← Quay lại trang sách

Chương 40

Cô dùng chìa khóa riêng để mở cửa gara. Chiếc xe mui trần nhỏ mà Bill vẫn hay dùng đã bị mang đi mất, nhưng chiếc xe lớn, bốn chỗ ngồi, thì vẫn ở trong đó. Cô cho nó lui ra. Thế rồi cô tạm ra ngoài xe một lúc, để quay lại đóng cửa gara.

Vẫn như lúc trước, việc này mang lại cho cô cảm giác phi thực tế; như một giấc mơ huyền ảo, một cuộc mộng du, ấy nhưng vẫn ý thức được hết tất cả mọi chuyện. Tiếng bước chân tạch tạch trên con đường xi măng dẫn vào gara là của ai đó khác, ấy nhưng chúng vẫn cứ là của cô - âm thanh phát ra dưới chân cô. Cứ như thể nhân cách cô vừa mới bị xẻ đôi ra một cách tàn bạo, và một phần bản tính của cô, bấy giờ đang cảm thấy hết sức hãi hùng và bất lực, quan sát một kẻ sát nhân ma quái bước ra từ vệt xẻ kia bắt đầu thực hiện mưu đồ chết người. Cô chỉ có thể bám theo cái thực thể đen tối kia, cái nhân cách xẻ đôi của mình, cái bản chất một khi đã vùng thoát ra thì không thể nào bị tóm lại hay hấp thụ lại. Có lẽ đó chính là lý do khiến tiếng bước chân nghe thật xa cách, và cử động của cô cứ như hình ảnh phản chiếu hắt lại từ gương.

Sau khi quay vào trong xe, cô cho nó lui ra ngoài phố, quay đầu xe, và cài số tiến. Không có gì thô bạo, động tác vẫn hết sức khéo léo, hệt như một tài xế bị nhập hồn. Một bàn tay của ai đó, không phải của cô - rất kiên quyết, rất vững tay, rất thuần khiết - vẫn nhớ cầm một chiếc khăn tay thò ra tóm lấy chốt cửa và đóng chắc nó lại.

Bên ngoài, đèn đường lướt về phía cô như những quả bóng sáng rực lăn trên một sàn chơi bowling. Nhưng cú lăn nào cũng đều trượt hết, lúc thì lăn quá xa về bên này, lúc lại lăn quá xa về bên kia. Trong khi ấy, cô và chiếc xe, con ky to nhất ở chính giữa, thì chúng mãi chẳng đánh đổ được.

Hẳn kẻ đang ném bóng bowling về phía mình chính là Số Mệnh. Nhưng mình không quan tâm, cứ để cho bóng lăn đến. Cô nghĩ thầm.

Thế rồi một lần nữa, chiếc xe dừng lại. Đi hạ sát một con người sao mà đơn giản quá chừng.

Cô không quan sát kĩ nó, không nhìn ngó xem nó trông như thế nào. Hình dáng của nó không quan trọng; cô sẽ đi vào trong đó, và chuyện ấy sẽ xảy ra ngay tại đó.

Cô lại đạp chân lên bàn ga, đi quá chỗ cánh cửa và ra đến góc đường. Khi ra đến nơi, cô quẹo xe lại, bởi vì cô không được phép qua đường ở chỗ đó, cho chiếc xe quay đầu về hướng ban nãy cô vừa đi đến, để nó tiến lại gần vệ đường, cho nó đỗ ở đó, khuất khỏi tầm mắt.

Cô nhấc chiếc túi để trên ghế bên cạnh, như một người phụ nữ vẫn thường làm khi chuẩn bị rời khỏi xe, kẹp chắc nó dưới cánh tay.

Cô tắt động cơ và bước ra ngoài. Cô bước vòng lại khúc quanh vừa rồi, ra nơi cô vừa mới rời đi, bước chân vội vã, bận bịu như một người phụ nữ về nhà lúc đêm muộn, muốn nhanh chóng ra khỏi con phố. Ai cũng đã thấy họ hành xử như vậy nhiều lần rồi; mải chăm chú lo việc của mình, bởi lẽ họ biết mình dễ có nguy cơ bị người khác đến gạ gẫm cao hơn lúc ban ngày.

Cô chỉ có một mình trên dải vệ đường đêm u ám, phía trước một tòa nhà hai tầng trải dài, kết cấu kiểu lai tạp, nửa là khu thương mại và nửa là nhà dân. Tầng trệt bao gồm một chuỗi các cửa hàng tắt đèn tối om, tầng trên là một hàng cửa sổ dài dằng dặc. Bóng trắng của một chai sữa được đặt trên bậu của khung cửa sổ. Có một cửa thắp sáng đèn, nhưng rèm được kéo kín lại. Không phải cửa có chai sữa.

Lọt thỏm giữa hai cửa hàng là một cánh cửa đơn với hàng loạt những cửa kính nhỏ gắn bên trên theo kiểu lỗ bánh nướng, khó phát hiện đến mức cứ như là một cánh cửa bí mật. Cô nhìn thấy nó do có một ngọn đèn hành lang đang thắp tù mù đâu đó phía sau, ráng sức lấn át bóng tối.

Cô ra chỗ cánh cửa và thử kéo nó, nó mở bung ra, không chút do dự, bởi lẽ nó không có khóa, chỉ đơn thuần là một cánh cửa đóng để làm màu. Bên trong có một cái máy sưởi gỉ sét, một cây cầu thang xi măng dẫn lên trên, và ở bên cạnh nó, ngay chỗ đầu cầu thang, là một hàng hộp thư và nút chuông. Tên của hắn nằm trên cái hộp thứ ba mà cô quan sát, nhưng nó không nằm đó một mình, mà được ghi đè lên thẻ tên người thuê nhà trước đây. Hắn đã lấy bút chì gạch bỏ cái tên đi, và điền tên mình bên dưới. “S. Georgesson.” Hắn viết chữ không được tử tế lắm.

