← Quay lại trang sách

Chương IV

Uống cạn chén trà, Hậu tự thuật:

- Em thú thật với anh rằng từ ngày em bước chân vào cuộc đời luân lạc đến nay là chín năm, em chưa hề có đem câu chuyện của đời kể lể với một người khách chơi nào. Em cho rằng có kể ra cũng chẳng ai tin và cũng chẳng ai thương. Thôi thì chuyện của mình chỉ nên để một mình mình biết còn hơn, nói ra chẳng bõ người đời bĩu môi mai mỉa. Nhưng đối với anh lại khác. Tuy em ít học thức, em cũng có thể biết được người, được của. Anh đối với em, ngay từ buổi đầu gặp mặt ở tỉnh Thanh, đã sẵn một niềm tử tế khoan dung. Tự nhiên em thấy em tin cậy anh như tin cậy người mẹ thân yêu của em nay không còn nữa. Rồi từ bấy đến giờ, em ít được gặp anh. Mà hôm nay gặp anh, em cũng vẫn thấy lòng tin cậy xưa không thay đổi. Trong các người đàn ông em đã tiếp bao nhiêu lâu nay, em chỉ thấy có anh là người đối với hạng đàn bà giang hồ như chúng em không có một chút khinh bỉ nào. Anh là người thứ nhất mà em thấy đến chơi các nhà cô đầu không có một chút tình ý gì gọi là vụ lợi riêng cho mình. Còn toàn thể họ đi chơi chỉ muốn đã mua mâm thì đâm cho kỳ thủng.

Tôi mỉm cười nghiêng mình để từ chối những lời phê bình ngợi khen ấy. Nhưng, hiểu ý, nàng đã nói tiếp:

- Không phải em nói sáo để làm vui lòng anh đâu. Sự vui lòng của anh, đâu có phải những người như chúng em gây nên được. Chẳng qua là em nghĩ thế nào thì nói ra như thế, có chỗ nào phạm lỗi với anh, xin anh thứ đi cho.

- Tôi tưởng hôm nay cái lỗi phải về phần tôi, vì tôi đã làm chị thức khuya vô ích…

Nàng phác một cử động rồi cắt đứt lời tôi:

- Anh bảo thế nào là vô ích? Thức khuya để được ngồi nói chuyện với anh, em tưởng như thế là hân hạnh cho em lắm lắm. Trong đời em, nếu có những đêm đáng kỷ niệm thì cái đêm nay, được kể lể tâm sự với anh, là cái kỷ niệm êm đềm nhất.

Thấy đêm đã khuya và sợ câu chuyện ra ngoài ý định của tôi, tôi liền vào đề:

- Chị nói chị luân lạc đã chín năm nay…

- Vâng, em sống cái đời giang hồ này đã chín năm rồi, nghĩa là từ năm em mười bảy tuổi. Năm ấy…

Nói đến đây, Hậu ngồi yên, hai mắt xa vắng như đi tìm trong thời gian dĩ vãng một cái mốc vô hình cho cuộc đời chìm nổi.

Sau vài giây mơ mộng, nàng giật mình nhẹ nhàng, trở lại thực tế và nói tiếp:

