Chương 4 WILL
Tôi đưa tay dụi dụi đôi mắt đang chực díp lại, ấn vào một video khác, cái khay đựng trứng và thịt xông khói ăn dở nguội ngắt nằm lẻ loi trên mặt bàn bên cạnh. Tôi đã thức cả đêm xem các video của Stella, hết cái này tới cái khác. Kiểu như khung giờ chiếu phim đặc biệt của cô ấy vậy, kể cả khi nội dung chỉ xoay quanh căn bệnh u xơ nang phổi chán ngắt.
Nhìn lướt theo ô danh sách bên cạnh, tôi ấn vào video tiếp theo.
Cái này được quay từ năm ngoái, điều kiện ánh sáng thì tệ, tối đến mức không thể nào tối hơn được chỉ trừ chút ánh sáng phát ra từ đèn flash điện thoại. Trông giống một sự kiện gây quỹ, tổ chức ở một quán bar xập xệ. Có một cái banner treo ngang sân khấu đề chữ: “Cứu lấy hành tinh này - ủng hộ ngày trái đất.”
Ống kính hướng về một người đàn ông đang chơi cây guitar thùng, ngồi trên chiếc ghế đẩu đệm cho người hát là một cô gái tóc nâu và xoăn. Tôi nhận ra cả hai người họ nhờ mớ video mà tôi đã xem.
Là bố và chị của cô ấy - Abby.
Ống kính sau đó quay về hướng Stella, đang cười rất tươi, hàm răng trắng và đều y như những gì tôi đã tưởng tượng. Cô ấy còn trang điểm nữa, và vẻ ngoài ấy làm tôi cực kỳ ngạc nhiên. Nhưng không phải do lớp trang điểm mà là ở thần thái ấy. Cô ấy vui vẻ hơn, bình tĩnh hơn, không giống như con người mà tôi đã gặp.
Ngay cả ống thở ôxy cũng trở nên đẹp mắt với nụ cười tươi tắn như vậy.
“Bố và Abby! Cướp hết ánh đèn sân khấu! Nếu tôi mà chết trước tuổi hai mươi mốt, ít nhất tôi cũng từng được đi bar.”
Cô ấy lại dời ống kính sang một người phụ nữ với mái tóc nâu dài tương tự nhưng có chút đứng tuổi hơn trong bộ váy dài màu đỏ. Là mẹ cô ấy. “Mẹ ơi, chào mọi người đi nào.”
Người phụ nữ vẫy tay, nở một nụ cười thật tươi.
Có cô phục vụ bàn lướt qua và Stella vẫy tay: “A, vừa đúng lúc, cho mình một ly Bourbon với.”
“Không nhé!” Tôi nghe tiếng bà mẹ hô lên.
“À, có cố gắng...” Tôi bật cười, ánh đèn chiếu xuống rọi sáng gương mặt họ.
Bài hát kết thúc và Stella vỗ tay cuồng nhiệt, kiểu như fan cuồng ấy, rồi dời ống kính tới cô chị đang mỉm cười nhìn cô ấy trên sân khấu.
“À thì, Stella, cô em gái bé bỏng của tôi cũng có mặt ởđây, tối nay.” Cô ấy nói và chỉ về phía Stella. “Như thể cuộc chiến giành sự sống của con bé chưa đủ khốc liệt, giờ con bé sẽ cứu cả thế giới luôn! Lên đây, cho mọi người thấy khả năng của em nào, Stella!”
Giọng Stella vang lên qua loa, đầy vẻ choáng ngợp và bối rối. “Mọi người gài con đấy à?”
Ống kính lại hướng về mẹ cô ấy với gương mặt tươi cười. Yep, cậu đúng là bị gài đó - tôi nghĩ.
“Lên đi bé con, cứ để mẹ quay.” Mẹ cô ấy nói, và mọithứ mờ tịt đi khi Stella chuyển máy sang cho mẹ.
Tất cả mọi người đều hoan hô khi cô ấy lôi cái máy tạo ôxy lên sân khấu. Abby chạy lại giúp kéo cái máy lên qua mấy bậc thang và đẩy Stella lên chỗ ánh đèn. Stella đứng đó, hồi hộp chỉnh qua chỉnh lại cái ống thở khi bố cô ấy chuyển micro sang, trước khi quay sang đám đông và lí nhí, “À, ừm, đây là lần đầu tiên của mình. Trước mặt đám đông nữa. Nên là... đừng cười nhé!”
