Chương 19
Nhưng đó vẫn chưa phải là đoạn kết.
Chừng bảy tuần sau tang lễ - lúc này đã là năm mới, bầu trời xanh ngắt, giá buốt và lạnh cóng - chuông cửa lại reo lên tại ngôi nhà trên phố Sugar Mill Lane. Khi Darcy ra mở cửa, cô nhìn thấy một người đàn ông già cả mặc áo khoác đen và quàng khăn khổ rộng màu đỏ. Hai bàn tay đi găng của ông già giữ phía trước người một chiếc mũ hiệu Homburg kiểu cũ. Khuôn mặt ông ta có những nếp hằn sâu (vì đau khổ cũng nhiều như vì tuổi tác, Darcy thầm nghĩ) và những sợi tóc xám bạc còn lại của ông già đã trở nên xơ xác.
“Vâng?” cô lên tiếng.
Ông già cho tay vào túi và đánh rơi mũ. Darcy cúi người xuống nhặt chiếc mũ lên. Khi cô thẳng người dậy, cô thấy rằng ông già đang chìa ra một ví gập đựng thẻ công vụ bằng da. Trên đó là một phù hiệu mạ vàng và một bức ảnh chụp người gọi cửa (trông có vẻ trẻ hơn khá nhiều so với ngoài đời) trên một tấm thẻ nhựa.
“Holt Ramsey,” ông già nói, giọng như có vẻ muốn xin lỗi. “Thuộc Văn phòng Chưởng lý tiểu bang. Tôi rất xin lỗi vì quấy quả bà, bà Anderson.
Tôi vào nhà được chứ? Bà sẽ chết cóng nếu cứ đứng ngoài này trong trang phục như thế.”
“Mời ông vào,” cô nói, và đứng tránh sang bên.
Cô quan sát dáng đi hơi tập tễnh của ông già, cũng như cách bàn tay phải của ông ta luôn đặt lên bên hông phải một cách vô thức - như thể để giữ cho nó không vỡ ra - và một ký ức thật rõ ràng hiện lên trong tâm trí cô: Bob ngồi bên giường cô, những ngón tay lạnh ngắt của cô bị giữ chặt trong những ngón tay nóng hổi của anh ta. Bob đang nói chuyện. Đúng hơn là đang hể hả. Anh muốn bọn họ nghĩ Beadie là kẻ ngu ngốc, và họ đã nghĩ vậy thật. Bởi vì bọn họ thật ngu ngốc. Anh chỉ bị thẩm vấn có một lần duy nhất, và lần đó với tư cách nhân chứng, chừng hai tuần sau khi BD giết cô ả Moore. Một tay già khú tập tễnh, sắp sửa về hưu. Và ông già đó đang ở đây, đang đứng cách nơi Bob đã chết chỉ sáu bước chân.
Cách nơi cô đã giết anh ta. Holt Ramsey nhìn vừa có vẻ ốm yếu vừa đang phải chịu đau đớn, nhưng đôi mắt ông ta thật sắc bén. Chúng nhanh nhẹn nhìn sang trái rồi sang phải, để ý tới mọi thứ trước khi quay lại nhìn vào mặt cô.
Hãy cẩn thận, cô thầm nhắc nhở chính mình. Hãy thật cẩn thận với ông ta, Darcellen.
“Tôi có thể giúp gì cho ông, ông Ramsey?”
“À, có một thứ - nếu đề nghị thế không là quá nhiều - tôi chắc chắn sẽ rất hoan nghênh một tách cà phê. Tôi đang lạnh cóng. Tôi có một chiếc xe do tiểu bang cấp, và hệ thống sưởi của nó quả là có cũng như không. Tất nhiên, nếu đề nghị của tôi bất tiện...”
“Không hề. Nhưng tôi không rõ... tôi có thể xem lại thẻ công vụ của ông lần nữa được không?”
Ông già lại đưa cho cô xem một cách khá điềm đạm, rồi treo mũ lên cây mắc áo trong lúc cô xem xét tấm thẻ.
“Mấy chữ RET đóng dưới con dấu... có phải chúng có nghĩa là ông đã nghỉ hưu?”
“Có và không.” Đôi môi vị khách tách ra thành một nụ cười, để lộ những chiếc răng quá hoàn hảo, đến mức chỉ có thể thuộc về một hàm răng giả. “Tôi buộc phải giải ngạch, ít nhất là một cách chính thức, khi bước sang tuổi sáu mươi tám, nhưng bà biết đấy, tôi đã trải qua cả đời làm việc cho Cảnh sát Tiểu bang hoặc Văn phòng Chưởng lý Tiểu bang, và giờ đây tôi giống như một con ngựa già với một vị trí danh dự trong tàu ngựa.
Giống như một thứ biểu trưng vậy, bà biết đấy.”
Tôi nghĩ ông còn hơn thế rất nhiều.
“Để tôi giúp ông treo áo khoác lên.”
“Không, không cần đâu, tôi nghĩ tôi sẽ mặc nguyên nó. Tôi sẽ không nán lại lâu đâu. Tôi sẽ treo nó lên nếu trời bên ngoài có tuyết - như thế tôi sẽ không làm ướt sàn nhà bà - nhưng hôm nay trời không có tuyết. Mà chỉ lạnh thấu xương thôi, bà biết đấy. Quá lạnh để có thể có tuyết, bố tôi hẳn sẽ nói thế, và ở tuổi mình tôi cảm nhận cái lạnh rõ hơn nhiều so với năm mươi năm trước đây. Hay thậm chí là hai mươi lăm năm.”
