa ly dị và nó dọn về ở với bố mẹ.

Bề ngoài, Hương Mai trông hiền thục, thậm chí ngoan, không có nét gì của đứa từng gây sóng gió cho gia đình bằng cú lao đầu vào cuộc hôn nhân liều lĩnh.

Con bé Hương Mơ thì khác, trông nó ngổ ngáo hơn. Với mái tóc nâu đỏ uốn xoăn điệu đàng, với đôi mắt kẻ thẫm và cặp môi như bóng đèn quả nhót trên bàn thờ các gia đình, không thể nghĩ con bé này vừa học hết trung học phổ thông và đang ôn thi vào đại học. Xem ra Hương Mơ cũng chẳng dại như Vân ca cẩm, nó có vẻ từng trải, trông nét mặt, trông cách nghiêng đầu hất mái tóc sang bên để khoe cái cổ trắng ngần, mầm mẫm của nó, tớ nghĩ vậy. Bị tớ nhìn từ đầu tới chân, con bé cắn môi, hai má nó hơi phình và xoáy đồng tiền ở má bên trái hiện ra hút ánh sáng xung quanh vào đấy.

Hoành xồng xộc túm lấy hai vai Hương Mơ ấn mạnh xuống một cách thô bạo:

- Con này lâu không gặp, khác thế.

Lập tức con bé đó thoát khỏi trạng thái xa lạ, chừng mực đang giữ với tớ, ngoẹo đầu, ngoẹo cổ nũng nịu với Hoành bằng cách khéo léo, điệu đàng miết miết ngón cái và ngón trỏ vào nhau.

Hoành hiểu ý, ngoạc miệng cười, móc ví dúi cho Hương Mơ hai tờ năm trăm và nó bình thản nhận tiền thây kệ mẹ cằn nhằn. Tớ lặng lẽ ra ngoài đứng với Nguyên. Nguyên liếc nhìn Hương Mơ, ghé tai tớ thì thào rằng cái khóe miệng của con bé ấy trễ thế kia thì dứt khoát nó chỉ thích dấp dính với những người đàn ông cao tuổi hơn nó nhiều lần. Tớ lại nghĩ khác, tớ nghĩ con bé đó rồi thế nào cũng lại mở một quán karaoke như Lĩnh cho mà xem.

Hoành lấy ô tô chở mọi người vào viện. Tớ định ở nhà chơi với cậu cho cậu đỡ buồn nhưng vì Nguyên lôi kéo nồng nhiệt quá nên đành đi vậy.

Trái với chị, Hương Mơ có vẻ ngại không muốn lại gần giường bệnh, khi bị Vân lừ mắt nó mới miễn cưỡng nhón tay chạm vào tay Đại tá sau đó chạy ra ngay. Nguyên cố rít xong hơi thuốc cuối cùng, gí mẩu thừa vào góc tường, khoác áo của bệnh viện săm sái tiến vào. Lúc lâu sau Nguyên đi ra, mặt quan trọng, mắt trợn lên, bảo hồi xưa bố đẻ anh ta tai cũng héo y như tai Đại tá lúc này, sau đó bốn ngày thì mất.

Tớ buột miệng hỏi lại xem có đúng là bốn ngày không thì Nguyên hăng hái khẳng định:

- Nếu sai thì anh hộc máu chết ngay trước mặt chú.

Trước khi về, Nguyên còn kín đáo dúi cho tớ một cuốn sách mỏng, hơi nhàu nát, dặn thi thoảng đọc một trang cho Đại tá nghe. Cuốn sách ấy đây này Phốc. Tớ tin là có quá nhiều người mó máy đến nó cho nên nó mới nhàu nhĩ, bơi bả như thế. Cậu xem, chữ bên trong to cồ cộ, toàn là những câu ngắn nhưng đọc chả hiểu gì, mù mờ, tối nghĩa như sách trời.

Đại tá của bọn mình cũng đã từng cầm một cuốn sách bìa nâu như thế này cậu ạ. Bác ấy chạm vào nó đúng ngày hai chín tháng Tư năm bảy lăm.

Khi đơn vị của bác ấy dẹp xong ổ kháng cự, tiếp cận được ngôi miếu thì bắt gặp một người chẳng rõ đàn ông hay đàn bà vì tóc thì đàn ông nhưng miệng lại đỏ chót, áo quần lòe loẹt, phấp phới và bóng nhẫy. Người này đứng giữa những mảnh vỡ của bát hương và bài vị tay hờ hững cầm cuốn sách bìa màu nâu, dáng vẻ khinh khỉnh, chảnh chọe trước nòng súng sạm khói của những người lính. Thấy Đại tá, người này chìa cuốn sách cho bác ấy. Đại tá nghĩ đấy là tài liệu quan trọng nên giở ra, đọc lướt qua và khi bác ấy ngẩng lên thì người này đã lẳng lặng biến đi từ lúc nào. Chẳng biết làm gì với cuốn sách, vứt không đành, mang theo cũng chẳng tiện, thế là Đại tá đặt nó lên gờ bức tường bao của ngôi miếu, sau đó cho đơn vị tiếp tục di chuyển vào trung tâm thành phố. Bác ấy bảo bác ấy chỉ nhớ được đúng cái câu Thịnh thời đến, triệu thời về trong cuốn sách lạ lẫm đó. Nhớ được có lẽ cũng là vì nó hợp với tâm trạng xa nhà lúc ấy.

Tớ sẽ cất cuốn sách này đi, chỉ hai đứa mình biết, nếu tiện thì sẽ làm đúng như Nguyên dặn. Biết đâu đấy, phép mầu thường hay đến từ những chỗ rách nát, xệch xoạc. Nhỉ cậu nhỉ...