Và đương nhiên tất cả mọi người đều cười, kể cả Stella, dù tiếng cười của cô ấy đầy vẻ lo lắng.
Cô ấy quay đầu nhìn chị mình cầu cứu. Abby loáng thoáng nói gì đó mà cái micro cũng khó khăn lắm mới bắt được.
Bushel and a peck 8* .
Hả, đó có nghĩa gì vậy?
Nhưng dù sao nó cũng có tác dụng, và vẻ hồi hộp bỗng chốc tan khỏi gương mặt Stella một cách thần kỳ.
Bố cô ấy bắt đầu dạo nhạc và tôi ngân nga theo giai điệu trước cả khi nhận ra họ chuẩn bị hát bài nào. Khán giả cũng lắc lư theo, sang trái rồi sang phải và bàn chân giẫm theo nhịp điệu.
“Now I’ve heard that there was a secret chord
That David played, and pleased the Lord,
But you don’t really care for music, do you?” 9*
“Tôi đã từng nghe về bản hòa âm không ai hay,
Mà chàng David đã chơi, và Chúa cũng phải lay động,
Nhưng em đâu có thực sự quan tâm đến âm nhạc, phải không em?”
Wow. Cả hai hát đều hay cả.
Cô chị thì bùng cháy với chất giọng khỏe và máu lửa, trong khi Stella thì nhẹ nhàng, êm ái và ngọt ngào.
Tôi ấn nút tạm dừng khi ống kính đến gần gương mặt Stella, từng đường nét của cô ấy trở nên sống động dưới ánh đèn sân khấu. Khi ở đó, trên sân khấu, bên chị và bố, tôi nhìn thấy một Stella vô lo vô nghĩ. Một nụ cười với rất nhiều hạnh phúc. Điều gì đã khiến cô ấy của ngày hôm qua... cáu kỉnh đến như vậy, tôi tự hỏi.
Tôi vuốt tóc, nghĩ đến mái tóc dài của cô ấy, xương quai xanh của cô ấy, đôi mắt nâu sáng lên mỗi khi cô ấy cười. Adrenaline làm cho gương mặt cô ấy thêm chút màu sắc tươi tắn, một chút màu hồng trên gò má.
Thật lòng mà nói, cô ấy rất xinh.
Cực kỳ xinh là đằng khác.
Tôi nhìn ra hướng khác - chờ đã. Không thể nào. Tôi kéo trỏ chuột qua con số hiển thị.
“Hơn một trăm nghìn lượt xem? Đùa hả trời?”
Thật không thể tin nổi!
Chưa đầy một tiếng sau, giấc ngủ sau khi làm cú đêm của tôi bị gián đoạn bởi tiếng còi báo động inh ỏi dưới hành lang và sau đó là bác sĩ Hamid. Chán ngắt, tôi ngáp dài trong khi nhìn trân trối ra cái sân trống trơn, cơn gió lạnh và dự báo sẽ có tuyết rơi đã xua hết mọi người vào bên trong tòa nhà rồi.
Tuyết. Ít nhất còn có cái gì đó đáng để trông mong.
Tôi ngả đầu lên tấm kính cửa sổ lạnh ngắt, có chút háo hức nghĩ đến viễn cảnh cả thế giới bên ngoài phủ trong tuyết trắng. Tôi chưa từng chạm vào tuyết kể từ lần đầu tiên mẹ gửi tôi tới bệnh viện tuyến đầu để làm chuột bạch thử thuốc chống B. cepacia. Ở tận Thụy Điển và nghe đâu họ đã hoàn thiện loại thuốc đó trong cả nửa thập kỷ rồi. Nhưng rõ ràng thuốc chưa được “hoàn thiện” như họ nghĩ, bởi vì tôi đến và đi trong vẻn vẹn có hai tuần.
Đến giờ phút này, tôi chẳng còn nhớ được gì nhiều về lần đó cả. Tất cả những gì tôi có thể nhớ được từ hầu hết những chuyến nghỉ dưỡng ở bệnh viện này là màu trắng. Ga giường trắng, tường trắng, những bóng áo bờ lu trắng lướt qua vội vã. Nhưng có những màu trắng tuyệt vời hơn, những màu trắng giống vậy, nhưng đẹp đẽ và sinh động hơn - màu sắc của từng đống, từng đống tuyết rơi xuống trong suốt thời gian tôi ở đó. Thú thật. Tôi đã mơ ước về những chuyến trượt tuyết trên dãy Anpơ, mặc kệ cái chức năng phổi này tồi tệ đến thế nào. Nhưng thứ tuyết duy nhất tôi có thể chạm tới là tuyết đọng trên nóc chiếc xe Mercedes đi thuê của mẹ.
