Chương 9 STELLA
Bác sĩ Hamid cau mày nhìn tôi vén áo lên, hàng lông mày như xoắn vào nhau khi thấy chỗ ống xông bị nhiễm trùng. Vùng da xung quanh đỏ ửng và sưng tấy, rõ ràng càng ngày càng nhiễm trùng nặng hơn.
Khi tôi tỉnh dậy vào sáng hôm nay, bên trong cái ống đầy những chất dịch mà có Chúa mới biết là cái gì. Tôi đã nặn ra cả đống chất nhầy nâu nâu vàng vàng trước khi cô ấy tới.
Sau khoảng một phút nghiên cứu, cuối cùng cô ấy cũng đứng lên, thở ra một hơi. “Trong một hai ngày tới, em hãy thử Bactroban 12* xem thế nào. Có lẽ nó sẽ có tác dụng đấy.”
Tôi kéo áo xuống, nhìn cô ấy một cách hoài nghi. Tôi đã nằm ở bệnh viện này một tuần rồi, và dù cơn sốt đã lui, vết nhiễm trùng này thì lại càng ngày càng tệ. Cô ấy vươn tay ra nắm lấy tay tôi và siết nhẹ an ủi. Dù sao tôi cũngmong là cô ấy đúng. Bởi vì nếu không, tôi chắc chắn sẽ phải phẫu thuật, và điều đó chắc chắn không thể nào làm cho bố mẹ tôi an tâm được.
Điện thoại tôi rung lên, tôi cứ tưởng Will nhắn tin nhưng thay vào đó là tin nhắn từ mẹ.
Xuống căng tin ăn trưa nhé? Hẹn con mười lăm phút nữa.
Mười lăm, có nghĩa là mẹ đang trên đường đến rồi. Tôi đã lần lữa suốt cả tuần rồi, nói rằng nếu mà mẹ cứ đều đặn như mọi khi thì mọi thứ sẽ chán lắm, nhưng lần này chắc chắn mẹ không chấp nhận chữ không rồi. Tôi nhắn lại một chữ vâng và thở dài, đứng lên toan thay đồ. “Cảm ơn, bác sĩ Hamid.”
Cô ấy rời đi với nụ cười trên môi. “Nhớ báo cho cô thường xuyên nhé, Stella. Barb cũng sẽ luôn để mắt đến em.”
Tôi lôi trong tủ ra chiếc quần bó với áo len, viết vào sổ tay tên thuốc Bactroban để lát nữa cập nhật lên ứng dụng, sau đó đi ra thang máy sang bên tòa nhà 2. Lúc tôi đến nơi, mẹ đã đứng chờ sẵn ở bên ngoài căng tin rồi, mái tóc rối bời buộc tạm thành đuôi ngựa, và dưới mắt bà là hai quầng thâm trông rõ mồn một.
Trông mẹ còn gầy hơn tôi nữa.
Tôi ôm mẹ một cái thật chặt, cố gắng không rên lên khi mẹ cọ phải chỗ đặt ống xông của tôi. “Con có khỏe không? Mọi chuyện có ổn không?” Mẹ hỏi, và đôi mắt nhìn tôi từ đầu xuống chân.
Tôi gật đầu. “Tuyệt ạ, trị liệu nhẹ nhàng như gió thoảng, con hít thở dễ dàng hơn nhiều rồi. Nhưng còn mẹ thì sao? Mọi chuyện có ổn không?” Tôi hỏi, chăm chú nhìn khuôn mặt bà.
Mẹ gật đầu, trên miệng mở một nụ cười nhưng ánh mắt chẳng có chút gì vui vẻ cả. “Ừ, mọi việc vẫn ổn.”
Chúng tôi xếp cuối một hàng người dài dằng dặc, và lấy những món ăn quen thuộc, món salad Caesar cho mẹ trong khi tôi gọi bánh kẹp burger và sữa lắc, cộng thêm một đĩa khoai tây đầy ụ ăn chung.
Chúng tôi may mắn chiếm được một chỗ ngồi trong góc bên cạnh cửa kính to và rộng, một khoảng cách thoải mái, cách xa tất cả những người khác. Tôi nhìn ra ngoài trong lúc ăn để thấy tuyết vẫn nhè nhẹ rơi, phủ lên mặt đất một lớp chăn trắng xốp ngày càng dày thêm. Tôi mong mẹ sẽ kịp rời đi trước khi tuyết rơi quá dày.