- Muốn để anh hiểu rõ đời em thì em phải kể cả lai lịch gia đình em cho anh nghe. Em là giòng giõi một nhà quan cách. Ông nội em đã trọng nhậm chức tri huyện ở Tiên Du vùng Bắc Ninh, kể có trên mười năm. Mà em cũng đẻ ở huyện đó, cạnh Cầu Lim, Nội Duệ. Thủa nhỏ, em sướng lắm, chỉ suốt ngày đến các làng gần huyện xem dệt cửi và nghe hát quan họ. Bây giờ hồi tưởng đến thủa nhỏ em vẫn nhớ tiếc. Năm em mười hai tuổi thì ông em mất, nhà em phải dọn về quê ở Hưng Yên. Được ít lâu thì thầy em làm lý trưởng ở làng. Mẹ em và em trông nom ruộng nương. Sự sống tuy không còn đàng hoàng như ở huyện, nhưng cũng vẫn sung túc. Giá thầy em đừng ra tranh chánh tổng thì có lẽ cuộc đời em không như ngày nay. Sự tranh chánh tổng của thầy em làm gia đình em khánh kiệt. Cái trò ở thôn quê con gà tức nhau tiếng gáy, đã đâm lao thì phải nhắm mắt theo lao. Đến lúc thầy em được chức chánh tổng thì gia sản nhà em gần hết. Tưởng rằng rồi làm việc quan thì bổng lộc chẳng bao lâu sẽ kiếm lại được số tiền bỏ ra. Chẳng ngờ, bên thua họ kiếm cách làm khó dễ để trả thù, nên thầy em làm chánh tổng được hơn một năm thì bị kiện. Giá mình còn nhiều tiền thì theo kiện thế nào cũng được. Nhưng chết một cái lúc bị kiện thì trong nhà em, tiền không có. Vì thế nên thua kiện và thầy em bị huyền chức. Vừa tức vừa xấu hồ, thầy em tính bán hết cửa nhà không ở làng nữa. Thế là gia đình em rời bỏ quê hương về Hanoi. Cảnh nhà lúc đó hết sức là túng quẫn. Mẹ em cố sức buôn bán lần hồi, lại có em giúp việc cũng chẳng đủ ăn. Năm ấy em mười bốn tuổi. Công việc buôn bán thứ nhất của đời em là cắp mẹt quít đi dong các phố Hanoi. Không thể nói hết được những sự bỡ ngỡ thẹn thuồng của em hồi ấy. Mà cũng không thể nói hết được sự nghèo khổ của gia đình em. Sau thầy em tìm được một chân làm ở Hongay, do một người anh em họ giới thiệu. Nhà em liền rời ra ngoài mỏ. Và cũng ở đấy, em đi sàng than để lấy thêm tiền giúp gia đình. Như vậy được hai năm. Rồi một hôm, thầy em xuống mỏ làm. Chiều tối, không thấy về. Mẹ em và em lo sợ đi hỏi thì mới biết kíp người làm mỏ hôm ấy bị đè chết tất cả ở dưới hầm. Mẹ em chết điếng người, ngất đi ở nhà ông cai, em phải vực về nhà…

Thuật đến đoạn này, Hậu nấc lên một tiếng và òa khóc. Tôi ngồi yên nhìn sự đau khổ của người đàn bà trụy lạc ấy. Những giọt nước mắt làm khô ráo những buồn não của nàng. Nàng lấy khăn lau mắt và nhìn tôi. Tôi an ủi:

- Chị tính, ở đời, gặp những cảnh biến bất thường như thế có gì lạ đâu. Lạ, là những việc xảy ra sau những cảnh biến ấy. Rồi về sau, bà cụ ra sao?

- Khổ nhất là lúc ấy mẹ em lại mới có mang. Biết rằng sự sống ở ngoài mỏ không thể được nữa, em bàn với mẹ em về Hải Phòng kiếm kế sinh nhai. Về Phòng, em đến tìm một bà mẹ bán la-ghim ở chợ Sắt và xin bà cho ở nhờ tạm để em đủ thì giờ soay-sỏa công việc làm ăn.

Chẳng may cho em lại gặp một bà mợ hết sức khó chịu. Nay tiếng bấc, mai tiếng chì, thật là khổ tâm cho mẹ em. Nhưng may gặp được chồng bà ta tử tế. Ông tìm được cho em một chân phu đẩy gòong ở sở Si-măng, lương tháng được sáu đồng. Em liền thuê một gian nhà lá ở phố Bàng rồi cùng mẹ em sang đấy ở để tránh nhìn bà mợ cau có kia. Anh tính với sáu đồng bạc, hai mẹ con sống làm sao được? Vì thế nên mẹ em tuy ốm yếu cũng phải buôn ít sắn ít khoai ngồi bán ngoài chợ Bàng để kiếm tiền thêm cho đủ chi dùng.

Mẹ con sống tạm, sống bợ cũng đủ bữa cơm bữa cháo. Em ở phố Bàng đã được hơn sáu tháng. Thì mẹ em vừa đến ngày sinh nở. Lúc mẹ em giở dạ, trong túi em không có lấy một xu nhỏ. Không biết làm thế nào, Em liền đến vay ông Cai coi kíp em làm. Ông ta cũng ở phố Bàng. Ông liền cho em vay hai đồng. Em đưa mẹ em vào nhà thương đẻ. Cái thời kỳ mẹ em nằm nhà thương đẻ là thời kỳ em vất vả và khổ nhất. Tiền đã thiếu, con mụ chủ nhà thương đẻ nó lại cứ thúc dục luôn. Và thấy em không có, nó dằn vặt mẹ em đủ tình đủ tội. Anh tính ở đời này khi mình không có tiền thì ai mà thương mình đâu! Lúc ấy, em mới thấy có tiền là sự cần dùng ở đời, nếu mình muốn sống cho yên thân.