Hắn không làm được gì tử tế cả, ngoại trừ phá hoại cuộc đời của người khác. Hắn làm việc đó rất tử tế, hắn là một chuyên gia.

Cô leo lên cầu thang và đi dọc hành lang. Đây là một nơi được xây dựng cẩu thả, tạm bợ. Trong thời kỳ chiến tranh khan hiếm, hẳn người ta đã lấy phần gác mái hay kho chứa đồ của các cửa hàng bên dưới và biến chúng thành nhà cho người ở.

Thật là một nơi tệ hại để sống! Cô u uẩn nghĩ thầm.

Thật là một nơi tệ hại để chết! Cô tàn nhẫn nghĩ thầm.

Cô có thể thấy cái vệt ánh sáng mỏng tang dưới cửa phòng hắn.

Cô gõ cửa, và rồi lại gõ thêm lần nữa, vẫn nhẹ nhàng như lần đầu tiên. Bên trong hắn đang bật đài. Cô có thể nghe tiếng đài vọng qua cửa khá rõ ràng.

Trong lúc đứng đợi, cô giơ tay lên và vuốt tóc ra sau. Người ta chỉ vuốt tóc - nếu cần phải vuốt - ngay trước khi sắp đi gặp ai đó, hay ai đó sắp sửa đến gặp mình. Đó là lý do cho hành động hiện giờ của cô.

Người ta bảo rằng những lúc như thế này ta sẽ rất hoảng sợ. Người ta nói rằng ta sẽ cuống đến mức không thể nào kiểm soát nổi. Người ta nói rằng ta sẽ bị cảm xúc âm ỉ làm cho mờ mắt.

Người ta nói như thế. Nhưng mà người ta thì biết cái gì? Cô chẳng cảm thấy gì cả. Không sợ, cũng không cuống mà cũng không giận đến mò mắt. Chỉ có một quyết tâm tẻ ngắt, nhức nhối lan tỏa khắp người.

Hắn không nghe thấy, hoặc hắn không định mở cửa. Cô thử vặn tay nắm cửa, và cũng như cánh cửa bên dưới, cánh cửa này không bị khóa, nó mở từ bên trong. Sao lại phải khóa chứ, cô lập luận, hắn việc gì phải sợ người khác? Không ai lấy được gì của hắn cả, chỉ có hắn mới là người tước đoạt đồ của người khác.

Cô đóng cửa lại sau lưng, để giữ cho chuyện này chỉ hai người bọn họ biết với nhau.

Mắt cô không nhìn thấy hắn. Căn hộ nồng nặc mùi của hắn, nhưng đây là một căn hộ hai phòng, phòng ngủ và phòng sinh hoạt, và hắn chắc hẳn đang ở căn phòng phía trong, chắc hẳn vừa mới bước vào bên trong ngay khi cô đến ngoài cửa. Cô có thể thấy ánh sáng chiếu xiên ra từ khe hở.

Chiếc áo khoác và cái mũ hắn đội trong xe cùng với cô tối nay được vắt trên ghế, áo khoác vắt ngang phần chỗ ngồi, còn cái mũ thì đặt bên trên. Một điếu xì gà mới mấy giây trước hắn chưa dập hết được đặt trong chiếc gạt tàn thủy tinh, ngang ngạnh bốc khói. Ly rượu hắn vừa mới nhấp môi, sau đó bỏ đấy, và bất cứ lúc nào cũng có thể quay lại để uống nốt - ly rượu hắn dùng để uống mừng kế hoạch tối nay thành công mỹ mãn - đang được đặt trên mép bàn. Cái khối đá trắng chưa tan đang quan sát cô từ bên thành ly, nhìn qua lớp whisky màu rơm, nó trôi nổi bên trong.

Hình ảnh này gợi lại ký ức về một căn phòng có nội thất ở New York. Hắn uống rượu loãng; hắn rất thích rượu mạnh, nhưng thường uống loãng mỗi khi dùng whisky hắn tự mua.

“Về sau kiểu gì chẳng có ly tiếp theo,” hắn toàn nói với cô như vậy.

Giờ thì không có nữa rồi. Đây là ly rượu cuối cùng của hắn. Đáng ra anh phải uống rượu mạnh hơn. Cô thầm nhủ đầy bực bội.

Có tiếng chà xát gì đó khiến cô thấy khó chịu. Một tiếng đập rào rạo, một âm thanh lệch nhịp nào đấy. Nó thực ra là âm nhạc, nhưng với cô bây giờ, không thứ nhạc nào lọt vào tai mà vẫn giữ nguyên bản chất là âm nhạc được nữa. Sự căng thẳng của các giác quan đã biến nó trở thành thứ âm thanh nghe như chổi cọ kỳ lên một miếng thiếc có khía. Hoặc, như cô chợt nhận ra, có khi nó phát ra từ bên trong cô chứ không phải từ bất kỳ chỗ nào bên ngoài.

Không, nó vọng ra từ đằng kia. Hắn có một cái đài nhỏ chạy pin đặt sát tường. Cô đi ra chỗ nó.

“Che gelida mannina [1].., một giọng người xa xăm đang ngân nga hát; cô không biết câu ấy nghĩa là gì. Cô chỉ biết rằng phân cảnh bấy giờ không phải là cảnh yêu đương, mà là cảnh chết chóc.

Tay cô hất mạnh một cái, như thể đang vặt cổ một con gà, và bao trùm lên hai căn phòng tồi tàn của hắn là màn sương im lặng. Cả trong căn phòng ngoài lẫn cái căn phòng trong đó.

Giờ hắn sẽ phải bước ra ngoài để xem ai vừa tắt đài.

