Chương 17
Bọn tớ sang tới nơi thì Hòa đã đốc thúc cánh thợ của Liệt làm được một lúc.
Hoành liếc chiếc răng cửa bị khuyết của Liệt, thoáng chút bần thần, nhưng chỉ là thoáng chút vậy, sau đó cậu ấy lại tỉnh bơ như không, nói chỉ đủ cho tớ nghe được:
- Mẹ cái thằng dở người này, hồi xưa nó chửi vơ chửi vẩn giờ hóa ra lại ứng nghiệm.
Tớ lùi lại, nghi ngại nhìn cái dáng dị dạng quái đản của Liệt rồi nhìn đám thợ choai choai đang hùng hục bổ cuốc xuống.
Đất chia thành nhiều lớp, trên cùng là lớp sỏi gan gà, tiếp theo tới lớp đất đỏ dày khoảng một gang tay, hết đất đỏ là tới tầng màu đen nhạt ảm đạm, mềm và nhiều xơ. Hoành còn lăn tăn nên xui tớ hỏi Hòa xem liệu đây chắc chắn có phải là đất sạch không hay đã từng chôn người khác rồi. Hòa bực dọc cúi xuống bốc một nắm đất mà đám thợ vừa hất lên, bóp vụn rồi xòe ra trước mặt Hoành và tớ.
- Nào, đã yên tâm chưa? Không tin tôi thì tin ai.
Ở đây, ai chôn chỗ nào tôi nắm trong lòng bàn tay cả - thấy Hoành cúi gập xuống nghiêng người nhìn đất đang vung từ dưới hố lên cùng với đầu lưỡi xẻng lấp ló, chờn vờn, Hòa trấn an tiếp - Vị trí này là nhất rồi, chẳng có chỗ nào hơn nữa đâu.
Vừa nói Hòa vừa thục chân đá văng một hòn sỏi khiến nó biến mất trong đám cỏ gianh cách đấy khá xa.
Liệt cầm xẻng nhao lên khỏi miệng huyệt. Thanh niên chống cuốc đứng bên trên cố rít nốt hơi thuốc rồi nhảy thụp xuống. Tiếng phập phập vang lên từ dưới lòng huyệt, cật lực, bền bỉ. Hoành lại rỉ tai tớ là cậu ấy ngờ Hòa chỉ thánh tướng, có khi chẳng biết gì.
- Nằm ngoài rìa thế này lạnh lẽo bỏ mẹ ra. Bác công nhận không?
Tớ ậm ừ cho qua vì không muốn rắc muối vào lửa. Trong khi đó Hòa oang oang chỉ đạo cánh thợ căn chỉnh lại hình dáng của huyệt, khoét chỗ nọ, vạt chỗ kia sau đó còn đích thân cầm cây xẻng gạt đất ra xa khỏi miệng huyệt. Anh ta giải thích với tớ làm thế để lúc hạ quan đất khỏi xô xuống.
Những con chim đen vẫn chấp chới lên xuống ở cây nhội già. Tớ thấy một người xiêu điêu đi trên con đường mòn sát với bãi tha ma, vừa đi vừa húng hắng khạc nhổ.
- Mả cái con mẹ nó, đào huyệt cho Đại tá hả?
Lão Cần vươn cổ ra đằng trước hỏi với vào.
- Vâng - Hòa đáp vẻ cảnh giác - Chú đi đâu mà qua đây?
Lão Cần lại khạc quàng quạc như vịt, nhổ phù một cục khỏi miệng, ghếch mặt nhìn bao quát khắp bãi tha ma, bảo:
- Quanh quẩn mãi cũng chán, chẳng có việc đéo gì thì ra xem chúng mày làm ăn thế nào. Thằng Thảnh phải không?
- Không ạ, cháu là Hoành, con út.
Hoành trả lời trong khi vẫn cắm mặt dò tìm số điện thoại nào đó trong máy. Lão Cần nói:
- Thôi con ạ, đã sống thì phải chết, tao cũng thế, chúng mày cũng thế. Đến lúc đi thì ông cụ đi thôi, đừng có mà cố níu kéo, nghe chưa.
Lão Cần xéo bừa lên những cây xấu hổ bước sấn tới, lúc ấy lão mới thấy tớ và nheo mắt thay cho lời chào. Liệt cùng với cánh thợ đứng vây thành hình vòng cung bên huyệt chờ Hòa sai bảo, tất cả vẫn cỏi trần, người nhóng nhánh như vừa được tưới mật. Lão Cần khom khom ngó xuống lòng huyệt, tấm tắc khen đất khô ráo thế, lão nhìn cũng muốn nằm.