Mẹ em nằm nhà thương được mười ngày thì về nhà. Mẹ em đẻ con trai. Nhưng phần vì lao lực ngay từ lúc có thai, phần vì trải qua bao nhiêu sự đau buồn liên tiếp trong mấy năm và lại mới uất ức vì những sự dằn vặt trong nhà thương đẻ, về nhà được chín ngày thì mẹ em mất. Trời ơi! anh không thể tưởng tượng được sự bối rối, sự lo lắng của em lúc mẹ em nhắm mắt. Một xu không có, lấy tiền đâu mà ma chay? Lấy tiền đâu mà nuôi đứa em thơ? Hôm mẹ em mất lại đúng ngày hăm ba tháng chạp. Trong lúc người ta ăn tết tiễn ông Công lên chầu giời, em ngồi ôm thây mẹ khóc một mình, bên cạnh một đứa hài nhi. Những người hàng xóm cũng lo dùm cho em, nhưng không ai giúp đỡ em được một đồng chinh, em lo quá mà chỉ biết khóc, không còn biết xoay sỏa cách nào. Em còn nhớ hôm ấy, lúc chín giờ đêm, em đang ngồi khóc lóc bên thây mẹ em thì có tiếng người khẽ gọi tên em ngoài phên cửa. Em bàng hoàng quấn lại tóc, trong bụng cầu mong có một vị cứu tinh nào đến lúc này để giúp em. Và em mở phên cửa. Em sửng sốt. Người gọi tên em là ông cai kíp đã cho em vay hai đồng bạc. Mới thoạt nhìn thấy ông, em ngờ là ông lại đòi tiền. Nhưng ông để ngón tay lên mối xuỵt một cái khẽ rồi cầm tay em lôi ra ngoài. Trời tháng chạp tối như mực. Mà ở phố Bàng thì lại càng tối lắm. Ông ta ghé vào tai thì thầm. Em rùng mình. Em đoán rằng ông chưa biết cái tin mẹ em chết vì ông nói ở bên phố từ chiều bảy giờ mới về. Mà mẹ em mất lúc bẩy giờ. Anh có thể đoán được ông ta thì thầm với em cái gì không? Thật là kinh khủng! Ông ta bảo em… theo ông ta đi. Ông ta năn nỉ mời em đi… đến ông xếp. Em nhớ mãi lời ông ta nói: “Cô sẽ có nhiều tiền. Cô sẽ được lương nhiều hơn. Cô có thể có ngay một số tiền, sáng ngày mai. Cô thiệt cái gì mà còn ngần ngừ?” Thật là chó má? Em vẫn thường được nghe chị em thuật lại chị này, chị kia vì không bằng lòng nên bị đuổi... Em nghĩ ngay đến cảnh ngộ em. Nhưng làm như thế thì sao cho tiện?

Hậu phải ngừng lại, thở dài như để hắt ra cái uất ức mà sự thuật chuyện cũ vừa đè nặng trên ngực nàng. Rồi nàng nói tiếp:

- Em ngần ngừ mãi không đi. Ông cai nằn nì mãi không được liền dọa đuổi em. Anh tính thế có đau đớn không? Sau em liền bảo ông Cai rằng mẹ em mới mất chưa chôn cất… Tưởng nhờ thế mà ông ta thương, ai ngờ ông ta lại nhân đó mà bắt chẹt. Ông ta bảo em: “Thế cô lấy tiền ở đâu mà chôn cất bà cụ bây giờ? Cô phải hy sinh một tý vậy chứ. Ông xếp thích cô lắm cơ. Thôi, nên đi đi, cô.” Thật là dã man hết chỗ nói! Em không bao giờ có thể ngờ được sự chó đểu của người đời có thể đến thế được. Về sau này, lăn lóc trong cảnh giang hồ, em mới nhận thấy rằng sự chó đểu của người đời có thể tồi tệ gấp trăm gấp nghìn như thế. Lắm lúc nghĩ mà ghê tởm anh ạ, ghê tởm cho cái tâm địa của con người… Tình cảnh em lúc ấy thật là khó nghĩ quá. Cả cái tâm hồn em phản đối lời mời mọc của lão Cai mà cả cái cảnh ngộ của em lúc ấy thì ưng thuận. Trong một chớp nhoáng, em tưởng đã tìm được con đường có nhiều tiền bắt đầu từ đêm hôm ấy. Bị ông Cai thúc dữ quá, em liền bảo ông chờ em mấy phút để em vào nhà thu xếp. Mà thu xếp cái gì? Em phải nói thác ra như vậy để trở vào trong nhà tiện chỗ mà khóc cho cái số kiếp của em. Bước vào nhìn thây mẹ em nằm cứng đờ trên phản, em rùng mình. Em ôm lấy mẹ em, khóc không ra tiếng. Không có tiền khâm liệm, ngày mai thây mẹ em sẽ chương ra… Bao nhiêu sự lo lắng rồn đến làm em không biết nghĩ thế nào nữa. Đứa em nhỏ bỗng hét lên một tiếng. Có lẽ nó lạnh, phần vì thiếu chăn quấn, phần vì nằm trong một gian nhà ẩm thấp lại có tử khí. Em đến ôm nó vào lòng… Thì ở ngoài phên cửa, ông Cai cũng vừa đằng hắng có vẻ sốt ruột. Tâm thần em bàng hoàng. Nước mắt em cứ ứa ra rào rạt. Rồi không biết bấy giờ em nghĩ ra làm sao mà em lại lấy tã cuộn tròn đứa nhỏ lại, lấy gối đè lên cho nó được ấm. Xong em len lén lách cửa phên bước ra như tên ăn trộm. Lúc ấy em như người mê ngủ và tưởng mình đang đi lạc vào một chỗ không biết lối nào ra. Thế là em theo lão Cai đi… Đời em từ đêm ấy bắt đầu bước vào một cảnh mới, cái cảnh đau buồn em sống dằng dặc đến nay vừa vặn chín năm… Bây giờ lúc nào em nghĩ lại đến cái đêm hôm rùng rợn ấy là em ứa nước mắt.