Cô quay mặt về phía khe hở. Cô nâng chiếc túi xách lên trước ngực mình. Cô mở nó, lấy khẩu súng ra, và nắm tay quanh nó, theo đúng cái kiểu tay cô cần nắm. Không chút lúng túng, không chút run rẩy, mọi động tác đều được phối hợp hết sức hoàn hảo.

Cô chĩa khẩu súng về phía khoảng hở.

“Steve,” cô nói với hắn trong cái tĩnh lặng tuyệt đối, âm lượng không to hơn tông giọng hai người ở hai phòng khác nhau vẫn hay dùng để nói chuyện. “Ra đây đi. Tôi muốn gặp anh.”

Không hãi sợ, không yêu thương, không thù ghét, không có bất kỳ cảm xúc nào.

Hắn không ra. Có phải hắn đã nhìn thấy cô trong một tấm gương không? Hay là hắn đoán được? Hắn hèn nhát đến mức sợ hãi cả một người phụ nữ ư?

Điếu xì gà gãy đôi tiếp tục biến thành những làn chỉ khói. Cục đá vẫn tiếp tục nhìn cô qua ly thủy tinh, vẫn đủ hết các mặt và chưa tan chút nào.

Cô tiến về phía khoảng hở.

“Steve,” cô khàn giọng nói. “Vợ anh đến rồi. Đến để gặp anh đây.”

Hắn không động đậy, hắn không đáp.

Cô đi vòng qua khung cửa, súng quay ngoắt ra trước mặt như một cái bánh lái cụt. Căn phòng thứ hai không song song với căn phòng thứ nhất; nó được thiết kế vuông góc với căn phòng kia. Nó rất nhỏ, chỉ có một cái hốc để nằm ngủ. Bên trên là một bóng đèn, trông như thể một cái mụt ghẻ phát sáng mọc lên trên lớp bề mặt trần quét vôi. Còn có cả một cây đèn cạnh chiếc giường sắt, cũng được bật sáng, nhưng nó lại chúc ngược đầu xuống đất. Nó nằm cắm đầu xuống sàn, phần dây nối móc ngoắc trên không trông hết sức quái đản.

Cô đã đến đúng lúc hắn chuẩn bị lên giường đi ngủ. Áo của hắn nằm vạ vật dưới chân giường. Hắn mới chỉ cởi được có thế. Và bây giờ hắn đang tìm cách trốn cô, nằm đâu đó trên sàn, bên dưới cái giường, ở mé bên trong. Tay hắn vắt lên trên giường - hắn quên mất rằng mình để lộ tay - đang nắm chặt tấm ga, kéo nó thành những đường dài ngoằng, nhăn nhó. Và phần đỉnh đầu của hắn ló ra, rúc sát vào giường - chỉ để lộ một chút xíu thôi - cúi gục lại hòng nấp cho kĩ, nhưng lại không chúc xuống đủ sâu. Và, mặc dù hắn không để lộ bàn tay thứ hai, ở ngay phía bên cạnh, trên tấm ga trải giường lại xuất hiện những đường nhăn chạy dọc xuống mép, như thể nó nằm đâu đó bên dưới, không ai thấy được, nhưng vẫn đang cố bám chặt lấy.

Và khi nhìn xuống dưới sàn, cô có thể thấy thò ra từ phía bên kia giường là phần dưới của một bên chân, duỗi dài ra sau như thể hắn đang lười nhác nằm ườn. Không thấy chân còn lại đâu hết, hẳn là đã bị cọ sát lên người hắn.

“Dậy đi,” cô nhạo báng. “Ít nhất trước đây tôi còn ngỡ mình thấy căm ghét một gã đàn ông. Giờ thì tôi còn không biết anh là cái thứ gì nữa.” Cô đi vòng qua chân giường, và lưng hắn xuất hiện trong tầm mắt cô. Hắn không nhúc nhích, nhưng mọi đường nét cơ thể đều cho thấy hắn đang muốn bỏ chạy.

Túi xách của cô mở bung và cô rút thứ gì đó ra, ném về phía hắn. “Đây là năm đô la anh đã đưa cho tôi. Anh nhớ chứ?” Nó rơi vào giữa hai bên bả vai, và vắt ngang qua xương sống của hắn, bị phần cong của lưng hắn giữ lại, trông cứ như một nhãn hàng hay tem giá quái lạ được dán ẩu lên người.

“Anh yêu tiền đến thế cơ mà,” cô khinh miệt nói.

“Giờ có cả tiền lãi đây này. Quay lại và nhặt lấy đi.”

Cô khai hỏa trước khi kịp nhận ra mình định làm gì. Như thể lẫn trong những lời vừa thốt lên là ám hiệu để khẩu súng tự hành động, không cần đợi cô. Tiếng súng nổ khiến cô giật nảy, cô có thể cảm thấy nó truyền dọc khắp cánh tay, như thể có ai đó đã vỗ một cú tê dại lên xương cổ tay của cô, và cái vệt lửa thoáng được nòng súng phun ra khiến cô phải chớp mắt và bất giác quay đầu sang một bên.

Hắn không cử động. Ngay cả tờ năm đô la cũng không bay ra khỏi người hắn. Một tiếng rên rỉ trầm trầm lạ lùng vang lên từ cái ống trụ tròn đầu giường, như thể đang có một rung động chậm rãi lắng xuống, và trên lớp thạch cao tường là một lỗ thủng đen, nằm lệch hẳn một bên, như thể chỉ vừa mới xuất hiện khi mắt cô nhìn về hướng ấy.

Bàn tay của cô giờ đã đặt lên vai hắn, trong khi tâm trí cô thì cứ lắp bắp, “Tôi không... tôi không...” Hắn èo uột lật người lại, và trôi xuống dưới sàn, trông cứ như là đang chơi đùa, như thể cô vừa mới đe dọa sẽ cù hắn còn hắn thì đang tìm cách tránh né.