“Will,” giọng mẹ tôi vang lên nghiêm nghị, lạnh lùng cắt đứt chút mộng mơ của tôi về thứ bột trắng sắp phủ xuống thế gian. “Con có nghe không đấy?”
Đùa hả trời?
Tôi quay đầu lại và nhìn mẹ với bác sĩ Hamid, gật gù như con búp bê trên ô tô dù thực ra tôi chẳng nghe lọt được chữ nào suốt từ nãy tới giờ. Họ đang xem kết quả xét nghiệm của tôi sau đợt trị liệu đầu tiên từ vài hôm trước, và đương nhiên, như mọi khi, chẳng có cái quái gì thay đổi cả.
“Chúng ta cần phải kiên nhẫn.” Bác sĩ Hamid nói. “Giai đoạn đầu tiên thử nghiệm trên người chỉ vừa mới được bắt đầu mười tám tháng trước.” Tôi liếc sang phía mẹ, nhìn thấy mẹ gật đầu hào hứng, kiểu đầu Bob với mái tóc vàng hoe nảy lên nảy xuống theo nhịp lời bác sĩ.
Tôi không biết mẹ đã nhờ vả bao nhiêu mối quan hệ, bao nhiêu tiền bà đã ném qua cửa sổ để nhét tôi vào chốn này.
“Chúng tôi đang theo dõi một cách sát sao. Nhưng cũng cần sự giúp đỡ từ Will nữa. Cậu bé cần hạn chế những biến số có thể xảy ra đến mức thấp nhất.”
Cô ấy nhìn sang tôi, gương mặt rõ là nghiêm trọng. “Will, rủi ro bị nhiễm trùng chéo lúc này cao hơn bao giờ hết, nên...”
Tôi ngắt lời. “Đừng ho vào mặt bệnh nhân khác. Cháu biết rồi.”
Cặp lông mày đen sì của cô ấy nhíu chặt lại. “Đừng lại đủ gần đến mức có thể chạm vào nhau nữa, vì sự an toàn của họ, và của cháu.”
Tôi giơ tay lên đầu hàng, nhắc lại câu nói đã gần như trở thành khẩu hiệu “luôn cách nhau sáu bước”.
Mẹ gật đầu, “Đúng rồi đấy.”
“Những gì trong cơ thể con là khuẩn B. cepacia, và nó làm cho cuộc nói chuyện này trở nên vô nghĩa và ngớ ngẩn.” Thật sự, điều đó sẽ còn lâu mới thay đổi được.
“Không có gì là không thể cả!” Bác sĩ Hamid nói với giọng tràn đầy nhiệt huyết và mẹ tôi gật đầu như gà mổ thóc, “Mẹ tin tưởng và con cũng nên thế, hiểu không?”
Tôi cố nở một nụ cười và giơ ngón cái lên, trước khi xoay ngược chỉ xuống đất và để nụ cười giả tạo đó trượt khỏi mặt mình. Vớ vẩn hết sức.
Bác sĩ Hamid hắng giọng, nhìn sang mẹ tôi. “Ừm, vậy tôi để hai mẹ con lại với nhau nhé.”
“Cảm ơn cô, bác sĩ Hamid.” Mẹ tôi nói, nhiệt tình bắt tay cô ấy như thể bà vừa ký được hợp đồng của lão khách hàng quái thai nhất quả đất này vậy.
Bác sĩ Hamid quay lại cười một lần cuối cùng trước khi rời khỏi phòng. Mẹ tôi ngay lập tức quay lại, đôi mắt xanh nhìn xoáy vào tôi, giọng hậm hực nặng nề, “Mẹ phải tốn rất nhiều công sức để đưa con vào chương trình này đấy Will.”
Nếu như “nỗ lực” ở đây có nghĩa là ký lên tờ séc ghi số tiền đủ để cho cả một làng trẻ em nghèo đi học thì chắc chắn là mẹ đã đặt rất nhiều nỗ lực vào đây chỉ để tôi trở thành một con chuột bạch thí nghiệm.
