Chương 18
Huyệt đào xong chưa?
Như sau cả thế kỷ hai chị em ngồi cạnh nhau bên giường Đại tá, Vân mới lên tiếng, và làm tớ ngạc nhiên vì âm sắc hơn là vì nội dung câu hỏi. Giọng Vân thản nhiên, hơi lạnh lùng, chán nản. Cậu ạ, bây giờ thì không phải cảm giác bị vỗ vào não nữa mà là cảm giác bị dận một phát vào ngay tim. Tớ ngơ ngác nhìn Đại tá, nhìn những khung treo huân, huy chương và bằng khen trên tường, rồi lại nhìn bác ấy, lưỡi như thụt sâu vào trong vòm họng.
Vân không cần câu trả lời của tớ, chị ta bình thản xếp những chiếc ống hút cho gọn, buộc lại, thả vào túi ni lông sau đó nhét vào góc tủ.
Khi Vân tiếp tục lôi những chiếc khăn nhàu nhĩ ra, cẩn thận, chu đáo đặt lên đùi, vuốt chúng thật phẳng, rồi gấp lại thì tớ kín đáo quan sát chị ta. Khuôn mặt Vân đã tọp đi, những vết nhăn đã trở thành những vết nứt, mọng mắt căng lên như hai túi nước, sóng xệ một cách trớ trêu, hai mu bàn tay chị ta lốm đốm những vết nám, còn các khớp nối thì lồi lõm gồ ghệch. Lâu chưa gặp nên tớ rất sợ rồi tới lúc Lĩnh cũng bị sa sút như thế. Tớ sợ lắm Phốc ơi. Vân gấp xong đống khăn, thừ ra, hai tay khoanh trước ngực. Thấy mắt Đại tá đóng nửa vời, chị ta khẽ khàng dùng ngón út vuốt nhẹ lên hai mí bác ấy cho tới lúc chúng khép kín lại thì mới đứng dậy, bỏ ra ngoài. Tớ ngẩn người nhìn theo như là Vân sẽ đi mãi mãi, nhưng ngay sau đó chị ta quay trở lại vơ lấy khẩu trang và chiếc kính bỏ quên trên mặt tủ.
Như không hẹn mà cả Thảnh và Hoành đều vào cùng một lúc. Ngồi xuống là hai người lại quay sang tranh cãi về thằng Tuyên. Phải một lúc tớ nhận ra là bọn họ đã nói chuyện này dở chừng, giờ kéo nhau tới đây giải quyết nốt. Cậu với tớ se sẽ ngồi nghe là đúng rồi vì bọn mình chả dính dáng gì mà xen vào. Vợ chồng Thảnh muốn Tuyên học lấy một nghề đàng hoàng, còn Hoành thì bảo cái đó do thằng Tuyên quyết định, không phải do vợ chồng Thảnh, vì nó đã trên mười tám tuổi, đã có chứng minh thư, đã đủ tư cách chịu trách nhiệm về bản thân. Thảnh đang lúng túng trước lập luận rạch ròi, sắc lẹm của Hoành thì may sao điện thoại cố định đổ chuông thế là anh ta nhảy bổ đến nhấc ống nghe. Đầu dây bên kia vang lên giọng miền Nam, rè, cờn cợt. Thảnh chau mày nhẫn nhịn nghe, sau đó buông một câu rắn rỏi:
- Bố cháu đang đi họp hội cựu chiến binh, chưa biết lúc nào về.
Lúc Thảnh nghe điện thoại, tớ thấy Hoành hết đứng lên lại ngồi xuống, nhưng khi Thảnh dập ống nghe và chắp hai tay ra sau, đi lại ngó nghiêng bên giường Đại tá thì cậu ấy lại không hề nói câu nào.
Tớ biết ai là người vừa gọi điện.
Ngoài đường, trên vỉa hè, bọn trẻ con nhà Rồ đùa nhau tán loạn, con bé răng vổ vẫn ngoác mồm ra rả: Ngày xửa ngày xưa, có một ông vua, đánh rắm tua tua...
Con bé này ngọng giống con sáo, chưa lần nào phát âm tiếng chua chua cho chuẩn xác. Như thế là... là... Ôi giời, tớ đã hiểu Đại tá dạy con sáo nói câu gì rồi. Này, ghé sát tai lại đây, tớ nói thầm cho mà biết... Đấy, đấy lại là một bí mật nữa của hai đứa mình, cấm được hé răng với ai, nhớ chưa.