Dẫn ông khách già vào bếp, bước đi chậm rãi để Ramsey có thể theo kịp, cô hỏi ông ta đã bao nhiêu tuổi. “Bảy mươi tám vào tháng Năm.” Ông già đáp với vẻ tự hào thấy rõ. “Nếu tôi trụ được tới lúc đó. Tôi luôn nói thêm như thế để lấy may. Cho tới lúc này thì vẫn hiệu nghiệm. Bà có một căn bếp đẹp quá, bà Anderson - một nơi cho mọi thứ và mọi thứ đều có chỗ của nó. Vợ tôi hẳn sẽ rất tán thưởng. Bà ấy đã mất bốn năm trước.
Một cơn đau tim, rất đột ngột. Tôi rất nhớ bà ấy. Cũng như hẳn bà rất nhớ chồng mình, tôi có thể hình dung được.”
Đôi mắt lấp lánh của ông già - trẻ trung và tinh nhanh trong hai hố mắt sâu hoắm, hằn rõ sự đau đớn đang ám ảnh - chăm chú tìm kiếm trên khuôn mặt cô.
Ông ta biết. Mình không rõ bằng cách nào, nhưng ông ta biết.
Cô kiểm tra phin của chiếc máy pha cà phê Bunn rồi bật máy lên. Trong lúc lấy tách từ trong tủ bếp ra, cô lên tiếng hỏi, “Hôm nay tôi có thể giúp gì được ông, ông Ramsey? Hay là thám tử Ramsey?”
Ông già bật cười, và tiếng cười biến thành cơn ho. “Ồ, đã lâu lắm rồi chẳng còn ai gọi tôi là thám tử nữa. Và cũng đừng bận tâm tới cái họ Ramsey, nếu bà gọi thẳng là Holt, với tôi thế cũng được. Kỳ thực chồng bà mới là người tôi muốn nói chuyện cùng, bà biết đấy, nhưng tất nhiên ông nhà đã qua đời - một lần nữa, xin chân thành chia buồn với bà - vì thế không thể có khả năng đó nữa. Phải, hoàn toàn không thể.” Ông ta lắc đầu, ngồi xuống một trong những chiếc ghế đẩu xếp quanh bàn bếp. Chiếc áo khoác của ông thám tử già kêu sột soạt. Ở đâu đó bên trong thân hình già cỗi của ông ta, một chiếc xương kêu răng rắc. “Nhưng tôi muốn cho bà biết điều này: một ông già sống trong một căn phòng thuê - đúng như hoàn cảnh của tôi, dù đó là một căn phòng đẹp - đôi lúc cũng phát chán với việc chỉ có tivi làm bạn, vậy là tôi nghĩ thế này, quỷ tha ma bắt, kiểu gì tôi cũng sẽ lái xe tới Yarmouth và đưa ra vài câu hỏi nho nhỏ của mình. Bà ấy có lẽ sẽ không thể trả lời được nhiều câu trong số chúng, tôi tự nhủ như vậy, có khi không thể trả lời được câu nào, nhưng tại sao tôi lại không đi chứ? Anh bạn cần chui ra ngoài trước khi bị mọc rễ ra, tôi tự nhủ với mình.”
“Vào một ngày mà nhiệt độ có thể tới mười độ,” cô nói. “Và trong một chiếc xe do tiểu bang cấp với thiết bị sưởi tồi tệ.”
“À phải, nhưng tôi cũng mang túi sưởi của mình đi,” ông già khiêm tốn nói.
“Ông không có xe riêng của mình sao, ông Ramsey?”
“Có chứ, có chứ,” ông già nói, như thể chưa bao giờ nghĩ tới chuyện đó cho tới tận lúc này. “Mời bà tới đây ngồi xuống, bà Anderson. Không cần phải tránh vào trong góc như thế. Tôi đã quá già để có thể cắn được ai.”
“Không, cà phê sẽ sẵn sàng sau một phút nữa,” cô nói. Cô thấy sợ ông già này. Bob chắc hẳn cũng sẽ cảm thấy sợ ông ta, nhưng tất nhiên giờ đây Bob chẳng còn gì phải sợ nữa. “Trong lúc chờ đợi, có lẽ ông có thể nói cho tôi hay ông muốn nói gì với chồng tôi.”
“À phải, bà sẽ không tin chuyện này đâu, bà Anderson...”
“Tại sao ông không gọi tôi là Darcy nhỉ?”
“Darcy!” Trông ông già có vẻ thích thú. “Chính là cái tên kiểu cũ đáng mến nhất đó sao!”
“Cảm ơn ông. Ông dùng kem chứ?”
“Đen như cái mũ của tôi, đó là cách tôi luôn dùng cà phê. Có điều tôi thích nghĩ về mình như một người thuộc phe mũ trắng, thực vậy. Thế đấy, tôi có thể nghĩ như thế được lắm chứ, phải không nào? Săn đuổi bọn tội phạm và những chuyện tương tự. Cũng chính vì thế mà cái chân này của tôi bị tập tễnh. Một cuộc truy đuổi tốc độ cao bằng xe hơi, từ hồi năm 89. Gã đó giết vợ và cả hai đứa con của hắn. Ngày nay thì một tội ác như thế thường là một hành động trong lúc kích động, của một kẻ hoặc say rượu, hoặc dùng ma túy hay đầu óc có vấn đề.” Ramsey gõ lên thẻ công vụ của mình bằng một ngón tay đã bị bệnh viêm khớp làm cho vẹo vọ. “Gã này thì không. Hắn làm việc đó vì tiền bảo hiểm. Cố gắng làm cho hiện trường giống như một vụ đột nhập tư gia. Tôi sẽ không đi vào chi tiết, nhưng tôi đã không ngừng bỏ công điều tra. Tôi đã bỏ công ra điều tra trong ba năm. Và cuối cùng cảm thấy tôi đã có trong tay đủ chứng cớ để bắt hắn. Có thể vẫn chưa đủ để khiến hắn bị kết án, nhưng đâu cần phải cho hắn biết điều đó, phải không nào?”