Tôi đã giải quyết xong nguyên cái bánh và ba phần tư chỗ khoai tây trong thời gian chỉ đủ để mẹ tôi ăn ba miếng salad... Tôi nhìn mẹ chọc tới chọc lui đống rau, gương mặt lộ rõ vẻ mệt mỏi. Trông mẹ như thể đã dành cả đêm để tìm kiếm thông tin trên mạng, lại một lần nữa, cho tới khi trời sáng, hết trang này qua trang khác, hết bài này đến bài khác về phẫu thuật ghép phổi.
Bố tôi từng là người duy nhất trên thế gian này có thể giữ cho bà ấy bình tĩnh, kéo bà ấy ra khỏi cái vòng xoáy lo âu ấy chỉ với một ánh nhìn, an ủi tâm hồn bà ấy theo một cách độc nhất vô nhị.
“Ly dị không phải một món dễ xơi, và nó chắc chắn không hợp với mẹ đâu.”
Mẹ nhìn tôi, ngạc nhiên. “Con nói gì vậy?”
“Mẹ thì tiều tụy, bố thì gầy rạc, trông hai người còn tàn tạ hơn bệnh nhân là con đây này.”
Mẹ không hiểu sao, bố mẹ cần nhau! Đó là điều tôi muốn nói.
Mẹ cười, vớ lầy cốc sữa lắc của tôi.
“Thôiiiiiiii...” Tôi la lên khi thấy mẹ phồng mồm trợn má hút một ngụm to đùng. Tôi trườn qua bàn, cố gắng cướp lại cái ly nhưng cái nắp bị bật ra và cả hai mẹ con ướt nhẹp. Đã rất lâu rồi, hai mẹ con mới bật cười sảng khoái như vậy.
Mẹ lấy ra cả chồng giấy ăn, nhẹ nhàng lau sữa khỏi mặt tôi, mắt mẹ bỗng nhiên ầng ậng nước. Tôi túm lấy tay mẹ, hỏi.
“Mẹ ơi, sao thế?”
“Mẹ nhìn con, và mẹ nghĩ... người ta nói rằng con sẽ không qu...” Mẹ lắc đầu, đưa cả hai tay vuốt ve mặt tôi, hai hàng nước mắt chảy dài trên má. “Nhưng con mẹ đã ở đây. Con mẹ đã lớn rồi, lớn lên thật xinh đẹp. Con chứng minh rằng họ đã nhầm, hết lần này tới lần khác.”
Mẹ rút ra một tờ giấy ăn, lau nước mắt. “Mẹ không biết mình sẽ phải sống thế nào nếu như không có con.”
Trong lòng tôi bỗng dưng lạnh ngắt. Mẹ không biết mình sẽ phải sống thế nào nếu như không có con.
Tôi khó nhọc nuốt xuống, và siết tay mẹ an ủi, nhưng tâm trí tôi lại nghĩ về cái ống xông, vết nhiễm trùng, ứng dụng của tôi, lịch trình uống thuốc và con số 35% đè nặng trong lồng ngực nữa. Chỉ khi nào tôi được ghép phổi mới thì con số đó mới có thể nâng lên. Nhưng từ giờ cho đến lúc đó, chỉ có tôi, mình tôi mới có thể giúp mình sống sót. Và tôi phải sống. Bằng mọi giá.
Bởi vì tôi biết rằng, chỉ khi tôi còn sống, hai người họ mới có động lực mà sống tiếp.
Sau khi mẹ về, tôi bước thẳng đến phòng tập với Will, hy vọng làm cho phổi mình khỏe thêm chút nào hay chút ấy. Tôi suýt đã kêu anh ta đừng tới để tôi có thể một mình sắp xếp lại mớ suy nghĩ hỗn độn trong đầu, nhưng tôi biết chắc chắn anh ta không bước vào chỗ này từ lâu lắm rồi. Hơn nữa, nhìn thấy bố mẹ trong tình trạng tệ hại như vậy, mối lo lắng trong lòng tôi càng lớn hơn, không thể tập trung làm gì được. Ít nhất thì việc kéo Will ra phòng tập cũng là chuyện có thể giải quyết ngay, luôn và không cần não.