Hòa được cởi lòng, ùa ra, vung tay giảng giải cho lão Cần vị trí đắc địa của huyệt. Lão Cần gật gù nhưng tớ đảm bảo với cậu là lão không chút mặn mà, háo hức gì.
Hoành đã gọi điện thoại xong, quay lại, thu hai tay vào túi quần, mặt cậu ấy lộ rõ vẻ băn khoăn, toan tính.
Liệt bảo nếu không còn việc gì nữa thì thanh toán tiền để hắn cho thợ về nhưng Hòa sai đào thêm hai cái hố nhỏ chếch hai bên huyệt để sau này sẽ trồng hai cây đại. Nghe thế, lão Cần la toáng lên bảo đã có sẵn cây nhội kia là đủ, trồng thêm cây, không cẩn thận rễ nó ăn vào mặt Đại tá thì tai họa. Theo lão xung quanh người ta thế nào thì mình thế ấy, cứ lẫn vào đám đông là yên ổn nhất.
Hòa không nghe, anh ta lý sự đại thuộc loại cây rễ chùm, lành tính hay được trồng trong chùa cho nên rất hợp với người chết. Cậu biết không, tớ muốn nổi xung lên, muốn cãi lại rằng đại là cây không có đỉnh ngọn rõ ràng cho nên rất vô tích sự, nhưng rồi tớ im lặng vì nghĩ chắc gì đã dùng tới cái huyệt này.
Đám thợ lại hì hụi đào hai cái hố.
Lúc sang, cả tớ và Hoành đều không để ý bên đường vì mãi nói chuyện, nhưng khi quay về, bất chợt nhìn thấy cái cây cột số thuở xưa, nằm ở ven đường thì cả hai đều ngẩn ra. Hoành đạp phanh gấp làm chiếc xe khựng đứng lại.
Cây cột số bằng xi măng pha đá dăm, hồi còn bé, tớ và Hoành thấy nó giống một cây nấm, giờ lại thấy giống cái dương vật, với đầu trên múp múp và có ngẵng cổ, còn phần dưới thì thẳng căng. Nó là cây cột báo quãng đường từ Trại Mau ra Đồng xẩm và nếu tính chính xác thì đó là đoạn gần giữa tuyến đường. Ngày dắt tớ về gia đình mình, đến cây cột số này Đại tá đã bảo tớ ngồi lên đấy để bác ấy phủi sạch bụi bặm trên áo quần tớ trước khi bước vào nhà. Và bác ấy đã nói vui với tớ, với thằng cháu bồ côi bồ cút, rằng bụi chỉ nên đứng ngoài cửa chứ không nên theo tới tận giấc ngủ.
Hồi trước, với trẻ con, được ngồi trên cây cột số như ngồi trên chiếc ngai vàng, đầy kiêu hãnh, quyền uy, vì thế các buổi tối, bọn chúng tớ thường tranh nhau chạy ra xí phần. Cái vụ Hoành làm mất chiếc răng cửa của thằng Liệt cũng do cả hai đều nhận mình chạm tay vào cột số trước, thế là xông vào choảng nhau. Tớ thấy Hoành bị Liệt túm được cổ áo vật xuống, đè hai đầu gối lên ngực và đấm vào mặt thì nhảy xổ vào đạp một phát rất mạnh làm Liệt ngã bổ chửng ra. Hai thằng bọn tớ giẫm đạp Liệt điên cuồng cho đến khi Vân với Lĩnh chạy ra quát mới dừng lại. Lúc ấy mặt Liệt như quả hồng thối, cái áo công nhân anh nó cho thẫm một vệt ở ngực. Đó là máu mồm chảy xuống. Hoành đã đấm gãy một răng cửa của Liệt. Thế nhưng Liệt không khóc, nó thở hồng hộc, trợn mắt nhìn bọn tớ, bất chợt ngoác cái miệng nhòe máu gào lên, tao sẽ đào huyệt chôn bố mày.
Tớ nói cái răng cửa của Liệt do Hoành làm gãy chứ không phải tớ, vì tay cậu ấy còn bị một mảnh răng vỡ cắm vào rất sâu, mãi Lĩnh mới nạy ra được.
Cạy cột số không khác đi mấy, miếng sứt ở cạnh bên trái do cú đập bằng búa của lão Cần rỗ khi nghe tin Việt hy sinh vẫn còn nguyên nhưng không sắc cạnh nữa mà đã tự mài cho tròn lại. Ngay lúc này, tớ như đang nhìn thấy thằng Liệt ngồi trên cây cột số, dáng gù gù, cái đầu to quá khổ, méo mó như củ chuối và đôi môi sưng vểu. Một mình nó với cái ngai vàng phải trả giá bằng chiếc răng cửa Phốc ạ.