“Vậy mẹ muốn gì nữa đây? Một lời cảm ơn, vì lại một lần nữa nhét con vào một cái bệnh viện khác, lãng phí thêm chút thời gian ít ỏi mà con có?” Tôi đứng lên, đi tới trước mặt bà. “Tuần sau, chỉ tuần sau thôi, con sẽ lên mười tám, trưởng thành về mặt pháp lý. Và mẹ sẽ không thể kiểm soát đời con thêm một giây phút nào nữa.”
Trong một giây phút, tôi thấy bà chùn lại, sau đó nheo mắt nhìn tôi. Mẹ với lấy cái áo khoác hiệu Prada mới coóng trên chiếc ghế cạnh cửa, trùm nó lên và liếc nhìn tôi. “Mẹ sẽ gặp lại con vào thứ Bảy.”
Tôi đứng tựa vào cửa, nhìn bóng lưng bà đi, guốc cao gót gõ lộp cộp xuống sàn. Mẹ đứng lại ở quầy trực y tá, nơi Barb đang đứng lật lật giở giở một mớ tài liệu.
“Barb phải không? Làm ơn ghi lại số của tôi”, tôi nghe thấy tiếng mẹ nói trong lúc bà mở túi, lấy ra chiếc ví. “Nếu như Cevaflomalin không có tác dụng, Will sẽ... hơi khó hợp tác đấy.”
Trong khi Barb lặng thinh, bà lôi ra tấm danh thiếp từ trong ví. “Thằng bé đã thất vọng nhiều lần rồi, và nó nghĩ lần này cũng không ngoại lệ. Nếu nó không nghe lời, hãy gọi cho tôi, nhé?”
Bà đặt cái danh thiếp lên trên mặt quầy trước khi quẳng lên đó một tờ 100 đô như thể đây là một nhà hàng sang chảnh nào đó mà tôi là một cái bàn ăn lộn xộn cần dọn dẹp vậy. Hoàn toàn cạn lời luôn.
Barb nhìn chằm chằm vào tờ tiền, nhướng mày nhìn mẹ tôi.
“Điều đó thật là, thô lỗ. Tôi xin lỗi, tôi đã nhiều lần tới...”
Giọng bà nhỏ dần và tôi thấy Barb vơ lấy tấm danh thiếp và tờ tiền khỏi quầy, nhìn mẹ tôi bằng ánh mắt quyết liệt y như lúc chị bắt tôi uống thuốc. “Đừng lo lắng, cậu ấy sẽ được chăm sóc cẩn thận.” Chị ấn tờ 100 đô vào lại tay mẹ tôi, nhét tấm danh thiếp vào túi áo, nhìn qua vai bà để bắt lấy cái nhìn của tôi.
Tôi vội cúi xuống trốn về phòng, đóng chặt cửa sau lưng và rụt cổ xuống cổ áo sơ mi dựng thẳng. Tôi bước đến bên cửa sổ, rồi lại bước về giường, rồi lại bước đến cửa sổ, mở toang rèm cửa khi bốn bức tường trở nên quá mức bí bách và ngột ngạt.
Tôi cần ra ngoài, tôi cần hít thở, hít thở không khí thật sự chứ không phải cái thứ nồng nặc mùi sát trùng này.
Tôi mở tủ quần áo, vớ lấy cái hoodie gần nhất, mặc vào và ngó ra chỗ quầy trực y tá để xem có ai không.
Barb và mẹ đã đi, nhưng Julie đang nghe điện thoại sauquầy - vật cản duy nhất giữa tôi và cánh cửa thoát hiểm dẫn đến cầu thang lên tầng thượng.
Tôi nhẹ nhàng đóng cửa, rón rén bước xuống cầu thang, cố gắng cúi thấp hơn mặt quầy, nhưng mà một anh chàng cao mét tám cố gắng cúi thấp để lẻn ra ngoài thì không khác gì bịt tai trộm chuông cả, Julie ngẩng đầu lên nhìn tôi và tôi ngay lập tức ép sát vào tường giả vờ như đang ngụy trang bản thân. Mắt chị nheo lại nhìn tôi khi kéo ống nói điện thoại ra xa khỏi miệng. “Em nghĩ mình đang trốn đi đâu thế hả?”
Tôi giơ hai ngón tay lên ra dấu đi bộ.
Chị ấy lắc đầu, biết rằng tôi đang bị cấm túc tại phạm vi tầng điều trị này kể từ khi tôi ngủ gật cạnh cái máy bán hàng tự động ở tòa nhà bên cạnh và làm cả bệnh viện cuống cuồng đi tìm hồi tuần trước. Tôi chắp hai tay lại, làm động tác cầu xin hy vọng chị sẽ ngửi thấy mùi tuyệt vọng đang bốc ra từ tâm hồn tôi và đổi ý.