Không có khách, nhà vắng, khách đến rồi đi lại thêm vắng hơn, cứ như bọn họ lấy mất nhiều thứ.

Kể ra cũng ủy mị, tại sao bọn mình lại phải sầu não với việc vắng hay đông nhỉ. Vắng thì cũng chẳng phải là thiếu, mà đông thì dứt khoát là thừa ra. Thôi, nói chuyện khác cho vui đi. Cậu không có chuyện gì để kể hả? Trăm phần trăm là không hả? Thì tớ kể.

Đêm kia, tớ láng máng nghe thấy ai nhắc tới việc phải báo cho ông Cảo biết tình trạng của Đại tá, vì hai người bọn họ là bạn thân. Nhưng tớ phải giấu nhẹm chi tiết đó đi để khỏi bị Thảnh nổi cáu. Thảnh ghét mối quan hệ của Đại tá với ông Cảo, ghét mà chẳng nói ra lý do. Khuất cũng không thích, nhưng anh ta nói toẹt ra là quan hệ với ông Cảo thì không chỉ riêng Đại tá mà cả nhà sẽ rất dễ bị hiểu nhầm.

Đại tá biết ông Cảo vào buổi trưa ngày ba mươi. Tớ chỉ cần nói thế là tự khắc cậu đã hiểu ngày ba mươi của năm nào rồi, đúng không?

Lúc ấy thiếu tá Cảo cùng bạn mình, cũng là sĩ quan, đang bị tổ tuần tra giữ lại hạch sách giấy tờ thì Đại tá đi qua. Bác ấy liền trưng dụng thiếu tá Cảo để làm cái việc tìm và trao tận tay gia đình chiếc ba lô của người chụp ảnh đã chết mất xác. Đại tá kể là bác ấy chọn bừa thiếu tá Cảo chứ hoàn toàn không hề biết rằng đó là người trùng cả ngày sinh, năm sinh với mình.

Sau nữa, khi trở thành bạn nhau thì Đại tá còn biết ông Cảo không phải là lính hậu cần như ông ta khai lúc đầu, mà một thời từng được sung vào đội biệt kích của tổ chức ét o gờ cậu ạ. Theo ông Cảo viết trong thư gửi bác ấy thì bọn ông ta xâm nhập vào vùng biển miền Bắc bắt cóc dân đánh cá, bịt mắt đưa về cù lao Chàm ở Đà Nẵng, cho đi tham quan khu dân cư trên đó đã được xây dựng theo đúng như một làng chài ngoài Bắc, nhưng giàu có hơn, rồi bảo đấy là vùng đã được tổ chức kháng chiến giải phóng trên đất Bắc. Sau một thời gian cho ăn ở sung sướng, suốt ngày nghe chương trình của đài Gươm thiêng ái quốc, nhồi nhét vào đầu những tư tưởng nổi loạn chống chính quyền, thì lại bịt mắt đem ra vùng giới tuyến thả về để họ tuyên truyền cái vùng tự do sung túc, giàu có ấy cho những người khác.

Khi biết vậy, Đại tá có lằn nhằn rằng bác ấy không hề giận mà chỉ ngạc nhiên là tại sao trong chiến tranh người ta lại phải bày ra những thủ đoạn lạ lùng, tinh vi, tốn kém như thế. Chẳng phải bác ấy lằn nhằn với tớ đâu, mà với cái lá thư của ông Cảo.

Năm bảy mươi tám, thiếu tá Cảo ra thăm Đại tá. Ông ta chỉ mang được mấy gói kẹo mè xửng và dăm cân hoa quả, trong đó có hai trái sầu riêng mùi thum thủm chẳng ai ăn nổi, đành bỏ.

- Tôi đã thấy cả ruột, cả bọng đái, cả dạ dày của cậu trợ lý tác chiến đơn vị tôi. Tớ nhớ là tớ vừa trệu trạo nhá kẹo mè xửng vừa nghe Đại tá nói với ông Cảo như thế khi ông ta ca cẩm bị chính quyền thành phố làm phiền, đi đâu cũng phải xin phép, trình báo cậu ạ.

Ở sân ga Đồng Quang, ông Cảo hỏi Đại tá có nhớ viên sĩ quan đi cùng ông ta hôm bị tổ tuần tra giữ lại không. Đại tá bảo vẫn nhớ. Ông Cảo cho biết người ấy phải đi cải tạo ở Vĩnh Phú, sau đó lên Yên Bái, vì sức khỏe kém quá nên vừa mới chết. Hóa ra ông Cảo lên thăm mộ người bạn, sau mới ghé vào thăm Đại tá. Đại tá giận vì bác ấy chỉ là địa điểm tiện thể ghé qua trong chặng về của ông Cảo. Nhìn theo con tàu tróc lở, lem luốc chuyển đi, Đại tá đã nói với tớ rằng biết thế ngày ấy cứ để cho nhóm tuần tra xử lý thiếu tá Cảo như với viên sĩ quan bạn của ông ta. Vì tớ là cháu ruột của bác ấy, nên bác ấy mới nói thế, rồi ngay sau đó lại lẩm bẩm một mình rằng lẽ ra không nên cay nghiệt với một người đã mất hết cơ hội kiêu hãnh.

Đó là lần cuối cùng Đại tá và thiếu tá Cảo gặp nhau, còn lại thì bọn họ chỉ trao đổi qua thư từ và điện thoại thôi.

Tin tớ đi, sẽ có người lục lọi moi ra bằng được ông bạn miền Nam của Đại tá. Chắc chắn là có, nhưng cũng chắc chắn người đó không phải là Thảnh, là Khuất lại càng không.