Phong thái của hắn xem chừng đầy vẻ biếng nhác cười cợt. Thậm chí miệng hắn còn toét ra, trông như nụ cười nhăn nhở.

Mắt hắn như dán chặt vào người cô, quan sát cô, vẫn với cái ánh nhìn xa cách nhạo báng bấy lâu luôn dành cho cô. Như thể muốn nói, “Giờ cô định làm gì đây?”

Cô gần như không thể nào nhận ra được vấn đề nằm ở đâu. Chỉ có một vết sẫm chạy dọc mé ngoài một bên khóe mắt, trông như được đắp bằng da sơn thay vì băng y tế; như thể hắn đã tự làm mình bị thương ở đó rồi băng nó lại. Và tại cái nơi đầu hắn ban nãy dựa vào, chỗ phần ga giường thòng dọc xuống, có một vết ố hình xoắn ốc dị hợm, mép ngoài trông nhạt hơn phần ở giữa.

Có ai đó hét lên trong căn phòng chật hẹp bé nhỏ ấy. Nghe không chói tai mà lại lào khào, gần giống tiếng sủa của một con chó đang hoảng sợ. Hẳn người hét chính là cô, bởi vì trong này không có ai khác hét được ngoài cô. Thanh quản của cô đau buốt, như thể vì căng quá mà đã bị đứt làm đôi.

“Ôi, Chúa ơi!” cô nghẹn ngào khóc. “Mình không việc gì phải đến...”

Cô lùi xa khỏi hắn, lảo đảo nhích từng bước. Nguyên nhân không phải là cái vệt loang loáng bé nhỏ kia, cái vết hắc ín bẩn, hay cái kiểu hắn nằm ở đó, buông lỏng người uể oải, như thể nãy giờ họ đùa vui đến mức giờ hắn kiệt quệ rồi, và không còn sức đứng dậy để tiễn cô về nữa. Nguyên nhân là cặp mắt của hắn, cặp mắt sắc lẻm cứ liên tục đâm thọc, truyền nỗi sợ vào người cô, cho đến khi sự hoảng loạn trào dâng trong cô, như thể ộc ra từ một cái sàng. Cái kiểu chúng như bám dính lấy cô, cái kiểu chúng như dõi theo bước giật lùi của cô, từng bước, từng bước một. Cô né lệch sang bên, nhưng vẫn không thể thoát khỏi chúng. Cô lại né lệch sang bên ngược lại, nhưng vẫn không thể thoát khỏi chúng. Khinh bỉ, trịnh thượng, nhạo báng cho đến tận phút chót; không chút dịu dàng thật sự nào dành cho cô cả. Chết đi rồi mà hắn vẫn cứ nhìn cô theo kiểu như khi còn sống.

Cô gần như có thể nghe được cái giọng lè nhè đi kèm với ánh nhìn ấy. “Cô định chạy đi đâu thế? Làm gì mà vội vậy? Quay lại đây nào!”

Tâm trí cô gào lên đáp lại, “Rời xa khỏi đây.! Đi ra khỏi đây.! Trước khi có ai khác đến.! Trước khi có ai khác nhìn thấy tôi!”

Cô quay người và lao qua khoảng hở, chạy xuyên qua căn phòng bên ngoài, tay quơ tới quào lui, như thể căn phòng này là một băng chuyền bất tận đang trôi theo hướng ngược lại, tìm cách kéo cô quay ngược về chỗ hắn, thay vì một khoảng không gian vài mét ngắn ngủi.

Cô ra đến cửa và huých người vào nó. Nhưng rồi, sau cú va đầu tiên, sau khi người cô đã áp vào nó, thay vì trở nên im lặng, cánh cửa cứ tiếp tục kêu thùm thụp, thùm thụp mãi, như thể có hàng chục phiên bản khác của cô đang nối đuôi nhau huých vào nó, mãi không chịu ngừng.

Gỗ không thể nào tự gõ được như thế, gỗ không thể nào tự kêu được như thế. Cô đưa tay lên tai, ấp chặt lấy chúng. Cô gần như sắp hóa điên.

Các cú va đập không còn dãn cách và có khoảng đợi ở giữa. Chúng trở nên thô bạo, dồn dập, liên tiếp. Chúng trở nên giận dữ, và cứ mỗi một giây phải chờ, chúng càng trở nên tức giận hơn. Chúng át đi cả tiếng hét đau đớn thứ hai của cô. Một tiếng hét thậm chí còn mang nhiều nỗi hãi sợ chân thực hơn cả tiếng hét ban đầu, thốt lên trong căn phòng kia. Nỗi sợ của cô bây giờ không còn là sợ thứ gì siêu nhiên nữa, mà là một nỗi sợ rất cá nhân; một nỗi sợ trực tiếp hơn, một nỗi sợ mạnh bạo hơn. Một nỗi sợ đau đớn, một nỗi sợ như giam cầm mà từ trước đến nay cô không hề biết nó tồn tại. Nỗi sợ mất đi thứ mình thương yêu. Nỗi sợ lớn nhất trần đời.

Bởi lẽ cái giọng đang vọng vào qua cửa, đang vang lên bên kia cửa, nghe nghèn nghẹt nhưng đầy nôn nóng bực bội, là giọng của Bill.

Tim cô nhận ra điều ấy trước khi cái giọng kia vang lên, rồi tai cô nhận ra điều ấy khi giọng kia bắt đầu vang lên, và rồi lời lẽ của nó khẳng định với cô điều ấy ngay khi chúng được thốt ra.

