Chương 14
Cách đây hai hôm, Mẫn đã điện thoại cho bà Thảo từ máy công cộng ở Sài Gòn, báo rằng nó vẫn mạnh khỏe, đã tìm được việc trong đó.
- Đấy, cứ lo hão là nó sẽ tự tử hay sang Tàu. Khôn chán.
Lanh kể xong, chẹp miệng kết luận. Theo Khuất thì đó chỉ là thông tin từ phía bà Thảo, cho nên chưa biết thực hư thế nào. Thảnh nghiêng đầu ngẫm ngợi, lát sau anh ta mới thủng thẳng đưa ra phán đoán là có khả năng hai mẹ con bà Thảo đã bàn bạc từ trước khi Mẫn trốn đi. Thảnh dự đoán chỉ thời gian nữa, sau khi tìm cách bán được nhà, bà Thảo sẽ vào Sài Gòn sống, vì giữa việc phải nôn ra một đống tiền với chuyển vào trong kia thì chẳng ai ngu lại chọn nôn ra tiền.
Xiển vừa đấm lưng cho Lanh vừa giỏng tai hóng hớt, buột miệng nói leo vào:
- Nếu phải tay cháu thì cháu cũng vào Nam cho sướng. Tội khỉ gì.
Tớ nghĩ bụng thế nào Xiển cũng bị Thảnh quặc cho, nhưng ngay lập tức Lanh gạt tay Xiển ra khỏi lưng mình, rướn người kêu lên như phải bỏng:
- Chết thôi, bố còn một người bạn ở trong Nam mà quên mất. Ông Cảo lính ngụy. Chưa ai báo tin cho ông ấy phải không?
Thánh chưa, tớ đã bảo rồi, phải có người nhớ ra ông ta chứ. Thế nhưng cũng ngay lập tức tớ biết là không ổn khi thấy mặt Khuất hơi tái đi và anh ta liếc về phía Thảnh. Thảnh có vẻ hiểu ý, liền lừ mắt nhìn vợ trấn áp, giọng cao vóng lên:
- Ngớ ngẩn. Những lúc thế này không nên cho ông ấy biết, nó làm giảm cái oai của bố đi.
Hoành ngồi im từ đầu, chỉ nhả khói thuốc một cách mơ màng, nghe Thảnh nói vậy liền đứng bật dậy. Nom mặt thì tớ biết là Hoành nóng tiết, nhưng cuối cùng cậu ấy chỉ phủi đám tàn thuốc bám vào áo quần như phủi lời Thảnh, đứng dậy bảo Xiển dừng đấm lưng cho Lanh để đi cùng với mình lấy cái máy thở.
Thấy mọi người ngơ ngác, Hoành giải thích là bạn cậu ấy có một cái máy không dùng nữa vì bà mẹ đã chết, cho nên phải đến lấy ngay kẻo người khác lại xin mất. Lanh dẻo quẹo bảo:
- Một mình chú cũng đèo được, sao mà phải cần đến hai người?
Hoành vặn mình, xương kêu khầm khập, cố lấy vẻ dửng dưng trả lời bà chị dâu là phải có người ngồi sau ôm cho chắc, rơi một cái thì phí. Cậu ngẫm mà xem, những thời điểm cần chốt giá với khách hàng theo ý cùa mình, Hoành luôn vờ vịt vặn người như thế để tạo ra vẻ xuê xoa và chẳng hiểu sao nó lại rất hiệu quả, gần như ít ai phản đối. Lần này cũng y chang thế.
Xiển và Hoành vừa ra khỏi cửa, Lanh liền chép miệng bảo:
- Tuyết nó mà biết thì lại điếc tai.
Mọi người lặng lẽ giải tán mang theo nhịp tim, hơi thở và cái bóng của mình.
Tớ nghe thấy tiếng con sáo đá hót đanh và vang, có thể nó hót được lúc lâu rồi nhưng bây giờ im ắng thì mới rõ. Tiếng hót của con sáo thật sạch sẽ, tinh khiết, trái hẳn với lúc nó uốn lưỡi ngọng nghịu bắt chước tiếng người.