Hoành nhấn ga, chiếc xe lăn bánh đi tiếp nhưng không về mà tạt sâu vào chân núi. Đến ngã ba, cậu ấy hỏi tớ có nhu cầu ghé qua xem nền cũ của nhà tớ không nhưng tớ cương quyết lắc đầu. Ở đấy chẳng còn gì ngoài hai nấm đất. Nếu muốn qua thì tớ đã qua từ những lần trước. Hoành chép miệng cho xe lạng sang trái, cậu ấy cần chụp mấy kiểu ảnh gửi sang cho cái Chi, con gái cậu ấy, để nó hình dung tuổi thơ của bố nó nhọc nhằn như thế nào.
Con đường ngày xưa Lĩnh và hai thằng bọn tớ bìu ríu nhau đi học vẫn mảnh dẻ, hiu hắt như thế.
Hôm nào đi học, Lĩnh cũng kể cho bọn tớ nghe chuyện. Lĩnh vừa cõng Hoành vừa kể hết chuyện này đến chuyện khác, những thứ Lĩnh đọc được qua sách. Hôm nào Lĩnh mệt, sắp ốm, câu chuyện sẽ hơi rè, thiếu mạch lạc, còn lại thì rạch ròi, trơn tru như bóc vỏ chuối. Có lần, nghe giọng Lĩnh rời rạc, tớ hỏi: Chị ốm hả? Lĩnh chối: Đâu, ốm đâu mà ốm. Tớ bảo: Nếu chị không ốm thì sao chuyện lại rè như nước suối chảy qua gốc cây thế. Lĩnh gân cổ cãi, Lĩnh không ốm là không ốm. Sao Phong cứ bảo Lĩnh ốm là thế nào nhỉ. Hoành ngả mặt xuống, má cậu ấy áp vào má Lĩnh, phụng phịu: Bao giờ giọng chị hết rè. Lĩnh chệnh choạng bước một đoạn dài nữa, vượt lên con dốc rồi mới trả lời: Một tuần. Tớ im lặng, Hoành im lặng và Lĩnh nài nỉ: Cứ tin chị đi, chờ đúng một tuần nữa thì chị khỏi. Tớ thấy vệt ướt từ mắt Lĩnh lẫn sang má Hoành.
Hôm sau Lĩnh đổ sốt, lên đến gần bốn mươi độ cậu ạ. Tớ với Hoành phải tự dắt díu nhau đến trường. Hoành đòi tớ cõng nhưng tớ dứt khoát không cõng. Tớ bẻ một cành cây ven đường làm roi, giơ lên bảo: Lúc tao xin cõng thay cho Lĩnh mày không cho, giờ thì tự mà đi. Hoành đi được một đoạn, đau chân, ngồi bệt xuống, bị tớ quất cho mấy cái, phải đứng lên vừa đi vừa khóc. Bây giờ nhớ lại tớ thấy lần ấy Hoành giống như con nghé bị đem bán. Cậu biết không, sau đó Hoành về mách với Lĩnh. Nhưng Lĩnh lại bênh tớ, Lĩnh bảo với cậu ấy tớ làm thế là đúng. Từ bây giờ em phải tự đi thôi. Mạnh mẽ lên, con trai mà yếu ớt thì thành con... Tớ ngó qua khe cửa, thấy Lĩnh dừng lại không nói hết câu, ấp hai tay lên che mặt, khuôn mặt rực như than lửa.
Hôm cưới Lĩnh, tớ mói hỏi: Chị Lĩnh, chị Lĩnh, hồi trước chị bảo làm con trai mà yếu ớt như Hoành thì thành con gì cơ? Lĩnh đáp: Chưa nói được, lúc nào nói được Lĩnh sẽ nói cho Phong.
Từ bấy đến nay Lĩnh vẫn để lại cho tớ và Hoành một con vật bí hiểm không rõ hình dáng, không rõ chủng loại cậu ạ.
Tớ ngó những bụi cây lòa xòa ven đường, bảo Hoành nếu bây giờ có Lĩnh trên xe thế nào Lĩnh cũng nói cho hai thằng biết con gì là con gì. Hoành chớp chớp mắt mấy cái, mặt cậu ấy thoắt trở nên sắt đá:
- Anh em mình sống trong thời xú uế, lết được đến đây là phúc bảy mươi đời rồi, thành con đéo gì mà chả được.
Theo cậu thì Hoành nói thế đúng hay sai?
- May là vợ chồng em lẳng được con Chi sang bên kia nên yên tâm phần nào. Chứ thực ra ông Thảnh ông ấy sợ cũng có cái lý của ông ấy.
Hoành buông thêm câu nữa.
Mé phải dãy Tuyệt Sơn là nơi nhà cũ của gia đình tớ, còn mé trái là nơi dân sơ tán từng lên đấy tránh bom suốt quãng thời gian dài.