“Patrice! Mở ra. Mở cửa ra. Patrice! Em có nghe anh nói không? Anh biết sẽ tìm thấy em ở đây mà. Mở cánh cửa này ra và cho anh vào đi, nếu không anh sẽ phá cửa đấy!”

Cô muộn màng nghĩ đến cái khóa, và cũng trong đúng tích tắc ấy, anh cũng nghĩ đến điều đó. Rằng cánh cửa suốt từ nãy giờ không được khóa, hệt như lúc cô mở nó hồi nãy. Cô ép bẹp người lên cửa, thốt lên một tiếng rên rỉ tuyệt vọng, nhưng đã quá muộn, vì đúng lúc đó tay nắm cửa vặn tròn và khe cửa bắt đầu nới rộng.

“Không!” cô hổn hển van nài. “Không!” Cô cố gắng sử dụng toàn bộ trọng lượng tấm thân run lẩy bẩy để giữ cho cánh cửa đóng lại.

Cô gần như có thể cảm thấy luồng hơi thở căng thẳng của anh phà vào mặt mình. “Patrice, em^ phải... để... cho... anh... vào... trong... đó!”

Và cứ mỗi từ thốt lên cô lại bị đẩy lui, gót chân cô vô dụng cà ngược ra sau trên mặt sàn.

Giờ anh đã có thể thấy cô, và cô cũng có thể thấy anh, thông qua cái khe hở dao động không ngừng trước lực đẩy ngược nhau của đôi bên, hết nới rộng ra một tí, rồi lại hẹp vào, thế rồi lại rộng ra hơn hẳn trước. Cặp mắt của anh đặt sát mắt cô trông như một lời cáo buộc hết sức khủng khiếp, tệ hơn hẳn cặp mắt của cái xác chết bên trong phòng kia. Đừng nhìn em, đừng nhìn em! Cô thầm van vỉ chúng đầy tuyệt vọng trong tâm trí. ổi, anh hãy nhìn đĩ chỗ khác đĩ, em không thể chịu được đâu!

Cô cứ thế lùi lại, cứ đều đều và không thể nào ngăn chặn được, ấy nhưng cô vẫn cố cản anh, cố đến tận giây phút cuối cùng, kể cả sau khi tay và vai anh đã thò được vào trong, cô điên cuồng gồng toàn thân lên ngăn cản anh, ép bẹp tay lên cửa cho tới khi chúng trắng bệch, không còn một giọt máu.

Thế rồi anh thúc nốt lần cuối để chấm dứt cuộc đọ sức không cân bằng này, và cô bị đẩy ngược lại cùng với đường vòng cung cửa, như một chiếc lá hay một mảnh giẻ bị mắc kẹt. Và anh đã vào được trong phòng, và anh đứng ngay cạnh cô, ngực hơi phập phồng thở dốc.

“Không, Bill, không!” Cô cứ tiếp tục van lạy như một cái máy, ngay cả sau khi đã không còn nguyên cớ gì để mà van lạy nữa. “Đừng vào đây. Nếu anh yêu em thì đừng vào. Hãy ở ngoài đi.”

“Em đang làm gì ờ đây thế?” Anh nói cụt ngủn. “Sao em lại đến đây?”

“Em muốn anh yêu em,” cô chỉ thì thào được như vậy, chẳng khác nào một đứa trẻ đang xao nhãng. “Đừng vào đây. Em muốn anh yêu em.”

Anh bỗng túm lấy cô, và lắc vai cô thật mạnh. “Anh đã trông thấy em. Em đến đây làm gì? Em đến đây giữa đêm hôm thế này để làm gì?” Anh lại buông cô ra. “Cái gì thế này?” Anh nhặt khẩu súng lên, món đồ mà nãy giờ cô hoàn toàn quên khuấy mất vì còn mải phát hoảng. Hẳn nó đã rơi ra ngoài, hoặc cô đã quăng nó xuống sàn trong lúc tháo chạy từ căn phòng bên trong.

“Em mang nó theo à?” Anh lại tiến về phía cô. “Patrice, trả lời anh đi!” Anh nói với cái giọng hung hãn mà cô không biết anh sở hữu. “Em đến đây làm gì thế?”

Giọng cô cứ tiếp tục nghẹn lại và tắc ứ trong cô họng, như thể không cách nào vọt lên được. Cuối cùng nó tuôn trào ra. “Để... để... để giết hắn ta.” Cô ủ rũ đổ gục vào người anh, và anh phải vòng tay ôm thật chặt để giữ cho cô đứng vững.

Tay của cô tìm cách men dọc ve áo anh, leo lên phần trước áo anh, đưa về phía mặt anh, như những kẻ ăn xin trắng nhợt ngó ngoáy cầu xin được bố thí.

Anh gạt tay một cái, và chúng lại buông xuống.

“Và em có làm như thế không?”

“Có ai đó... đã làm thế. Có ai đó... đã làm thế từ trước rồi. Trong đó. Hắn ta chết rồi.” Cô rùng mình và ụp mặt vào người anh. Sẽ đến một lúc ta không thể nào ở một mình được nữa. Ta sẽ cần có ai đó để bấu víu lấy. Ta sẽ cần được ai đó ôm ấp, kể cả nếu ta biết rõ rằng chỉ một vài giây nữa thôi người ấy sẽ lại xua đuổi ta.

Bất chợt tay anh buông xuống và anh rời khỏi cô. Phải đơn côi một mình mới kinh khủng làm sao, dù chỉ là trong phút chốc. Cô tự hỏi sao mình lại có thể chịu đựng được nó suốt bao tháng năm qua.

Cuộc đời thật là một thứ điên rồ, cuộc đời thật là một thứ quái đản. Một người đã lăn ra chết. Một tình yêu vừa bị phá tan thành hư vô. Nhưng một điếu xì gà vẫn đang bốc khói trên gạt tàn. Và một cục đá vẫn đang lơ lửng mãi, chưa tan trong cái ly thủy tinh. Những thứ ta muốn được trường tồn thì tan vỡ, còn những thứ không quan trọng thì cứ nấn ná mãi.