Xưa tớ và Hoành từng nuôi một con sáo và dạy nó nói. Chính xác ra là nó kêu được tiếng mèo chứ không phải tiếng người. Đơn giản vì con mèo nhà ông Bách lúc nào cũng quanh quẩn chực vồ con sáo. Hai bên, kẻ trong lồng, kẻ ngoài lồng gầm ghè nhau rồi quen dần với tình cảnh đó đến mức một thời gian sau con sáo nhại được tiếng mèo. Con sáo ấy có hai khoang trắng đều tắp ở hai bên má, mỗi khi nó kêu tiếng mèo thì hàng xóm sởn hết cả gai ốc cho nên Lĩnh quyết định thả cho nó bay đi. Được xua ra khỏi lồng nhưng con sáo không bay, chỉ loanh quanh ở mấy cây hồng bì non trước sân, nghển cổ hót meo meo. Không bỏ lỡ cơ hội, con mèo vồ nghiến lấy con sáo, phi qua hàng rào về nhà ông Bách. Bọn tớ đuổi theo nhưng chẳng kịp, khi tìm được thì con sáo chỉ còn là một mớ lông trộn lẫn với máu.
Có tiếng lao xao ngoài đường. Rõ ràng là có tiếng lao xao, lao xao cật lực. Xem chuyện gì nào Phốc.
Bọn họ đang cãi nhau. Tớ đoán là Rồ chồng đuối lý so với vợ cho nên hắn liên tục văng cặc dái và chỉ có hai từ đó văng ra.
Cậu khoái lắm hay sao mà đuôi cứ ngoáy tít thò lò thế.
Rồ vợ nói nhiều, nhanh, trôi chảy, như nước cống tuôn. Tớ vừa thoáng nghĩ nếu Rồ vợ mà không dừng lại thì sẽ to chuyện, đã thấy Rồ chồng song phi một cú trời giáng vào giữa ngực vợ. Sau đó thì vung vít những cú giẫm đạp.
Làm cái quái gì thế Phốc? Phốc... dừng lại đi.
Đấy, ăn một cú đá chết điếng như vậy đã sáng mắt ra chưa. Tớ bảo cho mà biết nhé, cứu phụ nữ không dễ tẹo nào đâu. Dễ thì bây giờ Lĩnh đã chẳng mênh mang đậm đuôi xa cách bọn mình.
Thôi, kệ xác vợ chồng nhà ấy, đừng có dây vào. Tự làm vỡ thì cũng phải tự biết cách mà hàn vá lại, không liên quan gì tới bọn mình.
Về rồi kìa.
Xiển đi trước, tung tẩy, hí hởn, Hoành thủng thỉnh đi sau, tay xách một vật giống như cái ống xịt nước hoa của các ông thợ cắt tóc hồi xưa. Cái mà Hoành gọi là máy thở, nói riêng với cậu thôi nhé, thực ra chỉ là cái ống bóp bằng cao su để tiếp thêm ôxy dành cho trường họp nguy cấp, nó nhỏ gọn tới mức có thể một tay đi xe máy một tay cầm ngon ơ.
Xiển lao ngay vào bếp xăm xái nấu cơm.
Đồng hồ boong boong gõ mười một tiếng và lập tức tớ nhẩm ra là hai người bọn họ đã đi đúng một tiếng. Một tiếng thì nghĩ được nhiều hay làm được nhiều hả cậu?
Nắng tắt, bầu trời co lại và đổi màu, rồi mưa đổ xuống, thoạt tiên thì lác đác, sau ràn rạt từng đợt như ai đó đang sàng sảy cật lực. Những trận mưa ở cao nguyên mà Đại tá từng nếm trải hồi còn trong chiến trường cũng gây cho bác ấy ấn tượng ghê gớm với ngàn vạn hạt nước to bằng ngón chân cái ném sàn sạt, rát bỏng xuống cây cối và con người. Sau này, nhiều lúc ngồi lẩn thẩn ôn lại kỷ niệm cho tớ nghe, ừ, quên, cho cả cậu nữa, Đại tá bảo bác ấy vẫn còn thấy bàng hoàng vì những hạt nước to đến mức quái đản ấy, chúng giống như những loạt đạn dập vùi tan nát mọi thứ phía dưới.
Tớ và Hoành ngồi soãi chân nhìn ra mặt sân bời bời. Nước đổ trên các tán cây xuống thành từng mảng lớn, tiếng sấm rền vang trên bầu trời xám trĩu mọng và thi thoảng lại một ngọn sét quất chéo xuống đành đoàng, chói lói. Hoành gân cổ gào lên hỏi xem tớ còn nhớ ông Lũy không.
- Nhớ.
Tớ gào đáp lại, họng rát bỏng như nuốt nước sôi. Ngay lập tức một người đứng lẫn với mưa nhìn tớ bằng đôi mắt lỏng lảnh, xui tớ bằng cái giọng cũng lỏng lảnh, xin lỗi ông trời đi, xin lỗi ông trời đi. Nhưng tớ bĩu môi nghĩ, vớ va vớ vẩn, việc quái gì phải xin lỗi, thế là người ấy thất vọng ngã xuống và tan ra.