Tôi bắt đầu đạp trên cái xe đạp cố định. Tôi không ngại đi tập kể từ khi chỗ này trở thành chốn đẹp nhất cả bệnh viện. Nó mới được nâng cấp ba năm trước, tăng gấp bốn lần diện tích trước đó, lắp cả sàn bóng rổ, bể bơi nước mặn, một đống dụng cụ luyện tập mới toanh cùng vài dãy tạ. Thậm chí có cả một phòng riêng để tập yoga với thiền nữa, với một cái cửa sổ lớn nhìn ra ngoài sân. Trong khi ngày xưa thì nó chỉ là một cái phòng bé xíu cáu bẩn với đôi ba cục tạ không thành đôi và vài cái máy tập rỉ sét như được mua từ hồi con người mới phát minh ra bánh xe ấy.
Tôi ngó sang và thấy Will đang bám lấy cái máy đi bộ, cố gắng để không bị trượt ngã, thở hồng hộc. Bình ôxy cầm tay treo lủng lẳng sau lưng theo đúng kiểu phong cách luyện tập thường thấy của đám bệnh nhân bọn tôi.
Tôi gần như kéo anh ta đến đây theo nghĩa đen, và phải thú thực là nhìn anh chàng cố gắng để tỏ ra bảnh trong lúc thở không ra hơi như này vui chết đi được. Anh ta còn không dùng được cái mác “Bị cấm túc” hay “Bị cấm rời khỏi tầng điều trị” ra nữa vì Barb hôm nay trực đêm, và Julie thì còn hơn cả hào hứng nếu Will làm gì đó có thể cải thiện sức khỏe nói chung.
“Này, bao giờ thì cái thỏa thuận nho nhỏ của chúng ta mới có lợi cho cả hai bên đây?” Cuối cùng anh ta cũng ngẩng đầu lên được khỏi máy chạy bộ, liếc nhìn quanh phòng trong khi tôi vẫn ra sức đạp. Anh ta dần dần giảm tốc, nói ngắt quãng trong lúc thở. “Cậu bảo gì tôi làm nấy rồi đấy nhé, thế bao giờ mới tới lượt của tôi?”
“Tôi đang bẩn chết đi được, đầy mồ hôi.” Tôi nói trong lúc từng giọt mồ hôi chảy xuống má.
Will nện cái rầm xuống nút dừng trên máy, nó dừng lại đột ngột và anh ta quay phắt sang nhìn thẳng vào tôi, tay đưa lên chỉnh lại ống thở trên mũi khi cố gắng lấy hơi. “Còn tóc tôi thì bẩn thỉu, thân hình thì mệt mỏi, cái xe thuốc thì...”
“Anh muốn vẽ tôi mồ hôi mồ kê nhễ nhại hả? Được rồi! Tôi sẽ nhễ nhại hơn nữa cho anh xem!” Và tôi bắt đầu đạp xe như thể ma đuổi đằng sau vậy, nhịp tim như nhảy lên nhanh gấp bốn lần. Cảm giác nóng ran bắt đầu lan khắp phổi và tôi ho, ôxy phun xì xì ra từ ống thở khi tôi cố hít vào. Cuối cùng cơn ho trở nên quá dữ dội và tôi đành đạp chậm lại để lấy hơi.
Anh ta lắc đầu. Tôi ngay lập tức cúi đầu nhìn xuống dưới con số đỏ lòm lập lòe trên cái xe, cố gắng lờ đi màu đỏ đang dần dần hiện ra trên mặt.
Sau đó, cả hai đứa tôi lết thân xác mệt mỏi tới phòng yoga trống không, cách nhau đủ sáu bước. Tôi ngồi xuống tựa lưng vào cửa kính, lớp kính mát lạnh nhờ lớp tuyết trắng xóa bên ngoài choán hết tầm mắt.
“Có cần tạo dáng gì không nào?” Tôi hỏi, bối rối đưa tay lên vuốt lại tóc. Tôi uốn éo vặn vẹo thành một cái dáng khó đỡ làm anh ta bật cười.
Anh ta lấy quyển sổ và cái bút chì than, “Thôi cứ như bình thường đi.”
Ồ, tốt, tuyệt vời. Đơn giản như đan rổ.
Tôi nhìn Will, nhìn đôi mắt màu đại dương tập trung vào tờ giấy, hàng lông mày đen sậm nhíu lại. Anh ta ngẩng đầu lên, bắt gặp ánh mắt tôi làm tôi vội vã quay đi, lôi quyển sổ tay trong túi ra và lật đến trang của ngày hôm nay.