Thế rồi từ trong căn phòng kia, anh lại xuất hiện, đứng chỗ khoảng hở nhìn cô. Nhìn cô theo cái kiểu rất khác thường. Có phần hơi lâu quá, có phần hơi im lặng quá - cô không thể nói chính xác mình không thích nó ở điểm nào, nhưng cô không muốn anh nhìn cô như thế. Những người khác có nhìn kiểu đó cũng không sao. Nhưng anh thì không.

Thế rồi anh giơ khẩu súng nãy giờ vẫn đang cầm lên, và đặt nó sát bên mũi.

Cô thấy anh gật đầu đầy nghiêm nghị.

“Không. Không. Em không làm thế. Ôi trời ơi, xin hãy tin em.”

“Súng vừa mới được khai hỏa,” anh lặng lẽ nói.

Giờ mắt anh mang nét gì đó trông thật rầu rĩ, như thể chúng muốn nói với cô rằng, “Sao em lại không muốn nói cho anh nghe? Sao em không nói anh nghe cho mọi chuyện? Và rồi anh sẽ hiểu.” Anh không nói hẳn ra, nhưng ánh mắt anh thì như đang nói thế.

“Không, em không làm chuyện ấy. Em có bắn về phía hắn, nhưng không trúng.”

“Được rồi,” anh lặng lẽ nói với vẻ mệt mỏi mà ta vẫn bộc lộ mỗi khi không tin điều gì đó, nhưng cố lờ nó đi để tha cho người khác.

Bất chợt anh đút nó vào trong túi áo khoác, như thể nó không còn quan trọng nữa, như thể nó chỉ là một tiểu tiết, như thế có những vấn đề quan trọng gấp bội cần phải giải quyết ngay. Anh cài cúc áo lại một cách kiên quyết, tiến về phía cô; động tác của anh giờ mang dáng dấp mạnh bạo đầy linh hoạt, không như ban nãy.

Một thôi thúc, một mục tiêu.

Anh lại choàng tay ôm lấy cô che chở. Nó chính là chốn thánh địa mà cô đã suốt đời tìm kiếm. Và tận bây giờ cô mới tìm thấy, nhưng đã quá muộn màng. Có điều lần này tay anh vội vã thúc cô về phía cánh cửa chứ không chỉ đơn thuần đỡ cô. “Ra khỏi đây, nhanh,” anh nghiêm giọng ra lệnh. “Em hãy xuống phố nhanh hết mức có thể.”

Anh kéo cô đi, đẩy cô vội bước cùng mình, kẹp trong vòng tay che chở của anh. “Nhanh lên nào. Không thể để người khác thấy em ở đây được. Em hẳn phải mất trí rồi mới đến đây như thế này!”

“Em đúng là mất trí thật,” cô khóc. “Em mất trí thật rồi.”

Cô bắt đầu ngọ nguậy kháng cự lại anh một chút, tìm cách không đi ra phía cửa. Cô bất chợt vùng ra khỏi vòng tay anh, và đứng lùi lại, mặt đối mặt với anh. Bàn tay của cô cứ tiếp tục đẩy tay anh ra mỗi lần chúng định tóm lấy cô.

“Không, đợi đã. Có điều này anh phải nghe em nói trước đã. Có điều này anh phải biết. Em đã cố gắng giữ cho anh nằm ngoài cuộc, nhưng giờ anh ở trong này với em rồi. Em đã làm đến mức này rồi; em sẽ không làm quá thêm nữa.” Và rồi cô nói thêm, “Với cái kiểu như em hồi trước.”

Anh thò tay ra và lắc cô đầy thô bạo vì bực bội. Như thể muốn cô tỉnh táo lại. “Không phải bây giờ! Em không hiểu à? Có một người nằm chết đứ đừ trong căn phòng bên cạnh. Em không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu người ta phát hiện ra em ở đây à? Chắc chắn sẽ có ai đó thò đầu vào đây bất cứ lúc nào.”

“Ôi, đồ ngốc,” cô gào lên với anh đầy vẻ thương hại. “Anh mới là người không hiểu. Chuyện ấy đã xảy ra rồi. Anh không nhận ra sao? Em đã bị phát hiện rồi!” Và cô lẩm bẩm rất khó nghe, “Bị phát hiện bởi người duy nhất quan trọng với em. Bây giờ em bỏ chạy và lẩn trốn làm gì nữa?” Cô mệt mỏi đưa mu bàn tay lên quệt mắt. “Hãy cứ để người ta đến. Hãy cứ cho họ đến đi.”

“Nếu em không muốn nghĩ đến bản thân,” anh gay gắt thúc giục, “thì hãy nghĩ đến mẹ. Anh tưởng em yêu bà ấy, anh tưởng bà ấy có ý nghĩa với em. Em không hiểu một chuyện như thế này sẽ khiến bà ấy ra sao à? Em đang định làm gì thế, giết bà ấy à?”

“Đã có người từng lập luận như thế với em,” cô mập mờ đáp lời anh. “Em không thể nhớ đó là ai, hay là nói ở đâu.”

Anh cẩn thận mở cửa và nhìn ra ngoài. Thế rồi lại khép cửa vào, quay về chỗ cô. “Không thấy bóng dáng của bất kỳ ai cả. Anh không thể hiểu làm sao phát súng vừa rồi lại không bị nghe thấy. Anh không nghĩ mấy phòng kế bên có người.”

Cô dứt khoát không chịu nhúc nhích. “Không, bây giờ chính là lúc cần nói, và đây là nơi cần nói. Em đã đợi quá lâu để nói với anh điều này. Em sẽ không tiến thêm một bước nào nữa, em sẽ không bước qua cái bậu cửa đó...”