“Tôi đoán là không,” Darcy nói. Cà phê đã nóng, và cô rót ra tách. Cô quyết định mình cũng sẽ dùng cà phê đen. Và uống nhanh nhất có thể.
Như thế caffeine sẽ lập tức xâm nhập lên não giúp cô tỉnh táo.
“Cảm ơn bà,” vị khách nói khi cô mang cà phê ra bàn. “Cảm ơn bà rất nhiều. Bà quả là hiện thân của sự nhân hậu. Cà phê nóng vào một ngày giá lạnh - còn gì có thể tốt hơn thế? Có lẽ là rượu táo nóng; tôi không thể nghĩ ra thứ nào khác. Mà tôi kể đến đâu rồi nhỉ? Ồ, tôi nhớ ra rồi. Dwight Cheminoux. Ở mạn trên The County, phải. Ngay phía nam Haineville Woods.”
Darcy tập trung vào tách cà phê của cô. Cô đưa mắt nhìn Ramsey qua chiếc tách và đột nhiên cô có cảm giác đang sống lại trong một cuộc hôn nhân - một cuộc hôn nhân dài, và xét về nhiều mặt là một cuộc hôn nhân êm ấm (nhưng không phải về mọi mặt), đại loại giống như một trò đùa:
cô biết rằng ông ta biết, và ông ta cũng biết rằng cô biết ông ta biết. Thứ quan hệ đó cũng giống như nhìn vào trong một tấm gương và thấy một tấm gương khác, rồi hàng loạt tấm gương nữa, cho tới vô tận. Câu hỏi thực sự ở đây là vị khách sẽ làm gì với những điều ông ta biết. Ông ta có thể làm gì.
“Vậy đấy,” Ramsey nói, đặt tách cà phê xuống và bắt đầu bóp bên chân bị đau một cách vô thức, “sự thật đơn giản là tôi hy vọng có thể khiêu khích gã đó. Ý tôi là tay hắn nhuốm máu của một phụ nữ và hai đứa trẻ, vì thế tôi cảm thấy hoàn toàn biện minh được cho mình khi chơi bẩn một chút. Và cách đó đã có hiệu quả. Hắn bỏ chạy, và tôi đuổi theo hắn thẳng tới Haineville Woods, nơi bài hát nói cứ mỗi dặm lại có một bia mộ. Và ở đó, cả tôi và hắn cùng rơi xuống Wickett’s Curve - hắn rơi xuống một cái cây, còn tôi rơi trúng vào hắn. Cũng ở đó mà chân tôi thành ra thế này, chưa kể tới miếng nẹp sắt trên cổ.”
“Tôi rất tiếc. Thế còn kẻ mà ông săn đuổi? Hắn thế nào?”
Hai khóe miệng Ramsey nhếch lên thành một nụ cười khô khan lạnh lùng hiếm thấy. Đôi mắt trẻ trung của ông già lóe sáng. “Hắn tìm thấy cái chết, Darcy. Tiết kiệm cho tiểu bang bốn mươi hay năm mươi năm chi phí phòng giam và quản giáo ở Shawshank.”
“Ông quả là một thợ săn của Chúa, phải vậy không ông Ramsey?”
Thay vì tỏ ra bối rối, vị khách áp hai bàn tay biến dạng lên hai bên khuôn mặt, lòng bàn tay hướng ra ngoài, và cất giọng của một cậu bé con:
“Tôi chạy trốn khỏi Người suốt cả đêm cả ngày, tôi chạy trốn khỏi Người qua tháng qua năm, tôi chạy trốn khỏi Người theo những mê cung... và vân vân.”
“Ông học bài hát đó ở trường sao?”
“Không, thưa bà, ở Hội Thanh niên Giám lý. Tôi từng tham gia vào hội nhiều năm trước đây. Được thưởng một cuốn Kinh thánh, rồi một năm sau đó tôi đã bị mất cuốn kinh này tại trại hè. Chỉ có điều tôi đã không đánh mất nó; cuốn kinh bị đánh cắp. Bà có thể hình dung ra kẻ nào thấp hèn tới mức đánh cắp một cuốn Kinh thánh không?”
“Có,” Darcy nói.
Ông già bật cười. “Darcy, từ giờ bà hãy gọi tôi là Holt. Làm ơn hãy gọi thế. Tất cả bạn bè của tôi đều làm vậy.”
Liệu ông có phải là bạn tôi không? Có phải không?
Cô không rõ, nhưng có một điều cô biết chắc; ông ta không thể là bạn của Bob.
“Có phải đó là bài thơ duy nhất ông thuộc lòng không? Holt?”
“À, tôi từng biết cả bài Cái chết của Người Làm Thuê”, ông ta nói, “nhưng giờ tôi chỉ còn nhớ một đoạn nói rằng nhà là nơi khi bạn tới đó, người ta phải cho bạn vào. Đó thực sự là một điều đáng nói, bà có thấy vậy không?”
“Hoàn toàn đúng.”
Đôi mắt vị khách - có màu hạt dẻ sáng - nhìn cô dò hỏi. Vẻ thân tình trong cái nhìn đó thật thiếu đứng đắn, như thể ông ta đang nhìn cô không mặc gì trên người vậy. Và cũng thật dễ chịu, có lẽ vì chính lý do đó.
“Ông muốn hỏi gì chồng tôi, Holt?”
“À, tôi đã từng có lần nói chuyện với chồng bà, bà biết đấy, cho dù tôi không rõ nếu còn sống ông nhà có nhớ ra lần nói chuyện đó hay không. Nó xảy ra cũng đã lâu rồi. Khi đó cả hai chúng tôi còn trẻ hơn nhiều, và hẳn lúc ấy bà mới chỉ là một cô bé, nếu suy ra từ vẻ trẻ trung xinh đẹp của bà lúc này.”