“Gì thế?” Will hỏi, đuôi bút chỉ chỉ vào quyển sổ tôi đang cầm.
“Danh sách việc cần làm,” tôi giải thích, gạch ngang một đường ở số 12: Tập thể dục và ghi thêm ở dưới cùng một dòng nữa là làm mẫu cho Will vẽ.
“Danh sách ư?” Anh ta hỏi, “có vẻ hơi bị cổ lỗ sĩ cho một ai đó lập trình được cả ứng dụng điện thoại nhỉ?”
“Ừ, nhưng mà ứng dụng thì làm sao mang lại được cảm giác làm chuyện này chứ,” tôi lấy bút chì ra và vạch ngang một đường qua dòng làm mẫu cho Will vẽ.
Anh ta giả vờ mếu máo. “Ôi tôi tổn thương quá, hu hu.”
Tôi rụt cổ lại, giấu mặt đi, nhưng anh ta đã kịp nhìn thấy nụ cười tôi cố giấu rồi.
“Ờ, vậy thì trên danh sách còn có những gì nữa nào?” Anh ta hỏi, nhìn xuống bức vẽ rồi lại nhìn lên tôi trước khi bắt đầu đổ bóng cho bức vẽ.
“Cái nào cơ?” Tôi hỏi “Danh sách lớn hay là danh sách hằng ngày?”
Will cười trầm ấm, lắc lắc đầu. “Ờ, đương nhiên cậu sẽ có hai cái rồi, sao tôi không nghĩ ra từ đầu nhỉ?”
“Ừ thì một cái ngắn hạn, một cái dài hạn! Hợp lý thế còn gì?” Tôi vặc lại, nhưng chỉ làm anh ta cười thêm.
“Vậy thì cái danh sách tổng thể trước đi xem nào.”
Tôi lật lật qua mấy tờ giấy, giở trang có danh sách tổng, cũng lâu rồi tôi không xem lại trang này. Nó đầy chữ với nhiều màu mực khác nhau, đỏ có, xanh có, đen có mà nhũ lấp lánh cũng có luôn, từ hồi tôi còn xài bút nhũ năm lớp Sáu.
“Để xem nào,” tôi rà ngón tay từ trên xuống. “Tình nguyện viên cho một cuộc vận động bầu cử. Đã xong.”
Tôi gạch một đường qua nó.
“Học tất cả các tác phẩm của William Shakespeare.Đã xong.”
Tôi cũng gạch một đường qua nó luôn.
“Chia sẻ tất cả những thứ tôi biết về u xơ nang với mọi người. Tôi có một cái, ờ, kênh trên Youtube này...”
Tôi gạch thêm một đường và hé mắt lên nhìn Will. Hoàn toàn không có chút ngạc nhiên nào. Ú ù, anh chàng bí mật tìm hiểu về tôi kìa.
“Vậy tức là, cậu lập kế hoạch để chết cực kỳ, cực kỳ thông minh rồi tham gia đội hùng biện của đám vong hả?” Anh ta chỉ cái đuôi bút ra ngoài trời. “Cậu đã bao giờ nghĩ, ờ... về việc đi du lịch vòng quanh thế giới hay gì đó tương tự chưa?”
Tôi nhìn xuống và thấy dòng 27: Tới nhà nguyện Sistine với Abby. Không có đường gạch nào chạy qua.
Tôi hắng giọng, tiếp tục. “Học chơi piano. Xong! Nói tiếng Pháp thành thạo...”
Will ngắt lời tôi, “Thật đó, cậu đã bao giờ làm thứ gì... không có trong danh sách chưa? Không có ý gì đâu nhưng chả có cái gì nghe vui vui một tí cả.” Tôi gập sổ lại, và anh ta tiếp tục. “Muốn nghe những gì tôi muốn làm không? Học vẽ cùng với Bob Ross 13* này. Rất nhiều những cái cây bé xíu vui vẻ này, màu vàng cađimi mới đầu tưởng xấu nhưng cuối cùng lại rất...”
“Ông ấy mất rồi.” Tôi nói.
Anh ta nhìn tôi với điệu cười nửa miệng. “À há, vậy thì chắc là tôi đành phải cố thực hiện cái ước nguyện thứ hai vậy. Làm chuyện ấy ở Vatican!”
Tôi đảo mắt khinh bỉ. “Thôi anh vẫn cứ mơ gặp Bob Ross đi, nó khả thi hơn đấy.”