Mưa tạnh, nắng lại tỏa lênh láng làm cây lá ánh chói lên nhức nhối.
Tớ lom khom chạy ra sân, hai tay xòe trên đầu che những giọt nước ríu rít đang thi nhau rỏ xuống từ giàn hoa giấy, cả cậu cũng hân hoan lao theo tớ. Hai đứa mình tưng bừng như mở hội. Tận hưởng cái bóng loáng sau mưa thật thích. Đâu phải ai cũng giỏi như bọn mình. Cậu có thấy cả nước, cả trời, cả lá cứ xoay tròn cùng hai đứa mình không. Nếu có thêm Đại tá với Lĩnh lúc này thì tớ chẳng cần gì nữa, cả cái tiếng xì xào trong bếp kia cũng chẳng cần.
Nhìn kìa, Hoành ngoẹo cổ ngủ từ lúc nào, dãi xều từ khóe miệng xuống vai áo thành một mảng tối sẫm.
Bữa trưa lại chỉ có tớ và Xiển ăn, sau đó tớ vào thay ca cho Vân. Cậu thì chưa ăn đã ngủ khoèo như Hoành rồi.
Biết không Phốc, mưa đã làm lá của hàng muỗm cổ thụ nhạt màu đi rất nhiều.
Tớ ngồi lì bên giường Đại tá thấy bác ấy giống bức tượng, mặt hơi sạm, nhịp thở khẽ, kìm nén lạc giữa bao nhiêu những âm thanh nhiễu động đứt quãng của máy móc.
Tối hôm Đại tá dắt tớ về nhà, tớ đổ sốt, trận sốt kịch tính đến mức bác ấy tưởng tớ không qua nổi. Hơi thở của tớ khò khè, nóng rực, cả người tỏa ra mùi hồng, ngòn ngọt, nồng nồng. Đại tá đã ngồi trắng đêm bên giường để trông chừng tớ, cái thằng cháu, con cô em gái xấu số của bác ấy.
Này Phốc, đây cũng là một bí mật: sau mỗi trận sốt sẽ có một phần thân thể không bao giờ lớn nữa. Tớ nhắc lại, điều này chỉ mình cậu biết thôi đấy, nhớ chưa. Con người ta sinh ra phải có bí mật, ai không có bí mật không thành người được. Công nhận không Phốc?
Tớ chẳng biết bí mật của cậu, nhưng nếu có biết thì tớ cũng sẽ không hé răng với bất kỳ ai. Bọn mình phải tin nhau, phải gìn giữ cho nhau mới sống nổi ở cái chốn bát nháo này.
#
Gần ba giờ thì Sửu vào, dẫn theo một cậu cỡ ba mươi, ba mốt tuổi, ăn mặc lịch sự, từ Tuyệt Sơn sang. Cậu ta bảo thay mặt bố mình đến thăm thủ trưởng cũ. Bố cậu ta tên là Tình, thời chiến tranh từng làm lính của Đại tá.
Nhớ cái người thấp đậm, chân vòng kiềng trong bức ảnh chụp đơn vị Đại tá chứ. Bố cậu ta đấy, người tên là Tình ấy. Người chui ra từ bụng voi với quá tim to như cái ba lô ấy.
Sửu giới thiệu kỹ lưỡng bệnh tình của Đại tá cho cậu khách nghe với vẻ mê say, hãnh diện vì sự thông thạo của mình. Đây, chỗ này đã cứng lại, chỗ này đã loét, chỗ này đang nám, chỗ này, cả chỗ này... chỗ này... Cậu khách chăm chú dõi theo Sửu, không giấu được xúc động, nét mặt, cử chỉ lệch lạc, chực văng đi đâu đó. Trước khi về cậu ta trân trọng, ý tứ đặt chiếc phong bì lên nóc cái tủ inôc. Sửu sai tớ tiễn khách ra ngoài, còn anh ta ở lại lau mặt cho Đại tá.
Tớ hỏi cậu khách, được biết bố cậu ta, cái người tên Tình ấy đang phải ngồi xe lăn vì tháo khớp cả hai chân do tiểu đường nó phá. Bản thân cậu ta mới tiếp quản cửa hàng vàng bạc của bố và xem ra việc làm ăn cũng tạm ổn. Bắt tay tớ xong, đột nhiên cậu ta nói rất nhỏ vào tai tớ:
- Anh ạ, bây giờ bố em gần như mù hẳn rồi.
Tớ vô cùng sửng sốt, vì nếu thế ai là người đã chỉ đường cho cậu ta đến thăm Đại tá.