Cô dành cho vị khách một nụ cười giá lạnh hãy-để- tôi-yên, rồi đứng lên đi rót cho mình thêm một tách cà phê nữa. Tách thứ nhất đã hết.
“Có lẽ bà cũng biết về các vụ án mạng của Beadie,” ông già nói.
“Kẻ sát hại các phụ nữ rồi gửi giấy tờ tùy thân của họ tới cho cảnh sát ư?” Cô quay lại bàn, tách cà phê được cầm vững vàng trong tay. “Báo chí đã viết rất nhiều về hắn.”
Ông già chỉ tay vào cô - cũng là cử chỉ chĩa ngón trỏ ra như khẩu súng của Bob - và nháy mắt với cô. “Chính xác rồi. Đúng thế đấy. “Nếu có mùi máu, bạn sẽ chạy”, đó là tôn chỉ của họ mà. Tôi tình cờ có ít nhiều tham gia vào vụ điều tra này. Khi đó tôi còn chưa nghỉ hưu, và quan tâm tới vụ án. Tôi ít nhiều có tiếng là một anh chàng đôi khi vẫn thu được kết quả nhờ lần mò đánh hơi... theo những linh tính...”
“Linh tính ư?”
Thêm một lần khẩu súng-ngón tay chĩa lên. Thêm một lần nháy mắt nữa. Như thể hai người đang cùng nhau chia sẻ một bí mật. “Nói tóm lại, người ta để mặc tôi tự điều tra một mình, bà biết đấy - ông già Holt tập tễnh mang những bức ảnh của ông ta giơ ra trước khắp bàn dân thiên hạ, hỏi đủ thứ câu hỏi, và... bà biết đấy... hếch mũi lên đánh hơi. Vì tôi luôn có cái mũi rất hợp với loại công việc này, Darcy, và chưa bao giờ đánh mất sự thính nhạy của nó. Hồi ấy là mùa thu năm 1997, không lâu sau khi một phụ nữ có tên Stacey Moore bị giết. Cái tên này có gợi cho bà điều gì không?”
“Tôi nghĩ là không,” Darcy nói.
“Chắc bà sẽ nhớ mãi nếu bà có dịp xem qua những bức ảnh chụp hiện trường. Một vụ sát nhân khủng khiếp - người phụ nữ đó hẳn đã phải chịu đau đớn cùng cực. Nhưng tất nhiên, gã khốn tự xưng là Beadie đã dừng tay một thời gian dài, hơn mười lăm năm, và hẳn hắn đang sôi lên sùng sục, chỉ chờ cơ hội phát tiết. Và người phụ nữ đó đã phải chịu đựng tất cả.”
“Dù thế nào đi nữa, ông Chưởng lý Tiểu bang thời đó đã lôi tôi vào cuộc. “Hãy để ông già Holt thử xem qua,” ông ta nói, “ông ấy đang không làm gì cả, và vụ này sẽ giúp ông ấy khỏi ngáng chân người khác.” Ngay cả hồi đó người ta đã gọi tôi là ông già Holt rồi. Vì cái chân tập tễnh, tôi đoán vậy. Tôi trò chuyện với bạn bè, người thân, rồi hàng xóm của nạn nhân trên tuyến đường 106, và những người cùng làm việc với cô gái tại Waterville. Ồ, tôi đã nói chuyện rất nhiều với họ. Người phụ nữ đó là một nhân viên phục vụ ở một nhà hàng có tên Sunnyside Restaurant trong thị trấn. Rất nhiều khách vãng lai ghé qua đó, vì tuyến đường xa lộ chạy qua ngay cuối phố, nhưng tôi quan tâm nhiều hơn tới những khách hàng quen của cô gái. Những khách hàng nam giới quen của nạn nhân.”
“Tất nhiên ông phải để ý tới điều đó rồi,” cô lẩm bẩm. “Một trong số họ hóa ra là một anh chàng có ngoại hình khá bắt mắt, khá giả, chừng ngoài bốn mươi tuổi.
Thường ghé qua khoảng ba hay bốn tuần một lần, luôn lấy một món giải khát mà Stacey phục vụ. Đến đây, có lẽ tôi không nên nói ra điều này, vì người khách hàng kia hóa ra lại chính là người chồng quá cố của bà - như thế quả là nói không hay cho người đã khuất, song vì cả hai người họ đều đã chết, tôi nghĩ điều đó tự động xóa đi tất cả, nếu bà hiểu ý tôi muốn nói gì...” Ramsey dừng lời, trông có vẻ bối rối.
“Ông đang làm mọi thứ rối tung lên,” Darcy nói, không khỏi cảm thấy thú vị. Có thể ông ta muốn cô cảm thấy thú vị. Cô không thể đoan chắc được. “Ông hãy cứ cho phép mình thoải mái nói ra, tôi là một phụ nữ đã trưởng thành rồi. Cô ta đong đưa với chồng tôi phải không? Có phải họ đã đi xa tới mức ấy không? Người phụ nữ này nếu thế cũng chẳng phải là cô phục vụ bàn đầu tiên đong đưa với một người khách qua đường, cho dù ông khách đã đeo nhẫn cưới trên tay.”
“Không, không hẳn là thế đâu. Theo những gì mà các nhân viên khác tại nhà hàng kể với tôi - và tất nhiên bà sẽ phải cố nhẫn nhịn để đón nhận điều này, vì tất cả họ đều quý mến cô gái kia - chính chồng bà mới là người tán tỉnh cô ấy. Và theo lời họ, cô gái không mấy thích những lời tán tỉnh đó. Cô ấy nói gã khách khiến cô ta buồn nôn.”
“Nghe không có vẻ giống với chồng tôi lắm.” Hay giống với những gì Bob đã kể cho cô nghe về câu chuyện này.