Anh siết chặt quai hàm. “Anh sẽ bê em ra khỏi đây nếu anh buộc phải làm thế! Em có chịu nghe lời anh không? Em có định tỉnh táo lại không?”

“Bill, em không đáng được anh bảo vệ. Em không.”

Tay anh bỗng dưng ụp lên miệng cô, bịt kín. Anh nhấc bổng cô lên khỏi sàn, ôm cô trong vòng tay. Bên trên bàn tay bưng bít của anh, mắt cô ngước lên, đầy câm lặng và bất lực.

Thế rồi họ áp sát vào người nhau. Cô không còn kháng cự lại anh.

Anh cứ thế bế cô ra khỏi cửa, bước dọc hành lang, và đi xuống cây cầu thang mà lúc trước cô đã bước lên đầy dửng dưng. Khi ra đến gần cánh cửa dẫn ra phố, anh đặt cô đứng xuống.

“Đứng đây một phút, chờ anh quan sát bên ngoài đã.” Dựa vào cái vẻ thụ động của cô, anh biết giờ cô đã không còn ngoan cố nữa.

Anh rụt đầu vào. “Không có ai ở ngoài đó cả. Em đỗ xe ở mé góc đường, đúng không?” Cô không có thời gian để tự hỏi tại sao anh biết được điều đó. “Đi sát anh, anh sẽ đưa em quay lại chỗ đó.”

Cô xoắn hai tay nắm lấy cánh tay anh, cứ thế bám chặt lấy anh, và họ đi ra ngoài, không bị ai ngăn cản, vội vã bước sát mặt tiền tòa nhà, nơi bóng tối che phủ đen đặc nhất.

Khoảng cách sao mà xa xôi quá. Không ai thấy họ; thậm chí còn tuyệt vời hơn là không có ai ở đó để mà thấy họ. Có lần một con mèo chui ra từ một ống thông trước mặt. Cô chợt ép mình vào sát anh hơn, nhưng không kêu lên tiếng nào. Sau một thoáng giật nảy người, họ lại đi tiếp.

Họ đi vòng qua khúc quanh, và chiếc xe nằm ngay đó, chỉ cách góc đường một khoảng ngang bằng chiều dài của chính nó.

Họ đi chéo đường ra chỗ chiếc xe, anh mở cửa và đẩy cô ngồi vào trong. Thế rồi cánh cửa lại bất chợt đóng sập lại giữa hai người, và anh đứng ở bên ngoài.

“Chìa khóa đây. Giờ em đưa xe về nhà và...”

“Không,” cô hoảng hốt thì thầm. “Không! Không có anh thì em không về đâu! Anh đi đâu vậy? Anh định làm gì thế?”

“Em không hiểu à? Anh đang cố giữ cho em không liên can gì đến vụ này cả. Anh sẽ quay lên trên đó. Anh phải làm thế. Để đảm bảo chẳng có gì trên đó làm liên lụy đến em. Em phải giúp anh. Patrice, hắn đang bắt em làm gì thế? Anh không muốn biết tại sao, bây giờ không có thời gian để nghe chuyện đó, anh chỉ cần biết hắn muốn gì thôi.”

“Tiền,” cô đáp gọn lỏn.

Cô thấy bàn tay anh siết chặt lấy vành cửa, cho đến khi trông anh như thể đang tìm cách bóp bẹp nó. “Em đưa tiền cho hắn theo kiểu gì, tiền mặt hay séc?”

“Một tờ séc,” cô sợ hãi nói. “Chỉ đúng một lần thôi, khoảng một tháng trước.”

Giọng anh có vẻ căng thẳng hơn. “Em đã tiêu hủy nó lúc tờ séc được hồi lại rồi, đúng kh.?”

“Em không bao giờ nhận lại được. Hắn cố tình giữ nó. Hẳn hắn vẫn còn đang giữ nó ở đâu đó.”

Thấy anh cứng người và chậm rãi hít một hơi là cô nhận ra ngay điều này khiến cho anh hãi sợ hơn hẳn bất cứ điều gì cô đã kể với anh từ trước đến nay. “Lạy Chúa,” anh lo lắng nói. “Anh phải lấy lại tờ séc ấy, kể cả phải mất cả đêm nay.” Anh lại gục đầu xuống, chúi về phía cô. “Còn gì nữa không? Có thư từ gì không?”

“Không có gì cả. Cả đời em chưa bao giờ viết cho hắn một dòng nào hết. Có một tờ năm đô la nằm trong đó, bên cạnh hắn, nhưng em không muốn lấy lại nó.”

“Tốt nhất anh nên thu nó về. Không còn gì nữa à? Em có chắc không? Nào, nghĩ đi, Patrice. Nghĩ cho kĩ vào.”

“Đợi đã, vào hôm đi khiêu vũ... hình như hắn có số điện thoại của em. Của nhà mình. Ghi vào trong một quyên sổ đen nhỏ hắn mang theo.” Cô lưỡng lự. “Và còn một thứ này nữa.”

“Thứ gì thế? Đừng sợ, nói anh nghe đi. Thứ gì thế?”

“Bill. tối nay hắn bắt em kết hôn với hắn. Ở Hastings.”

Lần này anh giơ tay lên, để nó nện rầm xuống vành cửa như một cái búa. “Anh mừng là gã kia đã.,” anh nói với giọng đầy đe dọa. Anh không nói nốt câu. “Em ký tên riêng của em à?”

“Tên của gia đình mình. Em buộc phải làm thế. Đó là lý do khiến hắn làm chuyện này. Thẩm phán sẽ gửi chứng nhận đến địa chỉ này cho hắn trong vòng một, hai ngày nữa.”