Tầm ba giờ chiều, khi nắng xoãi dài trên sân thì Vân trở lại nhà cùng với Tuyết, mỗi người xách một túi ni lông to, lẳng lặng cất ngay vào ngăn tủ.
Sao cậu nhìn hai người bọn họ gườm gườm như nhìn kẻ thù vậy? Sao thế hả Phốc?
Bỗng dưng những chiếc lá hải đường run rẩy đỏ trong ánh sáng nhập nhoàng của nắng đập mạnh vào trí não tớ. Ngày tớ trốn được về Tuyệt Sơn, đứng trên dốc Bu Rùm, trong ánh nắng lọc qua sương mù, tớ thấy cảnh tượng đó, thấy ánh sáng đỏ chạy lướt trên những ngọn cỏ và tạo ra những con sóng rờn rợn để rồi tan biến ở mép của bóng tối, nơi không thể phân biệt trời và đất, núi và sương. Đấy là lúc tớ hình dung phải có một ngọn lửa được đốt lên cậu ạ.
Nhìn đi, nó đang cháy đấy.
Ngọn lửa lùng bùng bên trong thùng tôn được gò theo hình dáng một ngôi tháp, thân vuông, phần trên thu lại và có mái cong, thi thoảng thò ra vài lưỡi nhỏ làm lòng dạ tớ cứ thót lại. Mùi lá hồng khô ngập tràn trong các nang mũi tớ và tuồng như mọi thứ nhảy múa hân hoan theo những cái lưỡi mềm mại, lộng lẫy kia. Lửa lúc nào cũng đẹp, cũng sạch sẽ vì nó hóa được cả vàng, cả bạc, cả nhà... Có đúng không, mày sạch mày rất thơm, đúng không, tớ hỏi. Ngọn lửa vươn lên xác nhận: Đúng, đúng.
Vân gạt mồ hôi lấm tấm trên hai gò má, dặn Sửu lúc nào rỗi thì đem túi tro ra sông thả.
*
Giữa chiều và tối nối với nhau bằng một cái chớp mắt chẳng rõ ràng. Không khí lờ đờ rồi lặng phắc. Cậu bỏ tớ ra ngoài hiên, nằm gối mõm lên hai chân, nửa người của cậu được chiếu sáng bởi ánh điện hắt từ trong nhà ra, nửa sau chìm vào bóng tối nên trông như bị cắt làm đôi và cái phần thân trước đang cố bơi vào nhà.
Trông cậu thực sự lạ lùng.
Chẳng biết cậu có phải là Phốc hay không nữa.
- Nó mà không là nó thì là gì.
Sửu xách túi tro đứng trước mặt tớ, đáp vậy, rồi tiện thế kéo tớ cùng ra sông với anh ta.
Đến gần đầu cầu Gia Bảy, khi thấy rặng tre vàng úa rũ rượi, Sửu hỏi nên chọn chỗ nào đổ thì tốt. Tớ bảo cứ lên hẳn trên cầu rồi thả xuống sẽ nhanh hơn, nếu lần xuống mép sông vừa dễ bị rắn cắn lại vừa dễ giẫm phải kim tiêm và cứt.
Hai chúng tớ đi ngược lên cầu. Cây cầu này ngày xưa làm bằng gỗ lim, khung sắt, mỗi lần đi qua nó kêu cà kêu cộc như đi trên cơ thể sống. Giờ thì người ta xây xi măng và trải nhựa nên nó giống con đường hơn là cây cầu.
Tớ vịn lan can ngó xuống dòng nước vàng đục lờ lững chảy trên một vầng trăng to sóng sánh, tự dưng nghĩ nó giống với ổ rồng. Thấy Sửu vẫn nắm chặt túi tro, mắt thì cứ dõi đâu đâu sang hai bên bờ, tớ giục anh ta làm cho xong rồi còn quay về. Sửu đưa cho tớ túi tro bảo tớ thả.