Anh ta nháy mắt một cái, rồi gương mặt bỗng trở nên nghiêm túc, nghiêm túc hơn mọi lúc tôi từng thấy. “Được rồi được rồi. Tôi muốn đi du lịch nhiều nơi và thật sự được thấy nó, cậu biết đấy? Không phải là thấy nó từ trong bệnh viện.” Rồi anh ta cúi xuống và tiếp tục vẽ. “Bệnh viện nơi nào cũng giống nhau, buồng bệnh như nhau, sàn lát như nhau, mùi sát trùng giống nhau. Tôi đã được đến mọi nơi nhưng lại chẳng được thấy điều gì cả.”
Tôi nhìn anh ta, chăm chú, nghiêm túc, thật sự nhìn anh ta, nhìn mấy sợi tóc xõa xuống che mắt khi anh ta vẽ, nhìn nét mặt tập trung ấy, không còn chút bộ dạng nhăn nhở nào nữa. Tôi tự hỏi sẽ như thế nào khi đã đi qua cả thế giới nhưng chẳng bao giờ thoát được khỏi bốn bức tường bệnh viện. Tôi không ngại ở trong bệnh viện, nó làm tôi thấy an toàn. Thoải mái là đằng khác. Nhưng mà tôi đã đến một và chỉ một bệnh viện này thôi. Nó đã trở thành mái nhà thứ hai rồi.
Nếu như tuần vừa qua tôi được tới Cabo, mà vẫn phải mắc kẹt trong bệnh viện, có lẽ tôi sẽ không chỉ có chút không vui vậy đâu. Tôi sẽ cực kỳ khổ sở mất.
“Cảm ơn,” tôi nói.
“Tại sao?” Will hỏi, nhìn lên và bắt gặp ánh mắt tôi.
“Vì đã nói lên một điều chân thật.”
Anh ta nhìn tôi vài giây trước khi bối rối đưa tay lên vuốt tóc. Một anh chàng không thoải mái với sự thay đổi.
“Mắt cậu có màu hạt dẻ,” anh ta nói, chỉ về những tia nắng kéo dài loang loáng qua cửa sổ kính, bao lấy thân thể tôi. “Tôi không nhận ra điều đó cho đến khi có ánh mặt trời. Tôi vẫn luôn tưởng mắt cậu màu nâu.”
Tim tôi đập thình thịch trước những lời ấy, và vì ánh mắt ấm áp mà anh ta đang nhìn tôi lúc này.
“Đôi mắt cậu rất đẹp.” Khoảng vài giây sau anh ta nói tiếp, một chút đỏ hiện trên gò má rồi vội nhìn xuống, loạt xoạt đống giấy rồi hắng giọng. “À, ý tôi là, để vẽ ấy.”
Tôi cắn môi dưới cố nín cười.
Và lần đầu tiên, lần đầu tiên trong đời, tôi cảm nhận được gánh nặng của từng ly, từng tí một của hơn một mét tám khoảng cách giữa chúng tôi, khoảng cách của sáu bước nhỏ mà xa tận chân trời.
Tôi túm áo mình, kéo nó sát vào người, quay sang nhìn đống thảm yoga trong góc phòng, mặc kệ cái ý nghĩ rằng, bất kể trong không gian nào đi nữa, dù là to hay nhỏ, mở hay kín, khoảng cách giữa chúng tôi sẽ chẳng bao giờ ngắn lại.
Tối hôm đó, tôi ngồi lướt Facebook lần đầu tiên trong cả ngày, nhìn đống ảnh mà bạn bè tôi đăng lên sau chuyến đi. Tôi thả tim ảnh đại diện mới của Camila - đang đứng trên ván lướt sóng, mặc bộ đồ bơi hai mảnh mà tôi đã chọn, cười ngô nghê, vai thì cháy nắng đen sì bỏ mặc hết tất cả những lời tôi cảnh báo. Nhưng mà Mya mới gửi cho tôi một đoạn video hậu trường hồi chiều nay, hé lộ rằng Camila vẫn không biết lướt sóng. Nó chỉ đứng trên ván được cỡ ba giây rưỡi để chụp cái ảnh sống ảo rồi ngã lộn tùng phèo xuống biển.