- Về sau đứa em nhỏ ra sao?

- Được năm hôm sau khi chôn cất mẹ em, thì nó cũng chết theo.

- Tội nghiệp!

- Kể thì cũng tội nghiệp thật. Nhưng nếu nó sống thì cái đời nó còn tội nghiệp hơn nhiều!

Rứt lời, Hậu thở dài.

Tôi cũng thở dài. Tôi buồn cho cảnh ngộ đau đớn của người đàn bà khốn khổ… Rồi tôi bâng khuâng nghĩ đến sự trụy lạc của bao nhiêu người đàn bà khác. Chín mươi nhăm phần trăm các người gái đĩ điếm, hiện nay sống bên dìa xã hội, đều bắt đầu cuộc đời lấm láp ở những trường hợp na ná như của Hậu. Họ đói. Họ bị hãm vào cảnh túng quẫn quá độ. Giữa lúc ấy, có người – mà hạng người này bao giờ chẳng có? – đưa tay dắt họ cho họ cơm ăn, áo mặc và giải quyết cho họ cái bối rối đang rầy vò họ. Thì sao mà họ không theo người ấy – dù là bước xuống một đống bùn? Đột nhiên tôi nhớ đến câu nói của nhà văn Bernard Shaw mà tôi đã đọc được trong cuốn Guide de la femme intelligente . Câu ấy thế này: “Bắt buộc người đàn bà giữ gìn trinh tiết là một điều rất dễ. Nhưng bắt buộc như thế không còn hợp lý nữa, khi trinh tiết chỉ đưa đến sự chết đói và phần thưởng của tội lỗi lại là một giúp đỡ thiết cận về cơm áo” .

Và tôi khinh bỉ tất cả những người nào thường khinh bỉ các đàn bà đĩ điếm. Đói, người ta chỉ biết theo cái luân lý của kẻ đói. Không thể vin vào cái luân lý của kẻ no mà kết tội người ta được.

* * *

Hậu giót nước mời tôi uống. Bên ngoài, gió thổi vù vù. Tôi lấy gói thuốc mời nàng. Nàng từ chối:

- Trước kia, em vẫn hút. Nhưng từ khi em thấy ngực em yếu thì em thôi ngay.

- Hình như giờ chị ho có phải không?

- Vâng, em ho. Mà chỉ ho khan thôi. Hôm nọ em nhờ một người bác sĩ xem hộ thì hắn bảo em đau phổi. Em lo lắm. Mà anh tính sống cái đời chìm nổi đọa đầy như của chúng em thì tất nhiên phải thế, làm sao mà tránh được! Cũng như trăm nghìn chị khác, đời em sẽ kết liễu trong một số nhà thương thí, với bệnh lao. Em cũng liều!

- Sao chị không nghĩ thoát ly cuộc đời mưa gió của chị; quay về cái sống lương thiện có hơn không?

- Thoát ly! Em cũng muốn thoát ly lắm. Mà em có thể nói quả quyết với anh rằng tất cả những người như em đều mong mỏi thoát ly cuộc đời trụy lạc. Nhưng điều cần biết là có thể thoát ly được hay không. Anh tưởng quay về cái sống lương thiện dễ dàng lắm hay sao? Em đã thí nghiệm hai lần rồi. Mà cả hai lần đều hỏng cả.

Mấy tiếng ho làm Hậu phải ngừng nói. Tợp một hớp nước cho ướt giọng, nàng kể:

– Lần thứ nhất, em lấy chồng ở Hải phòng, sau hai năm hát xướng…