Tớ cẩn thận mở nút buộc cho miệng túi phanh ra, vung tay lẳng xuống. Túi tro chạm mặt nước phát ra tiếng kêu đục trầm rồi một phần tro tóa lên bị gió cuốn là là thoang thoảng trên sông như con rồng trắng. Chỉ một loáng, con rồng trắng xuôi theo chiều nước chảy và chìm vào bóng tối thun thút phía cuối dòng.
Khi về, chúng tớ đi men theo đường cạp dọc bờ sông mà mới hôm nọ bọn mình đã đứng xem hoàng hôn đỏ ối đầm đầm đổ xuống như lửa đổ. Bây giờ con đường đoạn sáng đoạn tối, chỗ sáng thì tưng bừng, rờ rỡ, chỗ tối thì âm u hung hiểm. Tớ lại hình dung tới cảnh mấy ông bác tớ cùng nhau đi từ hồ về vào cái đêm bác Cả chứng minh cho bác Hai biết con người thật của cô Ngải. Đêm ấy, theo Đại tá kể, cũng là rằm, trăng sáng đến mức tất cả đều đứ đừ, chỉ có mùi hương từ nhà ai đó dật dờ lê dọc theo hàng phố.
Mà mọi chuyện bắt đầu từ lần bọn mình ngồi vừa ăn bánh gai vừa tán chuyện, nhỉ Phốc nhỉ? Tớ đã mạnh dạn bảo Đại tá là sì sụp như bà Lan thì có gì hay ho đâu mà sao bác ấy lại cứ gọi ý cho Lĩnh bắt chước. Thấy bác ấy im lặng, tớ được thể cằn nhằn lẽ ra nên giữ Lĩnh lại, giữ chặt lại, như thế vui biết bao nhiêu vì chẳng rụng mất một cánh hoa nào. Đại tá nheo mắt ngó ra cây hải đường, thay vì trả lời, bác ấy sửa lại tư thế ngồi, kể cho bọn mình nghe chuyện ba người bọn họ. Cậu nép vào chân tớ tai giỏng lên, bụng phập phồng thổn thức. Không qua được mắt tớ đâu nhé, cậu đã lắng nghe một cách rất xúc động, xúc động hơn cả tớ.
Cô Ngải được Đại tá tả rất kỹ, kỹ đến mức cô ấy hiển hiện ngay trước tớ, với nước da trắng, dáng người hơi đậm, tóc dài, dày, phủ kín lưng như một tàu lá chuối đen óng, tươi mởn.
Này, cái giọng rỉ rủ của Đại tá bây giờ còn nguyên trong tai tớ, chưa nhòa tí nào, hay là bọn mình cùng nghe lại nhé, được không. Được hả, cậu, cậu thật nhân ái.
... người thế thì ông Hai như ăn phải bùa mê thuốc lú là đúng. Nhưng sự đời nó oái oăm ở chỗ Ngải lại mê ông Cả chứ chả thèm đoái hoài tới ông Hai các cậu ạ. Ông Cả ấy hử, còn phải nói, ông ấy to cao, hào hoa, đầu lúc nào cũng bóng mượt, ria con kiến, giày da bóng lộn, miệng thì luôn chểnh mảng cái píp. Sự đời nó còn oái oăm nữa, là ông Cả ông ấy chẳng có tí tình cảm gì với Ngải, chả những thế, ông ấy còn coi thường vì biết Ngải lăng nhăng với đám Nhật. Ông Hai thì nằng nặc bênh Ngải, cho rằng Ngải là người đứng đắn, dứt khoát không phải loại lang chạ. Hai ông ấy cãi nhau. Ôi chà, tớ thì chắc các cậu đoán được rồi, phận làm em, nên chẳng dám nghiêng về bên này hay bên kia. Cuối cùng ông Cả với ông Hai thách nhau xem ai đúng. Thanh niên thời nào cũng thế, hung hăng ngào ngạo lấy được ấy mà. Một hôm ông Cả bảo tớ với ông Hai nấp sẵn ở rặng bạch đàn ven hồ, ông ấy sẽ dắt Ngải ra sau. Ông Hai thua các cậu ạ...
Các cậu chằng mường tượng ra được thời của bọn tớ đâu. Thời bọn tớ nó sôi sục ghê gớm. Nhất là từ khi thằng Nhật nó đảo chính thằng Pháp, các hội đoàn, các đảng phái xuất hiện như nấm sau mưa, lại cộng với tin đồn sẽ có sự tái sáp nhập Bắc Kỳ vào Việt Nam đế chế cho nên không khí thị xã càng thêm sôi sục.