“Không, nhưng nhiều khả năng đó là sự thật. Ý tôi muốn nói về chồng bà. Và một người vợ không thể luôn biết được ông chồng mình làm gì trên đường, cho dù cô ta có thể nghĩ rằng mình biết. Bên cạnh đó, một người trong số nhân viên phục vụ cho tôi biết người khách nọ lái một chiếc Toyota 4Runner. Cô ta biết vì chính cô ta cũng có một chiếc xe tương tự. Và bà biết không? Nhiều người trong số láng giềng của cô Moore đã thấy một chiếc 4Runner như thế quanh khu vực trang trại của gia đình nạn nhân chỉ vài ngày trước khi người phụ nữ bị sát hại. Một lần chỉ một ngày trước khi vụ án mạng xảy ra.”
“Nhưng vào ngày đó thì không.”
“Không, nhưng tất nhiên một kẻ chu đáo như Beadie sẽ để tâm tới những chi tiết như thế. Phải không nào?”
“Tôi đoán là vậy.”
“Vậy đấy, tôi có một bản mô tả nhận dạng và tôi đã tìm kiếm trong khu vực quanh nhà hàng. Tôi không có việc gì tốt hơn để làm. Trong một tuần tất cả những gì tôi có được là những lời phàn nàn và vài tách cà phê pha sẵn - chẳng có tách nào được ngon như của bà - và tôi đã sắp sửa bỏ cuộc. Thế rồi tình cờ tôi ghé vào một nơi trong thị trấn. Mickleson’s Coins. Cái tên này có quen với bà không?”
“Tất nhiên rồi. Chồng tôi là người sưu tập tiền xu và cửa hàng của Mickleson là một trong ba hay bốn cửa hàng giao dịch tốt nhất trên toàn quốc.
Giờ nó đã đóng cửa rồi. Ông già Mickleson đã qua đời, và con trai ông ấy đã đóng cửa việc kinh doanh.”
“Phải. Như bà biết bài hát vẫn nói đấy, cuối cùng thời gian cuốn đi tất cả - đôi mắt của bạn, mùa xuân trong những bước nhảy của bạn, thậm chí cả cú đánh bi a tinh quái của bạn, thứ lỗi cho cách phát âm của tôi. Nhưng hồi ấy George Mickleson vẫn còn sống...”
“Đứng thẳng người và ngửi hít không khí,” Darcy lẩm bẩm.
Holt Ramsey mỉm cười. “Đúng như bà nói. Dù sao đi nữa, ông ấy đã nhận ra người trong bản mô tả nhân dạng. “Sao chứ, nghe có vẻ giống Bob Anderson,” ông ấy nói. Và thử đoán xem? Anh ta lái một chiếc Toyota 4Runner.”
“Ồ, nhưng chồng tôi đã bán nó đi lâu rồi,” Darcy nói. “Để đổi lấy một chiếc...”
“Chevrolet Suburban, phải không nào?” Ramsey phát âm tên hãng xe nghe như Shivvalay.
“Phải.” Darcy khoanh tay lại, bình thản nhìn Ramsey. Họ đã gần đi tới đích. Câu hỏi duy nhất ở đây là ông già có đôi mắt sắc sảo này quan tâm tới ai hơn trong đôi vợ chồng Anderson nay đã chia lìa.
“Tôi chắc bà không còn giữ chiếc Suburban đó, phải không?”
“Không. Tôi đã bán nó đi một tháng sau khi chồng tôi qua đời. Tôi đăng tin rao vặt trên cẩm nang mua bán Uncle Henry’s, và có ai đó ngay lập tức hỏi mua. Tôi vốn nghĩ mình sẽ gặp khó khăn với quãng đường đã đi khá lớn của chiếc xe và giá xăng đắt đỏ, nhưng hóa ra lại không. Tất nhiên, tôi cũng không thu lại được nhiều tiền.”
Và hai ngày trước khi người đàn ông mua nó tới lấy xe, cô đã cẩn thận lục soát nó, từ trong ra ngoài, không quên cả nhấc tấm thảm lót sàn trong khoang chứa hành lý ra. Cô không tìm thấy gì, nhưng vẫn bỏ ra năm mươi đô la để rửa sạch bên ngoài xe (phần cô không mảy may bận tâm đến) và tẩy hơi nước nội thất (phần cô thực sự bận tâm).
“À phải, Uncle Henry’s già cả đáng mến. Tôi cũng đã bán chiếc Ford của vợ tôi theo cách đó.”
“Ông Ramsey...”
“Holt.”
“Holt, ông có thể khẳng định chắc chắn người từng tán tỉnh Stacey Moore là chồng tôi không?”
“À, khi tôi nói chuyện với ông Anderson, ông ấy thừa nhận thỉnh thoảng có tới Sunnyside - tự thừa nhận không cần gặng hỏi - nhưng chồng bà khẳng định chưa từng để ý tới nữ nhân viên phục vụ cụ thể nào. Chồng bà khẳng định với tôi ông ấy luôn bù đầu bận rộn với công việc giấy tờ.
Nhưng tất nhiên tôi đã cho đội ngũ nhân viên ở nhà hàng đó xem ảnh chồng bà - ảnh từ bằng lái xe, bà hiểu chứ - và họ nhất trí khẳng định ông nhà chính là vị khách nọ.”
“Liệu chồng tôi có biết ông... đặc biệt quan tâm tới anh ấy không?”
“Không. Với chồng bà, tôi chỉ là ông già tập tễnh tìm kiếm những nhân chứng có thể đã trông thấy gì đó. Chẳng ai thấy sợ một con vịt già như tôi cả, bà biết đấy.”
Tôi rất sợ ông đấy.
“Không nhiều lắm cho một cuộc điều tra,” cô nói. “Nếu giả thiết rằng ông đang cố thực hiện một cuộc điều tra.”