“Thế tức là vẫn còn đủ thời gian để giải quyết việc đó. Ngày mai anh sẽ lái xe ra đây và lấy nó. Tiền làm được nhiều việc lắm.”

Bất chợt trông anh như vừa hạ quyết tâm sẽ làm gì. “Về nhà đi, Patrice,” anh ra lệnh. “Quay về nhà đi, Patrice.”

Cô sợ hãi tóm chặt lấy tay anh. “Không. Anh định làm gì thế?”

“Anh sẽ quay lên trên đó. Anh phải làm thế.”

Cô cố giữ anh lại. “Không! Bill, không! Có thể sẽ có người xuất hiện. Họ sẽ thấy anh ở trong đó. Bill,” cô van nài, “vì em đi. đừng quay lại đó nữa.”

“Em không hiểu à, Patrice? Tên em không được dính dáng gì đến vụ này. Có một gã đàn ông đang nằm chết ngắc trên tầng, trong căn phòng đó. Không thể để cho người ta phát hiện thấy bất cứ thứ gì cho thấy em có dính líu với hắn. Em chưa từng biết hắn, em chưa từng nhìn thấy hắn. Anh sẽ phải đi lấy mấy thứ kia - tờ séc, quyển sổ. Anh phải vứt bỏ chúng đi. Nếu anh lôi được hắn ra khỏi đó, bỏ xác hắn ở đâu đó, cách xa nơi này, khiến người ta khó lòng xác định được hắn là ai thì càng tốt. Có khi người ta sẽ chẳng bao giờ xác định được danh tính hắn. Hắn không phải người của thị trấn này, ít có khả năng có người đi hỏi sao hắn lại đột nhiên mất tích như thế. Hắn đến và rồi hắn lại bỏ đi; như một kẻ du thủ du thực. Nếu hắn được phát hiện trong căn phòng kia, ngay lập tức người ta sẽ xác định được hắn là ai, và rồi chuyện đó sẽ dẫn đến hàng loạt chuyện khác.”

Cô thấy anh liếc quan sát chiều dài chiếc xe một cách đầy suy đoán, như thể đang đo lường xem liệu có thể dùng nó làm quan tài được không.

“Em sẽ giúp anh, Bill,” cô đột ngột nói đầy quyết tâm. “Em sẽ giúp anh... làm bất cứ điều gì anh muốn.” Và rồi, khi thấy anh nhìn mình với vẻ hồ nghi, “Để em làm thế đi, Bill. Để em làm thế đi. Đây là cách em. bù đắp phần nào cho việc mình là nguyên cớ làm nảy sinh ra chuyện này.”

“Được rồi,” anh nói. “Đằng nào thì anh cũng không thể làm được chuyện này nếu không có xe. Anh cần nó.” Anh chui vào ngồi bên cạnh cô. “Để anh lái xe một chút. Anh sẽ cho em thấy anh muốn em làm gì.”

Anh cho chiếc xe tiến lên phía trước chỉ một, hai mét, rồi lại cho nó đỗ lại. Chiếc xe dừng lại ở vị trí mà chỉ có phần mui là thò ra khỏi khúc quanh của tòa nhà, phần còn lại thì vẫn bị che khuất đằng sau. Ghế lái xe được xếp thẳng với mặt tiền các cửa hàng tại chỗ khúc quanh.

“Nhìn theo hướng đằng kia mà xem, từ chỗ em ngồi ấy,” anh ra lệnh cho cô. “Em có thấy cái khung cửa kia không?”

“Không. Nhưng em có thể thấy đại khái nó nằm ở đâu.”

“Ý anh là thế đó. Anh sẽ đứng ở đó, châm lửa đốt một điếu xì gà. Khi nào nhìn thấy, em hãy cho chiếc xe tiến ra phía trước chỗ đấy. Cho đến khi ấy thì em cứ ở im chỗ này. Nếu em thấy bất kỳ thứ gì khác, nếu em thấy có chuyện gì bất ổn, đừng ở lại đây. Hãy lái thẳng một mạch, không quành ra chỗ đó làm gì cả. Lái thẳng về nhà.”

Không, cô ngang ngạnh nghĩ thầm, không, em sẽ không làm thế. Em sẽ không bỏ chạy và bỏ mặc anh ở đây. Nhưng cô không nói với anh điều ấy.

Anh lại chui ra ngoài, đứng quay mặt về phía cô, cẩn thận nhìn hai bên xung quanh, cố không để cho đầu quay đi quay lại quá nhiều, giữ cho người thật im, liếc nhìn ra sau vai, lần lượt từng bên một.

“Được rồi,” cuối cùng anh nói. “Giờ ổn rồi đấy. Anh đoán mình có thể đi được rồi.”

Anh chạm lên mu bàn tay cô một lúc để trấn an cô.

“Đừng sợ, Patrice. Có khi chúng ta sẽ gặp may mắn. Chúng ta chỉ là dân nghiệp dư trong mấy chuyện thế này.”

“Có khi chúng ta sẽ gặp may mắn,” cô lặp lại, cảm thấy sợ hãi vô cùng.

Cô nhìn theo anh quay người và đi xa dần khỏi chiếc xe.

Anh bước đi theo cái kiểu vẫn hay bước. Đó là một trong những cái hay của anh. Anh không đi kiểu lấm lét hay rụt rè. Cô tự hỏi tại sao vào thời điểm thế này, cô lại quan tâm đến chuyện ấy. Nhưng chẳng hiểu sao, nó giúp cho cái chuyện anh, cái chuyện họ sắp sửa thực hiện phần nào bớt kinh khủng hơn.

Anh quay đi và vào bên trong tòa nhà nơi cái gã kia đang nằm chết.

Chú thích:

[1] Che gelida mannina: Một câu trong vở opera La bohème nổi tiếng của Italia.