Mấy anh em nhà tớ cũng bồn chồn. Rồi ông Cả ông ấy bảo làm nam nhi mà cứ loanh quanh bên cái xưởng rèn mãi cũng buồn chán, nên ông ấy sẽ đi tìm Việt Minh xem sao. Lý do ông ấy chọn Việt Minh vì nghe nói tổ chức này rất mạnh, đã có cả một dải chiến khu riêng để hoạt động. Ông Hai đòi đi cùng nhưng ông Cả ông ấy không đồng ý. Ông Cả hứa nếu thấy Việt Minh mà ổn thì sẽ về kéo tớ với ông Hai theo. Thế cơ mà ông Hai ông ấy vẫn chẳng chịu, ông ấy viện lý do không muốn ở lại thị xã này vì đã quá ngấy cảnh bị đám Nhật soi mói. Bàn cãi một thôi một hồi, rồi ngay đêm ấy ông Cả với ông Hai cùng đi, giao cho tớ ở lại phụ giúp ông cụ. Hai ông ấy vượt qua Tường Vĩnh, lên Tam Sơn, đổ xuống phía Cát Nê rồi nhập vào tổ chức Việt Minh.
Bẵng đi cũng một dạo dài, sau đó thì tớ tình cờ gặp ông Cả ở Hà Nội trong lần đi giao hàng. Các cậu biết ông Cả ông ấy bảo thế nào không? Ông ấy bảo ông ấy đã bỏ Việt Minh vì sống kham khổ quá, thuốc lá cũng chẳng có mà hút. Tớ hỏi về ông Hai thì ông Cả bảo ông Hai được Việt Minh tin cậy cho sung vào mạng lưới an ninh của họ.
Trước ngày nổ ra cuộc cướp chính quyền, ông Cả từ Hà Nội về, nói với ông cụ là sắp tới nếu có xảy ra biến cố thì cứ ở trong nhà, đừng tham gia gì cả. Ông ấy còn dặn riêng tớ tuyệt đối không được theo Việt Minh, đấy chính là cộng sản, họ rất khắc kỷ. Nhìn mặt ông Cả lúc ấy xẹo lệch đi, tớ nghĩ khắc kỷ phải là cái gì đáng sợ lắm, ngoáo ộp lắm, nhưng sau này thì tớ nhận ra là sai toẹt. Thử hỏi, nếu không khắc kỷ thì làm sao mà những người cộng sản bọn tớ vượt qua được muôn trùng gian nan để giành thắng lợi hả các cậu... Sau đó ông Cả đến khuyên Ngải nên lánh đi nơi khác sống nhưng Ngải không đi mặc dù ông Cả bảo Ngải chơi với Nhật cho nên chưa chắc Việt Minh họ sẽ tha. Ngải thì tin ông Hai sẽ về bênh mình.
Rồi ông Hai về, về đúng ngày cướp chính quyền thị xã. Ông ấy mặc bộ com lê cũ, đội mũ phớt, hông kệnh lên một khẩu súng ngắn không rõ mác hiệu. Ối chào, súng ngắn hồi ấy nó hiếm cho nên nó oai ghê gớm, chả như thời này, nhiều quá hóa nhảm. Bước vào cổng ông Hai nói ngay với tớ và ông cụ là ông Cả đã theo Quốc dân Đảng, nên phải cảnh giác.
Chính quyền cách mạng được thành lập, không khí nó lạ lắm các cậu không hình dung nổi đâu, máu trong người cứ bốc lên, cứ phần phật theo những lá cờ đỏ sao vàng đang treo ngập khắp các ngõ ngách. Lúc ấy vừa muốn ôm chầm lấy nhau vừa muốn giết nhau, y như cái ngày bọn tớ tràn vào Sài Gòn sau này. Tay Musashi, bạn thân của Ngải, kịp chạy trốn khỏi thị xã, nhưng mấy ngày sau thì xác trần truồng nổi trương phình ở mạn Phú Bình, bị chém chi chít từ cổ xuống tận đùi. Chẳng rõ bên nào chém.