Tôi nhảy nhảy điệu chiến thắng khi lướt qua bức ảnh mà Mason đăng lên, với đôi tay rám nắng choàng qua vai Mya. Tôi suýt nữa ngã ngửa khỏi ghế sau khi nhìn thấy tiêu đề ảnh. “Người đẹp ở Cabo.” Tôi cười toe, thả một like trước khi nhắn tin cho Mya.
“Trùi ui, giỏi quá điiiiiiiiiii, Mya!!!!” Cùng với một tràng dài biểu tượng trái tim.
Tôi vô tình liếc thấy quyển sổ tay vẫn còn đang mở ở trang kế hoạch lớn. Tôi nhìn lại dòng số 27: Thăm nhà nguyện Sistine với Abby. Tôi mở máy tính lên, trỏ chuột do dự đặt lên trên một thư mục màu xanh có tên “Abs”.
Tôi ngần ngừ mãi rồi cuối cùng cũng mở nó ra, một tràng dài những ảnh, rồi đoạn video và tranh vẽ của chị chiếm lấy màn hình. Tôi ấn vào một đoạn video quay bằng GoPro chị gửi tôi hơn một năm trước, chị lúc đó đứng trên một cây cầu mỏng manh cao chót vót. Ống kính ghi lại những hình ảnh từ chỗ chị đang ngồi tới mặt đất bên dưới, cả dòng nước ào ào cuốn trôi tất cả dưới chân cầu.
“Trông sợ nhỉ, Stella?” Abby nói khi ống kính quay lại phía chị. “Chị nghĩ em sẽ thích xem thử cảm giác nó ra sao!”
Chị ấy đội mũ bảo hiểm lên, ống kính GoPro quay lại về phía mép cầu và một khoảng cách sâu hun hút từ đó xuống mặt nước. “Và chị có mang theo bạn nhảy rồi nhé!” Chị giơ bé gấu trúc nhồi bông của tôi ra, bé gấu trúc giờ đang nằm bên cạnh tôi đây, và ôm nó thật chặt.
“Chị sẽ ôm nó thật chắc, đừng có lo!” Rồi sau đó, chẳng có một giây do dự, chị nhảy thẳng khỏi cầu. Tầm nhìn của tôi bay theo chị ấy, tiếng hô hào hứng vang vọng qua loa máy tính.
Và rồi dây giật lại, cả hai bay ngược lên, gương mặt bé gấu bông hiện trên màn hình, cùng tiếng hô của Abby, hơi hụt hơi khi chị ấy ôm chặt lấy chú gấu vang lên rõ mồn một, “Chúc mừng sinh nhật, Stella.”
Tôi khó nhọc nuốt xuống, đóng sập cái máy tính lại, vô tình làm đổ lon nước ngọt ở trên bàn. Coca sủi bọt đổ lênh láng khắp bàn rồi xuống sàn nhà. Tuyệt.
Tôi cúi xuống và nhặt nó lên, nhảy qua chỗ nước lênh láng và quăng nó vào thùng rác trên đường ra hành lang. Khi bước qua quầy trực của y tá, tôi nhìn thấy Barb đang gà gật ở trên ghế, đầu ngoẹo sang một bên, miệng hơi hé mở. Tôi cẩn thận mở tủ của các cô lao công, lấy một nắm giấy ăn từ kệ đựng đồ tẩy rửa mà cố không làm chị ấy thức giấc.
Nhưng mà chị ấy vẫn tỉnh, ngẩng đầu lên nhìn tôi, đôi mắt mơ màng.
“Chị đừng cố quá vậy chứ,” tôi nói, khi chị ấy nhìn tôi.
Barb mỉm cười và giơ tay ra như chị thường làm khi tôi còn nhỏ, sau khi trải qua một ngày khó khăn ở bệnh viện.
Tôi ngồi vào lòng chị, như đứa trẻ, và vòng tay ôm lấy cổ chị, hít đầy lồng ngực mùi hương vani quen thuộc. Tôi ngả đầu vào vai chị, nhắm mắt lại, giả vờ như đang ngủ.
⚝ ✽ ⚝
12* Một kháng sinh dạng thuốc mỡ có tác dụng ức chế sự phát triển của vi khuẩn, thường được dùng để điều trị nhiễm trùng da.
13* Robert Norman Ross (1942-1995): là họa sĩ, giáo viên mỹ thuật và MC người Mỹ. Ông là nhà sáng lập kiêm MC cho chương trìnhtruyền hình vẽ hội họa The Joy of Painting (Niềm vui từ hội họa).