“Chẳng có cuộc điều tra nào hết!” Ông già vui vẻ bật cười, nhưng đôi mắt màu hạt dẻ của ông ta vẫn lạnh lùng. “Nếu tôi có thể mở được một cuộc điều tra, lần trò chuyện nho nhỏ của tôi và ông Anderson đã không diễn ra trong văn phòng của ông ấy, Darcy. Nếu thế chúng tôi đã nói chuyện trong phòng làm việc của tôi. Nơi ông ấy không thể rời đi được cho tới khi tôi nói ông ấy có thể. Hay cho tới khi một luật sư đến bảo lãnh ông ấy ra, tất nhiên rồi.”
“Có lẽ đã tới lúc ông chấm dứt trò nhảy múa vòng vo được rồi đấy, Holt.”
“Được thôi,” ông già đồng ý, “tại sao không? Bởi vì chỉ một bước đi thường vào những ngày này cũng làm tôi đau phát điên lên được. Quỷ tha ma bắt cái gã Dwight Cheminoux đó đi! Và tôi cũng không muốn quấy quả hết buổi sáng của bà, vậy chúng ta hãy tăng tốc lên vậy. Tôi có thể khẳng định sự có mặt của một chiếc Toyota 4Runner tại hay gần hiện trường của hai trong số những vụ án mạng sớm hơn - mà chúng ta vẫn gọi là vòng thứ nhất của Beadie. Không phải cùng một chiếc; chiếc đó có màu sắc khác. Nhưng tôi cũng có thể khẳng định chồng bà từng sở hữu một chiếc 4Runner khác vào những năm 70.”
“Đúng vậy, chồng tôi thích nó, vì thế anh ấy đã đổi sang một chiếc khác cùng loại.”
“Phải, người ta sẽ làm như thế. Và chiếc 4Runner là một loại xe rất được ưa chuộng ở những nơi tuyết phủ suốt nửa năm. Nhưng sau vụ sát hại Moore - và sau khi tôi nói chuyện với chồng bà - ông ấy đã bán xe đi để đổi lấy một chiếc Suburban.”
“Không phải ngay lập tức,” Darcy mỉm cười nói. “Anh ấy đã bán chiếc 4Runner đi khá lâu sau khi bước sang thế kỷ mới.”
“Tôi biết. Ông ấy bán nó năm 2004, không lâu trước khi Andrea Honeycutt bị sát hại bên tuyến đường đi Nashua. Suburban màu xanh xám, sản xuất năm 2002. Một chiếc Suburban sản xuất vào khoảng thời gian đó và có đúng màu này đã được trông thấy khá thường xuyên quanh khu vực nhà bà Honeycutt trong khoảng một tháng trước khi người phụ nữ này bị sát hại. Nhưng đây mới là điều thú vị.” Viên thám tử già cúi người ra trước. “Tôi tìm thấy một nhân chứng cho biết chiếc Suburban đó mang biển số Vermont, và một người khác - một bà lão bé nhỏ thuộc kiểu người luôn ngồi bên cửa sổ phòng khách nhà mình dõi theo nhất cử nhất động của xóm giềng từ sáng sớm đến tối mịt vì chẳng có chuyện gì hay ho hơn để làm - nói chiếc xe bà ta nhìn thấy mang biển New York.”
“Xe của Bob mang biển Maine,” Darcy nói. “Như ông hẳn biết rõ.”
“Tất nhiên, tất nhiên, nhưng biển đăng ký xe hoàn toàn có thể bị ăn cắp, bà biết đấy.”
“Thế còn vụ án mạng Shaverstone thì sao, Holt? Có ai nhìn thấy một chiếc Suburban màu xanh xám quanh nhà Helen Shaverstone không?”
“Tôi thấy là bà đã theo dõi vụ Beadie sát sao hơn phần lớn những người khác. Sát sao hơn một chút so với những gì bà cho phép tôi nhận thấy ban đầu.”
“Thực vậy sao?”
“Không,” Ramsey nói. “Kỳ thực thì không. Nhưng người ta đã nhìn thấy một chiếc Suburban màu xanh xám gần một khe núi ở Amesbury, nơi các thi thể bị ném xuống.” Vị khách lại mỉm cười trong khi đôi mắt lạnh lẽo của ông ta quan sát cô. “Bị ném xuống như những bì rác.”
Cô thở dài. “Tôi biết.”
“Không ai có thể cung cấp thông tin cho tôi về biển số của chiếc Suburban được trông thấy tại Amesbury, nhưng nếu quả thực có ai thấy, tôi hình dung biển số đó có thể là biển Massachusetts. Hay Pennsylvania. Hay bất cứ đâu trừ Maine.”
Ông già nhô người ra trước.
“Gã Beadie này gửi những lời nhắn tới cho chúng tôi kèm theo giấy tờ tùy thân của các nạn nhân bị hắn sát hại. Ám ảnh chúng tôi, bà biết đấy thách thức chúng tôi bắt được hắn. Có lẽ một phần trong con người hắn mong muốn bị bắt.”
“Có lẽ là thế,” Darcy nói, cho dù cô thực sự nghi ngờ điều này.
“Những lời nhắn được in bằng chữ hoa. Ngày nay những người làm như thế cho rằng một bản in kiểu này không thể bị nhận diện, nhưng trong phần lớn trường hợp thực ra là có. Những điểm tương đồng sẽ thể hiện ra. Tôi đoán bà không có các tập tài liệu của chồng bà ở nhà, phải vậy không?”
“Những tài liệu không được chuyển lại công ty của anh ấy đều đã bị hủy. Nhưng tôi hình dung hẳn vẫn còn rất nhiều bản in khác. Các kế toán chẳng bao giờ vứt cái gì đi.”