Ông Hai thì khỏi nói rồi, bận tối mắt tối mũi vì phải trấn áp đám gây rối và bảo vệ trụ sở của ủy ban cách mạng. Ông ấy đi từ tờ mờ, đến gần trưa mới về, chợp mắt một lát rồi lại đi tới nhọ mặt. Hàng xóm nhìn ông Hai kính nể lắm, chào ran ran từ xa. Hả... ừ, tất nhiên là ông ấy phải gặp Ngải chứ.
Mùa đông, khi chính quyền của cụ Hồ phải rút lên rừng kháng chiến vì quân Pháp đã quật trở lại, ông Hai có rủ Ngải cùng ông ấy lên chiến khu nhưng Ngải từ chối. Càng sát ngày cuối, tớ thấy ông ấy càng bồn chồn, tìm đến gặp Ngải nhưng bị tránh mặt. Thế là ông ấy xoay sang nhờ tớ thuyết phục Ngải gặp ông ấy lần cuối để chia tay trước đêm ông ấy phải rút đi.
Khổ, loắng quắng thế chó nào tớ lại dẫn Ngải ra đúng chỗ ông Cả từng ngủ với Ngải các cậu ạ. Chỗ ấy có hàng bạch đàn chạy thoải xuống gần sát mép nước, đẹp nhưng mà rất vắng vẻ. Tớ ý tứ lùi xa một đoạn để cho ông Hai với Ngải được tự nhiên. Họ nói với nhau những gì thì tớ không nghe rõ, nhưng tớ đoán là hai người vẫn cãi nhau chuyện đi hay ở. Tớ thấy ông Hai lôi ra một vật ngắn, nhỏ dúi vào bụng Ngải. Các cậu tưởng tượng nổi không, tưởng tượng nổi không... một chớp sáng lóe lên sau đó mới là tiếng nổ gọn, đục. Ông Hai hất Ngải xuống, đứng dậy bỏ đi. Tớ nhảy bổ tới túm ngực ông ấy nhưng bị ông ấy gạt ra suýt nữa thì ngã. Ông ấy nói rằng Ngải giao du với bọn ngoại bang, nếu để sống sẽ rất nguy hiểm cho cách mạng. Đấy... đẹp quá cũng dễ gây họa.
- Dao sắc thì phải cất kín.
*
Cậu nhớ chứ, nhớ là khi kể xong, ngồi im một lúc rồi Đại tá nói câu này chứ. Thú thực, lúc đó tớ chẳng hiểu bác ấy muốn ám chỉ ai, cô Ngải hay là Lĩnh.
Nếu bác ấy ám chỉ cô Ngải thì rõ ràng là bác ấy nợ tớ câu trả lời vì lúc đó tớ đang hỏi về Lĩnh chứ có quan tâm tới sống chết của cô Ngải đâu.
Nếu bác ấy ám chỉ Lĩnh thì lại sai bét vì Lĩnh dọn ra ngoài mở quán karaoke chứ không hề theo lời bác ấy.
Thế cậu biết vì sao Lĩnh làm ngược với ý Đại tá không? Có lẽ chẳng phải vì bác ấy đã bắt Lĩnh làm dâu nhà ông Văn như Hoành phỏng đoán đâu, mà tớ nghi là vì bác ấy cứ hay bóng gió nhắc tới chuyện hương khói.
- Có ngửi thấy không?
Nghe tiếng nói khò khè, tớ ngoái sang, thấy Sửu đang ngó ra giữa sông, nơi có một chiếc thuyền mảnh mai lọt giữa quầng sáng lù mù. Tớ nghĩ có thể Sửu sẽ tan vào bóng tối nên vội quờ tay níu lấy anh ta. Sửu nhích cánh mũi hít hít rồi hỏi lại tớ lần nữa, bằng cái giọng mơ mơ, hỏi mà mắt vẫn đăm đắm ngó con thuyền.
Dĩ nhiên là có, tớ ngửi thấy từ nãy, từ lúc hình dung lại cảnh ba ông bác tớ đi bộ từ hồ về. Bây giờ thì một phần mùi hương ấy dờ dật theo dệ sông, xuôi chiều nước, cùng lẫn vào bóng tối phía cuối nguồn, một phần lẽo đẽo bám theo tớ với Sửu về tận nhà.
Hóng vào không khí mà xem, Phốc, nó thang thảng đấy