Hồi ấy máy bay Mỹ quần thảo để tìm kiếm và triệt hạ trường lái xe Tiến Bộ, đã hai lần bom đánh sát sạt trường và lần thứ ba thì nó giội trúng mục tiêu. Người ta nói rằng có do thám, chỉ điểm nên máy bay mới đánh chính xác như vậy. Một ngày, có lệnh phổ biến tới từng nhà là sắp tới Mỹ sẽ đem B52 ra đánh cho nên để tránh thiệt hại, các gia đình phải sơ tán vào hang núi, chỉ mang những vật dụng cần thiết, còn lại thì để nguyên nhà và theo lệnh của xã, không ai được ở lại.
Rồi nghe tin đã bắt được thằng do thám. Tớ với Hoành chạy nhào ra xem, thấy dân quân đang trói giật cánh khuỷu người bán tương quen thuộc của dân Tuyệt Sơn. Khuôn mặt người bán tương trầm lặng, hơi lạnh, gò má nhô cao với vết tím nổi u bằng quả ổi, cái áo đại cán của ông ta bị rách một vết khá lớn ở vai trái và có dấu máu loang trên ống quần. Ông ta đi chân đất, chắc là dép đã bị văng mất trong cuộc vật lộn hoặc bị người ta cố tình thu lại. Ngoài cửa hang, chiếc xe đạp của người bán tương nằm chỏng gọng, vành trước bị bóp bẹp hình số tám. Ông xã đội trưởng chỉ huy đám dân quân lục tìm cái máy phát tín hiệu cho máy bay. Hai chiếc thùng được một dân quân thò tay vào khoắng nhưng vẫn không thấy gì. Ông xã đội trưởng sai thằng Khoa con lão Cần lấy búa bổ củi ra. Khi chiếc búa được mang tới, ông xã đội trưởng giạng chân vung búa lên bổ một nhát xuống, cái đai sắt thứ nhất đứt bung, ông ta lại bổ nhát nữa làm cái đai phía dưới đứt đôi và những mảnh gỗ mòn nhẵn, cong cong khum khum tãi ra lẫn với tương đổ lênh láng thành vũng lớn màu vàng nâu, tỏa lên mùi chua lờ lợ. cầm từng miếng gỗ còn nhầy nước tương lên săm soi, không thấy gì, ông xã đội trưởng hất hàm cho một dân quân bổ chiếc thùng thứ hai ra để kiểm tra. Cũng y như thùng trước, chẳng có máy phát tín hiệu nào. Ông xã đội trưởng nhăn trán nghĩ ngợi rồi mặt bừng lên. Dân quân khám kỹ áo quần và tìm thấy một mảnh gương nhỏ trong túi áo của người bán tương. Đó là bằng chứng để khẳng định đích thị đó là tên do thám.
Mấy ngày sau, một người đàn bà dắt theo ba đứa con gái, trong đó đứa lớn nhất cũng sàn sàn tuổi tớ với Lĩnh, mò lên hang tìm chồng. Người đàn bà mếu máo hỏi xung quanh, ông ấy nhà tôi tên là Khang, đi mấy hôm rồi mà chẳng thấy về, có ai biết ông ấy ở đâu thì mách cho mẹ con tôi với. Chẳng ma nào dám trả lời cậu ạ. Người đàn bà bảo, tôi thấy hai thùng đựng tương của ông ấy vỡ ở gần cửa hang. Hay là ông ấy bị bom chết rồi? Nếu bị bom chết rồi thì các ông các bà làm ơn chỉ cho mẹ con tôi chỗ chôn xác của ông ấy. Ba đúa con gái lập tức khóc ầm lên làm náo động cả hang.
Thời điểm ấy không ai rõ số phận của người bán tương ra sao, nhưng họ đã biết ông ta tên là Khang, nhà ở Gờ Đậu. Về sau, khi người đàn ông vô danh bị chôn ở nghĩa địa lên tiếng chửi bới thì dân Tuyệt Sơn mới rõ số phận của ông Khang bán tương cậu ạ.
Hoành đăm đăm nhìn phía trước, tay trái ôm vô lăng, tay phải kẹp điếu thuốc đưa lên miệng rít hơi dài, vừa dè sẻn nhả khói vừa nói:
- Nếu cháu ông Khang mà lại lấy thằng Tuyên nhà mình thì đúng là cái đất này tròn như hòn dái thật.
Tớ cười, nhẹ đến mức nụ cười rớt ngay về phía sau cùng với cây cối, nhà cửa và những bóng người rải rác hai bên đường đang vùn vụt qua kính xe.
Ước gì cái người đang đứng khép nép bên dệ đường đỏ quạch bụi kia là Lĩnh