Vị khách thở dài. “Phải, nhưng với một công ty như thế, sẽ phải cần tới trát của tòa án để buộc họ nhả ra bất cứ thứ gì, và để có được trát của tòa, tôi cần phải đưa ra được những bằng chứng rất vững chắc. Đúng thứ tôi không hề có. Tôi có một số tình tiết trùng hợp - cho dù theo suy luận của tôi chúng không hề chỉ đơn thuần là trùng hợp. Và tôi có trong tay một số... à phải... nghi vấn, tôi đoán bà có thể sẽ gọi chúng như thế, nhưng khó lòng có thể coi là đủ để xếp loại vào bằng chứng rõ ràng. Vì thế tôi tới gặp bà, Darcy. Tôi nghĩ tới lúc này có lẽ tôi đã nói quá nhiều, nhưng bà đã tỏ ra rất tử tế.”
Cô không nói gì.
Ông già đưa người tới trước hơn nữa, lúc này gần như chồm qua bàn. Như một con chim săn mồi. Nhưng ẩn sau vẻ lạnh lùng trong đôi mắt ông ta, và không mấy khó để nhận ra, là một thứ khác. Cô nghĩ đó là sự nhân hậu. Cô thầm cầu nguyện để đúng là thế.
“Darcy, có phải chồng bà là Beadie không?”
Cô hiểu rất có thể ông ta đang ghi âm cuộc nói chuyện; điều này hiển nhiên không nằm ngoài những khả năng có thể xảy ra. Thay vì nói, cô giơ một bàn tay lên khỏi bàn, cho ông ta thấy lòng bàn tay hồng hào của mình.
“Bà không hề biết trong một thời gian dài, phải vậy không?”
Cô không nói gì. Chỉ nhìn ông ta. Nhìn vào trong ông ta, như cách bạn nhìn sâu vào tâm khảm một ai đó bạn biết rất rõ. Chỉ có điều bạn cần phải thận trọng khi làm thế, vì không phải lúc nào bạn cũng luôn nhìn thấy thứ bạn nghĩ mình sẽ nhìn thấy. Giờ thì cô đã biết điều đó.
“Vậy là bà biết? Đến một ngày nọ bà đã biết?”
“Ông muốn một tách cà phê nữa không, Holt?”
“Nửa tách thôi,” ông ta nói. Ông già đứng dậy, khoanh hai tay trước bộ ngực gầy gò của mình. “Nhiều hơn sẽ làm tôi rối loạn acid dạ dày, và sáng nay tôi đã quên uống viên Zantac của mình.”
“Tôi nghĩ có một ít Prilosec trong tủ thuốc trên lầu,” cô nói. “Thuốc của Bob. Ông có muốn tôi đi lấy không?”
“Tôi sẽ không dùng thứ gì của ông ta, cho dù tôi có bị bỏng rát bên trong đi nữa.”
“Được thôi,” cô nhẹ giọng nói, và rót cho ông khách thêm một ít cà phê.
“Xin lỗi,” ông già nói. “Đôi lúc cảm xúc của bản thân làm tôi mất kiểm soát. Những người phụ nữ đó... tất cả những người phụ nữ đó... và cả cậu bé nữa, với cả cuộc đời còn ở phía trước. Đó là điều ghê tởm nhất.”
“Phải,” cô nói, đưa tách cho vị khách. Cô nhận thấy hai bàn tay ông run rẩy, và thầm nghĩ đây có lẽ là cuộc điều tra cuối cùng của ông ta, cho dù ông ta có sắc sảo đến thế nào đi nữa... và ông ta quả là sắc sảo tới mức đáng sợ.
“Một người phụ nữ phát hiện ra chồng mình đã dấn sâu vào tội ác như thế quả là ở một vị trí thật khó khăn,” Ramsey nói.
“Phải, tôi cũng hình dung là thế,” Darcy nói.
“Ai tin nổi cô ta có thể sống cùng một người đàn ông suốt bấy nhiêu năm mà không hề biết anh ta là người thế nào? Sao chứ, cô ta sẽ giống như thứ mà bà vẫn gọi, con chim sống trong mồm cá sấu.”
“Theo như trong câu chuyện,” Darcy nói, “cá sấu để con chim sống ở đó vì nó giúp cho bộ răng cá sấu được sạch. Ăn những mảnh thức ăn thừa ngay từ giữa những cái răng đó.” Cô làm điệu bộ như chiếc mỏ đang há ra ngậm vào bằng các ngón tay phải. “Có thể điều đó không hoàn toàn đúng... nhưng đúng là tôi từng lái xe đưa Bobby đi gặp nha sĩ. Nếu để mặc anh ấy, chồng tôi thế nào cũng cố tình quên mất cuộc hẹn. Về chuyện sợ đau, anh ấy đúng là chẳng khác gì trẻ con.” Thật không ngờ, đôi mắt cô ướt đẫm. Cô vừa dùng mu bàn tay gạt nước mắt đi vừa thầm nguyền rủa chúng. Người đàn ông này sẽ không đời nào tôn trọng những giọt nước mắt nhỏ xuống vì Robert Anderson.
Mà cũng có thể cô đã nhầm về chuyện đó. Ông già đang mỉm cười và gật đầu. “Và các con bà. Chúng sẽ phải trốn chạy khi thế giới phát hiện ra bố chúng là một kẻ giết người hàng loạt, một kẻ bạo hành phụ nữ. Và rồi lại phải trốn chạy khi thế giới đi tới quyết định rằng mẹ chúng đã bao che cho ông ta. Thậm chí giúp đỡ ông ta nữa, như Myra Hindley đã giúp đỡ Ian Brady. Bà có biết hai người này là ai không?”
“Không.”
“Vậy cũng không cần bận tâm. Nhưng bà hãy hỏi mình câu này: liệu một người phụ nữ ở vị trí khó khăn đó sẽ làm gì?”
“Ông sẽ làm gì, Holt?”