Khi quay trở vào, tớ bắt gặp Sửu đang xoay lưng ra cửa lúi húi đếm tiền mà cái cậu vừa đến thăm để lại.
- Một nghìn đô. - Sửu nói hụt hơi, mặt tái bợt vì xúc động - Ân oán gì mà sộp thế.
Khi gia đình tớ đào được vàng tớ thấy cử chỉ, thái độ, lời ăn tiếng nói của bố mẹ tớ cũng y như của Sửu bây giờ. Cậu biết không, trước đấy khoảng ba tháng, mấy đêm liền bố tớ đều nằm mộng thấy đỉnh ngọn cây đa gần nhà tớ sáng rực như có lửa phát ra. Bố tớ hỏi thầy Quyền thì thầy bảo người mộng thấy ánh sáng đó sẽ được của. Bố tớ thám đến mấy hố quanh gốc cây đa mà chẳng gặp gì. Vì bị đào xung quanh cho nên hôm trời chuyển gió thì cái cây bật gốc và đổ. Bố tớ sai em gái tớ, chứ không phải sai tớ, chạy ra đánh dấu điểm mà đỉnh ngọn cây chấm xuống, sau đó buổi tối cả nhà tớ lặng lẽ ra đào chỗ đánh dấu và vớ được chum vàng thoi.
Lạ ở chỗ nhà tớ giấu kín nhẹm, thế mà chẳng hiểu sao chỉ một hai hôm sau đã bị công an huyện để mắt tới. Khi họ xộc đến, cả gia đình tớ sợ hãi túm tụm đứng một góc. Sợ lắm Phốc ạ. Công an, cỡ đến chục người, súng ống đầy đủ, mặt mày lầm lì, lạnh tanh chia nhau khám xét. Một nhóm khám trong nhà, lục lọi, sờ nắn từng đồ vật, một nhóm ngoài vườn, ai cũng cầm một cây gậy sắt dài và nhọn xăm đi xăm lại từng mét đất. Quanh gốc cây hồng bị xăm nát nhừ, nát tới mức lúc ấy tớ vụt nghĩ nếu mai kia nó đổ thì nhất định tớ sẽ ra đào chỗ ngọn của nó chấm xuống xem có gì ở đó.
Ông đội trưởng chốc chốc lại kéo bố tớ ra hỏi, nhưng bố tớ lắc đầu khăng khăng chối là chẳng chứa đồ quốc cấm. Người ta hỏi mẹ tớ, hỏi em gái tớ, sau đó mới hỏi tới tớ. Dĩ nhiên là tớ không nói, cũng chẳng nhìn ra chỗ bố mẹ tớ giấu vàng. Tớ nhìn lảng đi chỗ khác nhưng chính vì vậy mà mặt tớ lại hướng về phía cái giếng. Thế là bí mật bị phát hiện.
Công an trục hết số vàng lên, mười thoi chằn chặn, rực rỡ trong nắng.
Mẹ tớ rên rỉ vài ngày rồi cũng trở lại bình thường, chỉ có bố tớ là càng lúc càng lầm lì tợn, mấy ngày không mở miệng nói một câu, hai mắt cứ quắc lên bóng rợn.
Một buổi trưa, tớ và em gái tớ đi học về, đã thấy bố đứng múa may ở chỗ cây đa đổ, tay chân quều quào, dớt dãi tràn ra hai bên khóe miệng. Sau đó thì bố tớ bỏ nhà đi biệt tích và chẳng ai tìm.
Cũng chẳng mấy ai để ý cái đêm nhà tớ cháy chính là đêm tớ trốn được khỏi gia đình người Thổ kia.
Bây giờ tớ nghĩ có khi bố tớ cố tình bỏ nhà đi để tớ bị ông cụ ấy dắt tớ về cho con trai ông ấy.
- Ân oán gì mà sộp thế.
Sửu như bị mộng du, bồn chồn đi quanh giường Đại tá, miệng cứ lảm nhảm mãi một câu.
Phốc này, cậu chẳng được đi học nên chẳng biết rằng vàng là thứ kim loại vô cùng dai dẳng, vô cùng quái đản vì rất khó phá vỡ được cấu trúc của nó. Chả thế mà mấy hôm sau khi bị trục hết vàng, cái giếng của gia đình tớ vẫn hắt lên ánh sáng lấp lóa, rờn rờn như nắng. Dư ảnh của vàng đấy.
Nhưng Phốc ơi, cậu có nghĩ vàng bày bán ở các cửa hàng đều là vàng đào được không?