Ban đầu thì chẳng có gì cả. Mặt chị ấy vẫn nghiêm khắc, cái nhìn vẫn chăm chú. Rồi cuối cùng cũng đảo mắt, quăng cho tôi cái khẩu trang trước khi vẫy tay thả tôi về với tự do.
Cảm ơn thánh thần. Tôi cần trốn ra khỏi cái địa ngục màu trắng này hơn mọi thứ trên đời.
Tôi nháy mắt với chị ấy. Ít nhất thì chị ấy còn có chút “lương tâm”.
Tôi rời khỏi khu CF, đẩy cánh cửa nặng trịch ra cầu thang và nhảy hai bậc một trên mặt bê tông dù cho hai lá phổi đau như phải bỏng khi mới chỉ leo được một tầng. Mặc kệ cơn ho, tôi túm lấy lan can kim loại để kéo mình lên, qua tầng thứ tư, thứ năm, rồi thứ sáu và cuối cùng là cánh cửa to đùng với một tờ cảnh báo dán bên trên. “Cửa thoát hiểm khẩn cấp. Báo động sẽ kêu khi cửa mở.”
Tôi rút ví ra khỏi túi quần sau, lấy ra một tờ đô la gập chặt thành cục tôi luôn giữ đề phòng những lúc như thế này. Tôi với lên và nhét cục tiền đó vào công tắc báo động trên khung cửa để nó không đổ chuông, sau đó mở hé cửa và lẻn ra ngoài sân thượng.
Sau đó tôi cúi xuống đặt ví chèn vào giữa cửa và bức tường để nó không đóng lại khi tôi đang ở ngoài, bài học xương máu học được từ kỷ niệm không mấy vui vẻ lần trước.
Mẹ tôi chắc sẽ lên cơn đau tim mất khi nhìn thấy tôi lấy cái ví Louis Vuitton mẹ tặng mấy tháng trước ra làm cái chặn cửa, nhưng mà ai lại đi tặng cái ví hàng hiệu cho một đứa chẳng bao giờ có thể đi đâu ngoài căng tin bệnh viện chứ.
Ít ra thì được làm cái chặn cửa còn có chút cống hiến cho cuộc đời.
Tôi đứng dậy, hít một hơi thật sâu và ho sù sụ ngay khi luồng khí lạnh căm của mùa đông tràn qua buồng phổi. Cảm giác thật tuyệt khi được ở bên ngoài, thay vì bị giam trong bốn bức tường trắng toát.
Tôi vươn người, nhìn lên bầu trời tái nhợt, những bông tuyết được dự báo trước cuối cùng cũng nhè nhẹ trôi theo gió đáp xuống gò má và tóc tôi. Tôi từ từ bước ra bờ tường và ngồi xuống mặt đá lạnh băng, bàn chân đung đưa trong không trung. Tôi thở ra một hơi dài khoan khoái, cảm giác như mình đã phải nhịn thở từ hai tuần trước kể từ lúc đến đây rồi.
Từ đây nhìn xuống, mọi thứ đều thật xinh đẹp.
Bất kể đến bệnh viện nào đi nữa, tôi luôn tìm được đường lên sân thượng.
Tôi đã từng thấy diễu hành ở Brazil, người ta nhìn như những con kiến sặc sỡ đủ màu khi nhảy múa qua từng con phố một cách hoang dại và tự do. Tôi đã thấy nước Pháp say ngủ, nhìn tháp Eiffel tỏa sáng lung linh ở phía xa, nhìn những căn hộ lần lượt tắt đèn và vầng trăng lười nhác leo lên nền trời đêm. Tôi đã từng thấy những bãi biển ở California, nhìn mặt nước trải dài hàng dặm ngút ngàn tầm mắt, nhìn người người đắm mình trong từng con sóng mỗi sớm mai.
Mỗi nơi tôi qua đều đặc biệt, mỗi nơi đều là độc nhất vô nhị, chỉ có bệnh viện nơi tôi đứng ngắm nhìn nó từ bên rìa cuộc sống là giống nhau.