“Tôi không biết. Vị thế của tôi có chút khác biệt. Có thể tôi chỉ đơn thuần là một con ngựa già - con ngựa già nhất trong tàu - nhưng tôi có một trách nhiệm với gia đình những người phụ nữ bị sát hại kia. Họ xứng đáng được có một câu trả lời cuối cùng.”
“Họ đáng được như thế, hẳn rồi... nhưng liệu họ có cần đến nó không?”
“Dương vật của Robert Shaverstone đã bị cắn đứt, bà có biết việc đó không?”
Cô không biết. Tất nhiên cô không biết. Cô nhắm mắt lại và cảm thấy những giọt nước mắt nóng hổi trào qua mi. Không “đau đớn” ư, đồ khốn kiếp, cô thầm nghĩ, và nếu lúc này Bob xuất hiện trước mặt cô, giang tay ra cầu khẩn sự khoan dung, hẳn cô sẽ giết chết anh ta lần nữa.
“Bố cậu bé biết,” Ramsey nói. Thật nhẹ nhàng. “Và ông ấy phải sống cùng nỗi đau đó về đứa con yêu quý của mình qua mỗi ngày.”
“Tôi xin lỗi,” cô thì thầm. “Tôi vô cùng xin lỗi.”
Cô cảm thấy viên thám tử già đang từ bên kia bàn nắm lấy bàn tay mình. “Tôi không có ý làm bà buồn.”
Cô giật tay ra. “Tất nhiên là ông có ý đó! Nhưng chẳng lẽ ông nghĩ tôi đã không phải chịu khổ sở sao? Ông thực sự nghĩ vậy sao... hả ông già tọc mạch?”
Vị khách tặc lưỡi, để lộ ra bộ răng trắng bóng. “Không. Tôi không hề nghĩ như thế. Tôi đã nhận ra ngay khi bà ra mở cửa.” Ông dừng lời, rồi thẳng thắn nói tiếp: “Tôi đã nhìn thấy tất cả.”
“Và giờ đây ông nhìn thấy những gì?”
Vị khách đứng dậy, hơi loạng choạng, rồi lấy lại được thăng bằng. “Tôi nhìn thấy một người phụ nữ can đảm cần được để yên để chuyên tâm cho công việc nội trợ của cô ấy. Chưa nói tới phần đời còn lại của người phụ nữ đó.”
Cô cũng đứng dậy. “Thế còn gia đình của các nạn nhân? Những người xứng đáng được có một câu trả lời cuối cùng?” Cô dừng lời, không muốn nói nốt những lời còn lại. Nhưng cô cần phải nói. Người đàn ông này đã vượt qua rất nhiều đau đớn - thậm chí cả sự dằn vặt - để tới đây, và giờ ông đang đưa ra cho cô một lối thoát. Ít nhất đó là những gì cô nghĩ. “Thế còn ông bố của Robert Shaverstone?”
“Cậu bé Shaverstone đã chết, còn ông bố của cậu bé thì cũng có thể coi là vậy.” Ramsey nói với giọng bình thản như đang đánh giá mà Darcy nhận ra ngay. Đó chính là giọng Bob vẫn dùng đến khi anh ta biết một khách hàng của công ty sắp bị triệu ra trước IRS[51], và cuộc gặp gỡ chắc chắn sẽ đi theo chiều hướng xấu.
“Không còn rời miệng khỏi chai whisky từ sáng tới tối mịt. Liệu việc biết rằng thủ phạm sát hại con trai ông ấy - kẻ đã hành hạ cậu bé tàn bạo - đã chết có thể thay đổi được chuyện đó không? Tôi nghĩ là không. Liệu điều đó có thể giúp nạn nhân nào sống lại không? Không. Liệu có đúng là kẻ sát nhân ngay lúc này đây đang bị thiêu đốt trong ngọn lửa của địa ngục vì những tội ác hắn đã gây ra, phải chịu đựng tùng xẻo với những vết thương chảy máu tới vĩnh cửu không? Kinh thánh khẳng định đúng là thế. Hay ít nhất là phần Cựu Ước, và vì đó là nguồn gốc tạo nên pháp luật của chúng ta, như thế là đủ với tôi. Cảm ơn bà vì cà phê. Tôi sẽ phải ghé vào nhà vệ sinh tại mọi chặng nghỉ từ đây tới Augusta trong quãng đường trở về, nhưng thực cũng đáng. Bà pha ngon lắm.”
Tiễn vị khách ra cửa, Darcy nhận ra cô cảm thấy mình đã trở lại đúng phía của tấm gương lần đầu tiên kể từ khi cô vấp phải cái thùng các tông đó trong gara. Thật tốt khi được biết anh ta đã ở gần việc bị bắt tới mức nào. Hóa ra anh ta cũng không khôn ngoan đến mức như bản thân vẫn tự phụ.
“Cảm ơn ông đã ghé thăm,” cô nói khi ông già đội mũ lên đầu. Cô mở cửa, để làn gió lạnh thốc vào. Cô không bận tâm đến nó. Cảm giác khi nó tiếp xúc với làn da cô thật dễ chịu. “Liệu tôi có gặp lại ông không?”
“Không. Tuần sau tôi sẽ kết thúc hẳn. Nghỉ hưu hoàn toàn. Chuyển tới Florida. Theo như các bác sĩ, tôi cũng sẽ không ở đó lâu.”
“Tôi lấy làm tiếc được biết...”
Vị khách đột ngột ôm cô vào trong vòng tay ông. Hai cánh tay thật gầy, nhưng vạm vỡ và mạnh mẽ đến bất ngờ. Darcy ngỡ ngàng nhưng không hề cảm thấy sợ hãi. Vành chiếc mũ Homburg chạm vào thái dương cô khi ông thì thầm vào tai cô. “Bà đã làm đúng việc cần làm.”
Và hôn lên má cô.
[51] Cơ quan Thuế vụ Mỹ.