Nơi này chẳng phải chốn phồn hoa, nhưng nó có cảm giác như khu láng giềng thân thuộc. Đáng lẽ ra nó phải làm tôi cảm thấy thoải mái hơn, nhưng thay vì thế nó càng khiến lòng tôi nặng trĩu. Có lẽ bởi vì lần đầu tiên trong suốt tám tháng qua, tôi chỉ cách nhà mình có vài giờ lái xe thôi. Nhà. Nơi có Hope và Jason. Nơi có đám bạn cùng lớp đang vùi đầu vào ôn thi cuối kỳ, mong đỗ vào mấy trường tốp đầu Ivy League mà bố mẹ tụi nó mong muốn. Nơi phòng ngủ của tôi, cuộc sống thật sự của tôi, giờ nằm ở đó, trống rỗng và vô nghĩa.
Tôi nhìn đèn pha ô tô lướt qua con đường bên bệnh viện, ánh đèn trang trí dịp Noel lấp lánh phía xa, tiếng đám trẻ cười đùa vọng lại khi chơi trượt băng trên cái ao nhỏ đóng băng trong cái công viên cũng chẳng to hơn là mấy.
Chỉ đơn giản vậy thôi. Một chút tự do khiến người ta bồn chồn, bứt rứt.
Tôi nhớ hồi tôi và Jason cũng giống như những đứa trẻ kia, nhớ lúc cùng nhau trượt quanh cái ao đóng băng ở cuối phố nhà nó, cơn lạnh len lỏi sâu đến tận xương khi chúng tôi chơi đùa. Cả hai sẽ ở ngoài đó hàng giờ, thi nhau xem đứa nào có thể trượt xa hơn trước khi ngã dập mông, vo tuyết lại thành viên và ném vào nhau hay nằm xuống làm thiên thần tuyết.
Chúng tôi tận dụng đến từng tích tắc cho đến khi mẹ tôi xuất hiện và kéo tôi vào lại trong nhà.
Ánh đèn chiếu xuống sân, tôi liếc xuống và nhìn thấy một cô gái ngồi trong phòng ở tầng ba, gõ gõ gì đó trên máy tính, trên tai là cái tai nghe to bự trong khi cô ấy tập trung vào cái gì đó trên màn hình.
Từ từ đã.
Là Stella.
Cơn gió lạnh nghịch ngợm làm tóc tôi rối tung, tôi trùm mũ lên, chăm chú nhìn gương mặt cô ấy.
Rốt cuộc cô ấy đang làm gì vậy nhỉ? Ngồi tự kỷ trong phòng vào cuối tuần sao.
Cô ấy thật sự khác biệt quá nhiều so với những đoạn video tôi đã xem. Tôi tự hỏi điều gì đã thay đổi trong cô gái ấy. Có phải là do tất cả những thứ này không? Những thứ chết tiệt diễn ra trong bệnh viện khiến lòng ta mỏi mệt?
Thuốc thang rồi điều trị rồi những bức tường trắng toát cầm tù con người ta và làm ta chết ngạt từ từ từng chút, từng chút một, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác.
Tôi đứng lên, vắt vẻo trên bờ tường và nhìn xuống sân từ độ cao bảy tầng lầu, trong thoáng chốc tưởng tượng ra cảm giác rơi tự do, không trọng lượng, cảm giác trút bỏ mọi gánh nặng nếu tôi nhảy xuống. Tôi thấy Stella nhìn lên qua tấm kính và ánh mắt chúng tôi chạm nhau ngay khi một cơn gió táp vào mặt làm tôi sặc. Tôi cố gắng hít thở, nhưng hai lá phổi vô dụng hầu như chẳng hít được chút ôxy nào cả.
Tôi há miệng đớp lấy không khí và bắt đầu ho. Ho kịch liệt.
Lồng ngực tôi như gào thét khi mỗi tiếng ho kéo không khí ra khỏi phổi tôi, nước mắt tôi bắt đầu trào ra.
Cuối cùng, tôi cũng dần kìm lại được nhưng...
Đầu tôi nhẹ bẫng, mắt bắt đầu mờ đi và tối đen.
Tôi lảo đảo, hết hồn, lắc lắc đầu cố gắng tập trung nhìn về hướng cánh cửa màu đỏ, hay mặt đất, hay bất cứ thứ gì. Tôi nhìn chằm chằm vào bàn tay mình, tập trung để xua đi cơn hoa mắt, cả thế giới dần dần trở nên rõ ràng, và tôi nhận ra rằng chỉ chưa tới một inch nữa thôi là tôi sẽ thật sự rơi xuống dưới.
⚝ ✽ ⚝
8* Tên ca khúc nổi tiếng của Frank Loesser ra mắt năm 1950.
9* Lời ca khúc Hallelujah của Frank Loesser: