Chương 2 Theo bước tiến văn minh
SA GIÔNG SỬ LƯỢC (1)
Trong kỷ nguyên lịch sử mà G.H. Bondy đã khởi xướng tại đại hội đáng nhớ của Tập đoàn Pacific Export Association, khi ông đưa ra những lời tiên tri về sự ra đời của một thế giới Thiên Đường (2) , chúng ta không còn đánh giá các sự kiện theo mốc thập niên hay thế kỷ nữa như lịch sử thế giới trước đây vẫn làm, mà phải tính theo mốc ba tháng một, dựa theo các thống kê kinh tế hàng quý (3) . Trong giai đoạn hiện tại, có thể nói là lịch sử đang được sản xuất đại trà; đó là lý do tốc độ tiến triển của lịch sử được thúc đẩy nhanh hơn rất nhiều (ước tính gấp năm lần). Ngày nay, chúng ta đơn giản là không thể chờ đợi hàng trăm năm để thấy thế giới chuyển biến tốt hay xấu. Chẳng hạn, việc di cư của nhiều dân tộc vốn thường kéo dài suốt nhiều thê hệ giờ đã có thể hoàn tất trong vòng ba năm khi tận dụng các phương thức giao thông hiện đại có tổ chức, nếu không thì sẽ không thu được lợi nhuận. Tương tự, sự suy tàn của Đế chế La Mã, tiến trình thực dân hóa các châu lục, việc tàn sát dân da đỏ, vân vân, cũng sẽ diễn ra nhanh chóng nếu chúng xảy ra vào ngày nay. Tất cả đều có thể hoàn tất trong một khoảng thời gian nhanh hơn nhiều nếu có sự ủy thác cho những nhà thầu có nguồn vốn mạnh. Bằng cách này, thành công to lớn của Salamander Syndicate và tác động mạnh mẽ của tập đoàn này đối với lịch sử thế giới chắc chắn đã mở đường cho tương lai.*
(1). Xem: G. Kreuzmann, Geschichte der Molche [Lịch sử loài sa giông]. Hans Tietze, Der Molch des XX. Jahrhunderts [Sa giông của thế kỷ XX]. Kurt Wolff, Der Molch und das deutsche Volk [Sa giông và dân tộc Đức]. Sir Herbert Owen, The Salamanders and the British Empire [Sa giông và Đế quốc Anh]. Giovanni Focaja, L’evoluzione degli anfibii durante il Fascismo [Sự tiến hóa của loài sa giông thời phát-xít]. Léon Bonnet, Les Urodèles etla Société des Nations [Loài sa giông và Hội Quốc Liên], S. Madariaga, Las Salamandras y la Civilización [Sa giông và nền văn minh], và các tác giả khác.(NT)
⚝ ✽ ⚝
(2). Xem: Khi loài vật lên ngôi, Phần I, Chương 12. (NT)
⚝ ✽ ⚝
(3). Điều này ta có thể thấy ngay trong mẩu tin đầu tiên cắt từ báo trong bộ sưu tập của ông Povondra:
THỊ TRƯỜNG SA GIÔNG
(CTK) Theo báo cáo mới nhất do Salamander Syndicate công bố cuối quý vừa qua, doanh thu từ sa giông đã tăng 30%. Gần 70 triệu con đã được cung cấp trong giai đoạn này, đặc biệt là ở Nam và Trung Mỹ, Đông Dương và Somalia thuộc địa của Ý. Sắp tới, có nhiều dự án đang được xúc tiến để nạo vét và mở rộng kênh đào Panama, dọn dẹp cảng Guayaquil và đào sâu một số vùng nước nông ở eo biển Torres. Theo những ước tính mới nhất, chỉ riêng các công trình này thôi sẽ cần phải di dời 9 tỷ mét khối đất rắn. Việc xây dựng các hòn đảo để làm các sân bay lớn cho tuyến Madeira-Bermuda, phải đến mùa xuân năm sau mới khởi công. Việc san lấp Quần đảo Mariana, thuộc quyền cai trị của Nhật Bản, vẫn đang tiến triển; cho tới nay 840 mẫu đất mới - gọi là đất xốp - đã được lấp đầy vùng biển giữa hai đảo Tinian và Saipan. Do nhu cầu ngày càng tăng, giá sa giông vẫn rất ổn định ở mức 61 loại “Leading” và 620 loại “Team”. Nguồn cung ứng dồi dào. (NT)
Lịch sử của loài sa giông, ngay từ đầu, đã có đặc điểm là tổ chức tốt và hợp lý, đây là điều đó chính yếu nhưng không hoàn toàn là nhờ công của Salamander Syndicate ; cũng phải nhìn nhận rằng khoa học, lòng nhân từ, giáo dục, báo chí và nhiều yếu tố khác cũng đóng vai trò đáng kể trong sự phát triển và tiến bộ của loài sa giông. Tuy nhiên phải nói là chính Salamander Syndicate , gần như hàng ngày, đã thâu tóm những vùng duyên hải và lục địa mới cho chúng, cho dù có phải vượt qua nhiều trở ngại ngăn cản sự bành trướng này (1) . Các báo cáo hàng quý của tập đoàn này cho thấy rằng sa giông đang dần dần định cư ở nhiều hải cảng Ấn Độ và Trung Hoa ra sao; hàng đoàn sa giông chiếm lĩnh các vùng duyên hải châu Phi và tràn sang châu Mỹ nơi một trại ấp trứng sa giông tân tiến nhất sắp xây dựng ở Vịnh Mexico ra sao; ngoài những làn sóng di trú lớn, những nhóm sa giông nhỏ tiên phong đã được gửi đi thiết lập những điểm định cư mới ra sao. Chẳng hạn, Salamander Syndicate đã gửi một ngàn con sa giông loại thượng hạng làm quà tặng cho Bộ Thủy lợi Waterstaat của Hà Lan, sáu trăm con được tặng cho thành phố Marseilles để dọn dẹp hải cảng cũ, và tương tự ở nhiều nơi khác. Khác với sự phát triển của loài người, sự phân tán và di cư của loài sa giông hoàn toàn được trù hoạch kỹ càng, với quy mô lớn; nếu cứ để mặc cho Tạo Hóa thì chắc chắn phải cần đến hàng nghìn năm; thế nhưng Tạo Hóa thì không, mà cũng chưa bao giờ, liều lĩnh lẫn mưu đồ như ngành công nghiệp và thương mại của con người. Dường như nhu cầu lớn của thị trường đã tác động đến khả năng sinh sản của chính loài lưỡng cư này; lượng nòng nọc của một con sa giông cái đẻ ra đã tăng lên tới con số 150 mỗi năm. Số lượng bị sát hại bởi cá mập cùng các loài cá săn mồi khác đã giảm xuống gần bằng không sau khi lũ sa giông được trang bị súng lục bắn dưới nước cùng với loại đạn có sức công phá lớn để chúng tự vệ (2) .
(1). Những khó khăn này được minh chứng bằng mẩu tin cắt từ một nhật báo không rõ nguồn sau đây:
ANH QUỐC NGĂN CHẶN SA GIÔNG?
(Reuters) Trả lời câu hỏi của Nghị viên J. Leeds thuộc Hạ viện, Sir Samuel Mandeville hôm nay tuyên bố Chính phủ Anh Quốc đã cấm vận chuyển mọi loại sa giông qua kênh đào Suez; ông cũng nói thêm là cấm tuyển dụng bất kỳ con sa giông nào trên mọi bờ biển và vùng biển chủ quyền của Quần đảo Anh. Sir Samuel cho biết lý do áp dụng biện pháp này một phần là vì an ninh của Quần đảo Anh và một phần là tuân thủ những đạo luật cũ vẫn còn hiệu lực liên quan đến việc chống buôn nô lệ.
Trả lời câu hỏi của Thượng nghị sĩ B. Russel, Sir Samuel tuyên bố lập trường này tất nhiên không áp dụng cho các thuộc địa và vùng tự trị thuộc Anh Quốc. (NT)
⚝ ✽ ⚝
(2). Loại súng lục gần như duy nhất dùng cho mục đích này là loại do kỹ sư Mirko Šafránek phát minh ra và được sản xuất ở Nhà máy Vũ khí Brno. (NT)
Sự phát triển số lượng quần chủng quần sa giông tất nhiên không phải ở đâu cũng suôn sẻ; ở một số nơi, các tổ chức bảo thủ đã có nhiều biện pháp bảo hộ ngặt nghèo chống lại việc du nhập các lực lượng lao động mới, xem sa giông là đối thủ cạnh tranh không công bằng với nhân lực (1) ; nhiều tổ chức khác đã bày tỏ nỗi lo sợ rằng loài sa giông, sống nhờ ăn các sinh vật biển nhỏ, sẽ là nguy cơ cho ngành ngư nghiệp; cũng có những phe nhóm cho rằng sa giông sẽ phá hoại các bờ biển và hải đảo khi chúng xây những đập chắn và hầm thông ngầm dưới nước. Thực tế là nhiều người đã lên tiếng cảnh báo việc du nhập loài động vật này; nhưng từ xưa đến nay bất kỳ sự tiến bộ nào cũng đều gặp phải sự chống đối và ngờ vực - trường hợp máy móc công nghiệp trước đây thế nào thì trường hợp sa giông bây giờ cũng thế. Ở nhiều nơi khác, các biểu hiện bất bình khác cũng đã nảy sinh (2) , nhưng nhờ sự ủng hộ đáng kể của báo chí quốc tế - vốn luôn đánh giá cao một cách đúng đắn về tiềm lực kinh doanh khổng lồ đối với loài sa giông cũng như những quảng cáo liên tục đầy hào phóng đi kèm theo - việc du nhập sa giông ở hầu hết các nơi trên thế giới đều được quan tâm chào đón, thậm chí còn hết sức nhiệt tình (3) .
(1). Xem mẩu tin này:
PHONG TRÀO ĐÌNH CÔNG Ở ÚC
(Havas) Lãnh đạo Công đoàn Úc, Harry MacNamara, đã kêu gọi mọi công nhân các hải cảng, các ngành giao thông, điện lực, và các ngành liên quan tổng đình công. Các công đoàn trực thuộc đã yêu cầu việc nhập khẩu lực lượng lao động sa giông vào Úc phải được kiểm soát chặt theo luật di trú. Trái lại, nông dân Úc lại đang tác động để quy định hạn chế nhập khẩu sa giông được nới lỏng vì nhu cầu bắp ngô trồng nội địa và mỡ động vật, đặc biệt là mỡ cừu, dùng làm thức ăn cho loài vật này đang tăng đáng kể. Chính phủ đang tìm cách dung hòa; Salamander Syndicate đưa ra đề nghị sẽ đóng phí cho các công đoàn sáu shilling cho mỗi con sa giông nhập khẩu. Chính phủ sẵn sàng cam kết rằng những con sa giông chỉ được sử dụng để làm việc dưới nước và (để tránh vi phạm thuần phong mỹ tục) chúng không được thò người lên khỏi mặt nước quá 40 cm, tức mực nước ngang ngực. Tuy nhiên, các công đoàn vẫn nhất định chỉ cho những con vật này nhô lên 12 cm, tức ngang cổ, mà thôi và mức phí đóng cho mỗi con là mười shilling chưa tính thuế. Có khả năng sẽ đạt được thỏa thuận khi Bộ Tài chính chịu hỗ trợ. (NT)
⚝ ✽ ⚝
(2). Xem tư liệu đáng chú ý sau đây trong bộ sưu tập của ông Povondra:
SA GIÔNG CỨU 36 NGƯỜI THOÁT CHẾT ĐUỐI
(Tin từ đặc phái viên bổn báo)
Madras, ngày 3 tháng Tư - Tàu thủy hơi nước Indian Star đã va phải một chiếc phà chở khoảng 40 dân địa phương ở cảng Madras, khiến phà chìm ngay lập tức. Trước khi tàu cảnh sát kịp tới nơi, một số sa giông đang làm công việc nạo vét bùn ở hải cảng đã lao ra cứu và đưa được 36 người sắp chết đuối vào bờ. Riêng một sa giông đã một mình cứu được ba phụ nữ và hai trẻ em thoát chết. Để tán dương nghĩa cử này, các nhà đương cục đã thảo một thư cảm tạ và đặt trong một chiếc hộp không vô nước để trao cho các sa giông.
Mặt khác, nhiều người ở đây lại hết sức phẫn uất trước việc các sa giông được phép động chạm vào những người sắp chết đuối thuộc đẳng cấp cao hơn, vì sa giông vốn được coi là loài hạ tiện bẩn thỉu. Một đám đông vài ngàn dân địa phương đã tụ tập ở hải cảng, lớn tiếng đòi trục xuất tất cả sa giông. Tuy nhiên, cảnh sát đã làm chủ được tình thế: chỉ có ba người thiệt mạng và 120 người bị bắt giữ. Đến 10 giờ tối, trật tự đã được vãn hồi. Các sa giông vẫn tiếp tục làm việc. (NT)
⚝ ✽ ⚝
3. Xem mẩu báo rất đáng chú ý sau đây, tiếc thay, nó lại dùng một ngôn ngữ xa lạ và vì thế ta không dịch được:
SAHT NA KCHAI TE SALAAM ANDER BWTAT
Saghtwan t’lap ne Salaam Ander bwtati og t’cheni berchi ne Simbwana m’bengwe ogandi sükh na moimoi opwana Salaam Ander sri m’oana gwen’s. Og di limbw, og di bwatat na Salaam Ander kchri p’we o’gandi te ur maswali sükh? Na, ne ur lingo t’Islamli kcher oganda Salaam Andrias sahti. Bend op’tonga kchri Simbwana medh salaam!
Việc mua bán sa giông chủ yếu nằm trong tay Salamander Syndicate ; được vận chuyển bằng những chiếc tàu có bồn nước được thiết kế đặc biệt; trụ sở giao dịch chính là tòa nhà Salamander Building ở Singapore, đóng vai trò như một thị trường chứng khoán sa giông.
Hãy tham khảo bài tường thuật chi tiết và khách quan của tác giả ký tên tắt là E. W., công bố ngày 5 tháng Mười (không rõ năm nào):
Độc giả có thể thấy những thông tin kiểu này đăng tải hàng ngày ở trang kinh tế của các nhật báo nằm giữa các thông báo giá cả của các mặt hàng sợi bông, thiếc hay lúa mì. Nhưng bạn có biết những chữ và số bí ẩn đó có nghĩa là gì không? À, đúng, đó là thông tin thị trường Salamander hay S-Trade (kinh doanh sa giông); nhưng thực tế việc giao dịch này như thế nào thì đa số độc giả đều không biết rõ. Có lẽ bạn sẽ hình dung một khu chợ lớn nhung nhúc hàng ngàn, hàng ngàn con sa giông, nơi giới thương lái đầu đội mũ cứng rộng vành hay quấn khăn bành đang săm soi hàng hóa bày bán và cuối cùng chỉ tay vào một con sa giông tơ, cứng cáp, khỏe mạnh rồi nói: “Tôi mua con này; giá bao nhiêu?” .
Trên thực tế, việc mua bán sa giông lại hoàn toàn khác. Trong tòa nhà S-Trade bằng đá cẩm thạch ở Singapore, bạn sẽ không thấy một con sa giông nào mà chỉ thấy những nhân viên thanh lịch và nhanh nhẹn mặc đồ trắng nhận đặt hàng qua điện thoại, “Vâng, thưa ông, Leading giá 63. Bao nhiêu con? Hai trăm? Vâng, thưa ông. Đặt 20 Heavy và 180 Team? OK, tôi rõ rồi. Tàu sẽ rời cảng năm tuần nữa. Được không? Cám ơn ông”. Toàn bộ S-Trade chìm trong những cuộc điện thoại rì rầm; nơi đây trông giống ngân hàng hơn là cái chợ; thế nhưng tòa nhà màu trắng nguy nga với hàng cột kiểu Hy Lạp nằm ở mặt tiền này lại chính là một cái chợ quốc tế còn nổi tiếng hơn cả khu chợ ở Baghdad vào thời vua Harun-al-Rashid.
Nhưng chúng ta hãy quay lại mẩu tin thị trường nêu trên cùng với những từ chuyên môn thương mại của nó.
LEADING - loại lãnh đạo - chỉ có nghĩa là những con sa giông thông minh nhất, đã được chọn lọc đặc biệt, thường vào khoảng ba tuổi và được huấn luyện kỹ để làm đầu đàn cho một bầy sa giông lao công. Loại này bán lẻ từng con bất kể trọng lượng cơ thể; chỉ có trí thông minh là đáng giá. Loại Leading của Singapore, con nào cũng nói thạo tiếng Anh, được coi là loại tốt nhất và bảo đảm nhất; ngoài ra còn có các loại sa giông khác với nhiều vai trò và trách nhiệm riêng như các loại sa giông được đặt tên là Capitano, Engineer, Malayan Chief, Foremander, v.v…, nhưng chỉ có loại Leading là cao giá nhất. Giá loại này hiện nay là khoảng 60 đô-la một con.
HEAVY - loại đô con - là những con sa giông nặng cân, nhiều cơ bắp, thường khoảng hai tuổi và có trọng lượng từ 45 đến 55 kg. Loại này chỉ bán theo từng nhóm sáu con, gọi là tiểu đội. Chúng đã được huấn luyện để làm những việc lao động nặng nhất như phá đá, khuân đá và những việc tương tự. Nếu mẩu tin báo giá là Heavy 317 tức là giá một tiểu đội loại này là 317 đô-la. Mỗi tiểu đội Heavy được chỉ định một con Leading làm quản đốc và giám sát.
TEAM - loại quân tốt - là các sa giông lao động bình thường, trọng lượng từ 35 đến 45 kg; chỉ bán theo từng đàn 20 con (trung đội); loại này dành cho những công việc tập thể và thích hợp nhất cho những việc như nạo vét; xây đập chắn, bờ kè, v.v.. Mỗi trung đội 20 con sẽ có một con Leading cầm đầu.
ODD JOBS - loại hạ tiện - hợp thành một loại riêng. Đây là những con sa giông vì lý do nào đó mà không hề được huấn luyện cho những công việc tập thể hoặc chuyên môn, chẳng hạn như do chúng lớn lên bên ngoài những trang trại sa giông lớn do chuyên gia điều hành. Thực tế chúng là loại bán hoang dã nhưng thường lợi rất tài năng. Loại này bán lẻ hoặc bán theo tá 12 con và có thể dùng cho đủ loại công việc phụ hay lặt vặt không cần dùng tới cả trung đội sa giông. Nếu như loại Leading có thể xem là sa giông thượng lưu thì loại Odd Jobs là đại diện cho giai cấp vô sản. Gần đây, chúng thường được bán như nguyên liệu thô rồi được huấn luyện thành các loại sa giông Leading, Heavy, Team, hoặc Trash.
TRASH - loại phế thải - là loại ít giá trị nhất gồm những con sa giông sức khỏe yếu hay khuyết tật. Loại này không bán lẻ hay bán theo bầy mà bán đổ đồng theo trọng lượng, thường là bán sỉ một lần vài tấn; giá loại này hiện trong khoảng từ 7 đến 10 xu một kg. Thực sự không rõ người ta mua chúng để làm gì - có lẽ để sử dụng cho những công việc nhẹ dưới nước; để tránh hiểu lầm, bạn cần nhớ là con người không thể ăn được thịt sa giông. Loại Trash hầu như chỉ có giới thương lái Trung Hoa mua; và không ai biết đích xác những con sa giông này được chuyển tới đâu.
SPAWN - loại con - chính là sa giông con; nói chính xác là những con nòng nọc không quá một năm tuổi. Chúng được mua bán theo từng lố một trăm con và bán rất chạy, chủ yếu là vì giá rẻ, phí vận chuyển thấp nhất; ở điểm giao hàng chúng sẽ được nuôi lớn lên thành sa giông và được huấn luyện cho tới khi làm được việc. Loại Spawn được vận chuyển trong những thùng tô-nô vì nòng nọc không cần rời khỏi nước hàng ngày như những con sa giông trưởng thành. Thường thì nhiều con trong loại này sẽ trở thành những tài năng ngoại hạng, thậm chí còn giỏi hơn những con loại Leading tiêu chuẩn; do đó việc mua bán loại Spawn đặc biệt sôi động. Từ đây, những con sa giông tài cao sau đó sẽ bán lẻ được hàng trăm đô-la mỗi con; tỷ phú Mỹ Denicker thậm chí đã từng trả tới 2.000 đô-la để mua một con sa giông biết nói lưu loát chín ngôn ngữ và thuê một chuyến tàu đặc biệt chuyển con này tới tận Miami; riêng chi phí vận chuyển đã lên tới gần 20.000 đô-la. Gần đây, loại Spawn rất được ưa chuộng ở các cơ sở gọi là trường đua sa giông; tại đây nòng nọc sẽ được chọn lọc và huấn luyện thành sa giông đua tốc độ; sau đó cứ ba con một nhóm sẽ được thắng yên cương buộc vào một chiếc thuyền phẳng bẹt như vỏ sò. Những cuộc đua thuyền vỏ sò do sa giông kéo hiện là mốt thời thượng đỉnh cao và là môn giải trí phổ biến của các cô gái Mỹ ở Palm Beach, ở Honolulu, hay ở Cuba; chúng được gọi là trò “đua Thần biển” hay “đua thuyền Vệ nữ”. Trò này gồm chiếc thuyền vỏ sò có trọng lượng nhẹ, được trang trí đẹp mắt lướt vun vút trên sóng, đứng bên trên là cô gái dự thi mặc bộ đồ tắm quyến rũ ít vải nhất, tay cầm dây cương bằng lụa điều khiển một đội ba con sa giông; giải thưởng cuộc đua này chỉ là một danh hiệu: Thần Vệ nữ. Ông J. S. Tincker, nổi tiếng với biệt danh Vua Đồ Hộp , đã mua cho cô con gái của mình ba con sa giông đua - Poseidon, Hengist và King Edward - với giá ít nhất là 36.000 đô-la. Nhưng những giao dịch này không thuộc phạm vi kinh doanh của S-Trade, vốn chỉ chuyên cung cấp khắp thế giới các lọai Leading, Heavy và Team lao động chất lượng.
–
Chúng tôi đã nói đến những trang trại sa giông. Xin quý độc giả đừng nghĩ đến những khu chuồng chăn nuôi hay bãi quây nhốt khổng lồ; đó chỉ là mấy dặm bờ biển trống trải chỉ có mấy căn nhà lợp tôn nằm rải rác. Một căn dành cho bác sĩ thú y, một căn cho người quản lý, và mấy căn khác cho nhân viên giám sát. Chỉ khi thủy triều xuống mới nhìn thấy được những đê chắn chạy dài từ bờ ra biển, chia bãi biển thành nhiều bể nuôi. Một bể dành cho nòng nọc, bể thứ hai dành cho sa giông loại Leading, và cứ thế phân loại; mỗi loại sa giông được cho ăn và huấn luyện riêng, cả hai việc này luôn diễn ra vào ban đêm. Lúc hoàng hôn, lũ sa giông sẽ từ những cái hang trong bờ chui ra và tập trung quanh các giáo viên, thường là các quân nhân đã xuất ngũ. Đầu tiên là bài học nói; giáo viên sẽ nói to một từ với đám sa giông, chẳng hạn như từ “đào” và làm động tác để minh họa. Sau đó giáo viên sẽ chia lũ sa giông thành từng nhóm bốn con và tập cho chúng đi đều bước; tiếp theo là nửa giờ tập thể dục rồi giải lao dưới nước. Sau khi giải lao, sa giông sẽ lên bờ học cách thao tác với đủ loại công cụ và khí giới và rồi dưới sự giám sát của giáo viên, chúng sẽ thực hành cách xây dựng các công trình biển trong khoảng ba giờ. Xong việc này chúng sẽ quay về dưới nước để được cho ăn bánh quy Sa giông, một loại lương khô làm chủ yếu bằng mỡ và bột bắp; những con loại Leading và Heavy được cho ăn thêm thịt. Những con lười biếng và không vâng lời sẽ bị phạt, không cho ăn; không hề có các hình phạt thân thể, chủ yếu là do loài sa giông gần như không cảm giác được đau đớn. Mặt trời vừa ló dạng là không khí im lặng đáng sợ bao trùm cả trang trại sa giông; những con người đi ngủ và những con vật biến mất dưới mặt biển.
Tiến trình này chỉ thay đổi hai lần trong năm; một lần vào mùa sinh sản khi lũ sa giông được để mặc muốn làm gì thì làm trong hai tuần lễ, và một lần khi tàu vận tải của Salamander Syndicate ghé đến, mang theo lệnh của giám đốc gửi cho trang trại về số lượng cùng các loại sa giông cần vận chuyển. Việc tuyển chọn diễn ra ban đêm; thuyền trưởng, người quản lý và bác sĩ thú y ngồi ở một chiếc bàn dưới ánh đèn trong khi các nhân viên giám sát và thủy thủ đoàn chặn đường không cho sa giông rút lui xuống biển. Rồi từng con vật một đi tới chỗ chiếc bàn để được đánh giá xem có thích hợp hay không. Những con được chọn sau đó được cho lên thuyền nhỏ đưa ra tàu vận tải. Nói chung chúng hoàn toàn tự giác, tức là chỉ cần một mệnh lệnh quát lên là đủ; cũng có những trường hợp hiếm hoi phải dùng đến vũ lực nhẹ như xiềng chân kéo đi. Còn lũ nòng nọc hay sa giông con thì tất nhiên phải dùng lưới bắt lên.
Trên tàu, chúng được vận chuyển trong điều kiện nhân đạo và vệ sinh đúng mức; nước trong bồn chứa sa giông được thay mới hai ngày một lần, và chúng được cho ăn đủ dinh dưỡng. Tỷ lệ chết trên đường vận chuyển hiếm khi lên tới 10%. Theo ý muốn của Hội Bảo vệ Động vật, mỗi tàu vận tải sa giông đều có một cha tuyên úy và công việc của ông là lo liệu cho lũ sa giông được đối xử nhân đạo; và đêm đêm ông lại cho chúng một bài giảng, gieo vào đầu chúng ý thức kính trọng con người, biết ngoan ngoãn vâng lời, và biết yêu thương những người chủ tương lai - những người chỉ muốn chăm lo cho phúc lợi của đàn sa giông như người cha chăm lo cho đàn con. Đúng là khó giải thích cho đám súc vật này hiểu được tình phụ tử vì chúng hoàn toàn không biết tới khái niệm này. Những con học giỏi hơn dần dà gọi cha tuyên úy trên tàu là “Papa Sa giông”. Những bộ phim giáo dục cũng tỏ ra rất hữu ích trong chuyến đi, lũ sa giông được cho xem phim về những kỳ tích công nghệ của con người cũng như về những công việc và bổn phận đang chờ đợi chúng.
Có nhiều người cho rằng từ viết tắt “S-Trade” (Salamander Trade) có nghĩa là “Slave Trade” (buôn nô lệ). À, với tư cách người quan sát khách quan, chúng tôi có thể nói rằng nếu việc buôn nô lệ ngày xưa mà cũng được tổ chức tốt và vệ sinh, và được thực hiện hoàn hảo như trong việc kinh doanh sa giông ngày nay, thì chúng tôi chỉ biết chúc mừng những người nô lệ. Đặc biệt là những con sa giông loại đắt giá được đối xử rất tử tế và chu đáo, cho dù lý do là mức trả công cho thuyền trưởng và thuyền viên tàu vận chuyển tùy thuộc vào tình trạng sức khoẻ của lũ sa giông đã ủy thác cho họ. Người viết bài này đã từng thấy tận mắt là ngay cả những tay thủy thủ lỳ lợm nhất trên tàu vận tải SS.14 cũng tỏ ra xúc động sâu xa khi 140 con sa giông thượng hạng trong một bồn chứa trên tàu đã ngã bệnh và bị tiêu chảy nặng. Họ đến thăm chúng mà lệ rưng rưng mắt và bao nhân ái trong lòng họ trào dâng thành những lời thô lỗ chân thành: “Cái đám chó đẻ này nợ chúng ta quá lắm, đừng có mà lăn ra chết đấy!”.
Khi kim ngạch xuất khẩu sa giông tăng, việc kinh doanh dĩ nhiên sẽ trở nên hỗn loạn; Salamander Syndicate không còn khả năng kiểm soát và quản lý những trại ấp trứng mà Thuyền trưởng van Toch quá cố đã thiết lập ở nhiều nơi, đặc biệt là ở các đảo nhỏ hẻo lánh thuộc khu vực Micronesia, Melanesia và Polynesia; cho nên ở nhiều vùng vịnh sa giông bị bỏ mặc. Kết quả là ngoài những khu vực chăn nuôi được tổ chức và điều hành tốt, nạn săn bắt sa giông hoang cũng tăng lên với quy mô lớn, về nhiều phương diện cũng giống như những chuyên viễn du săn lùng hải cẩu thời trước; việc săn bắt này trong chừng mực nào đó là phạm pháp nhưng do không có luật bảo vệ loài động vật này cho nên cùng lắm chỉ bị xử theo tội xâm nhập trái phép vào phạm vi lãnh thổ có chủ quyền của quốc gia nào đó; nhưng vì lũ sa giông bị bỏ mặc trên các đảo đã sinh sôi cực nhanh và thỉnh thoảng gây thiệt hại cho vườn tược của dân địa phương, việc săn bắt ngoài tầm kiểm soát này được ngầm hiểu như một cách tất yếu để điều hòa số lượng sa giông.
Chúng tôi xin dẫn lại một câu chuyện có thật vào thời đó:
NHỮNG TÊN HẢI TẶC
THẾ KỶ XX
E. E. K.
Lúc Thuyền trưởng ra lệnh hạ cờ hiệu quốc tịch xuống và cho thuyền nhỏ rời tàu là mười một giờ đêm. Đó là một đêm trăng sáng bàng bạc; tôi nghĩ hòn đảo mà chúng tôi chèo tới là đảo Gardner trong Quần đảo Phoenix. Vào những đêm trăng sáng như vậy đám sa giông sẽ bò lên bờ múa may; ta có thể tới sát mà chúng không hay biết vì chúng còn mê mải tập trung vào vũ điệu tập thể thầm lặng này. Chúng tôi hai mươi người đi lên bờ, cầm theo mái chèo, đi hàng một rồi bắt đầu đứng tản ra thành hình bán nguyệt bao quanh đàn súc vật đen đúa trên bãi biển dưới ánh trăng ngà.
Khó lòng mà mô tả được cái cảm giác khi chứng kiến đám sa giông đó múa. Khoảng ba trăm con ngồi trên hai chân sau thành một vòng thật tròn, quay mặt vào giữa; trong vòng tròn trống không. Đám sa giông ngồi im không nhúc nhích, cứ như đã bám rễ chặt xuống đất; trông chúng như một hàng rào hình tròn bao quanh một bàn thờ bí mật; chỉ có điều không hề có bàn thờ và cũng chẳng có thánh thần nào. Đột nhiên một con trong đám kêu lên “ts-ts-ts” rồi lắc lư xoay vòng phần thân trên; rồi một con khác cũng làm theo như vậy, rồi con nữa, con nữa, và vài giây sau cả đám sa giông đều đong đưa phần thân trên, càng lúc càng nhanh, không một tiếng động lắc lư như điên rồ trong động tác quay cuồng say sưa, trong lúc vẫn ngồi yên một chỗ. Sau khoảng mười lăm phút, một con bắt đầu thấm mệt đong đưa chậm dần, rồi một con nữa và thêm một con nữa, chúng lắc lư đến kiệt sức và cứng đờ người ra; và rồi tất cả ngồi im như tượng một lúc sau có tiếng “ts-ts-ts” vang lên từ đâu đó, một con khác lại bắt đầu lắc lư thân trên như trước và rồi cái điệu múa may quay cuồng ấy lại đột ngột lan ra cả vòng tròn. Tôi biết mô tả như vậy thì những động tác ấy nghe cố vẻ máy móc, nhưng nếu bạn hình dung thêm ánh trăng nhợt nhạt, thêm tiếng sóng vỗ bờ rì rầm đều đều, thì toàn bộ cảnh tượng này lại đầy mê hoặc và ma quái vô cùng. Tôi đứng lại, bất giác nghẹn ngào, cảm giác vừa sững sờ vừa kinh hãi. “Đi tới đi, mày”, người gần tôi nhất gắt lên, “coi chừng chừa ra khoảng trống đó”.
–
Chúng tôi tiến sát lại, bao vây vòng tròn sa giông trong lúc chúng vẫn múa may. Đoàn người giơ mái chèo bắt tréo ra phía trước, bóng đêm buộc họ phải hạ giọng nói thầm chứ không phải vì sợ đám sa giông nghe thấy. “Lùa vào giữa, mau”, Thuyền trưởng ra lệnh. Cả bọn chúng tôi lao vào vòng tròn sa giông trong lúc chúng lắc lư quay cuồng và ta có thể nghe tiếng những mái chèo quật thình thịch vào lưng những con vật. Tới lúc đó đám sa giông mới giật mình hoảng hốt, rút lui vào tâm vòng tròn để tránh né hay cố luồn qua giữa đám mái chèo để trốn xuống biển, nhưng chỉ một mái chèo quất mạnh là đủ xua chúng chạy ngược về chỗ cũ, mồm kêu ré vì đau đớn và sợ hãi. Chúng tôi dùng mái chèo lùa chúng vào giữa, dồn chặt, ép chúng thành một đống chồng chất lớp lớp lên nhau; mười người đấu mái chèo làm thành một hàng rào vây lại; mười người kia vung mái chèo đập và lùa trả vào những con nào toan chui ra bỏ trốn. Những con vật chồng chất thành một đống thịt đen ngòm, lúc nhúc, kinh hoảng gào rú, trong lúc những mái chèo không ngừng quật xuống. Rồi giữa hai mái chèo lộ ra một khoảng trống chừa sẵn; một con sa giông trườn qua và lãnh một gậy trời giáng ngay sau đầu, nó lăn quay ra bất tỉnh, rồi một con nữa, thêm con nữa cho đến khi có chừng hai mươi con nằm liệt trên đất. “Thôi”, Thuyền trưởng ra lệnh và khoảng trống giữa hai mái chèo được khép chặt. Bully Beach và gã lai Dingo, hai tay nắm chân hai con vật bất tỉnh kéo lê như kéo những bao tải vô hồn đi xuống thuyền. Có khi đang kéo thì con vật bị kẹt giữa mấy tảng đá, tay thủy thủ vận sức lôi và giật mạnh, dã man tới mức xé đứt lìa chân con vật ra. “Chẳng sao đâu”, già Mike đứng cạnh tôi lầm bầm. “Nó sẽ mọc chân khác”. Khi tất cả số sa giông bất tỉnh đã được quẳng xuống thuyền, Thuyền trưởng lại quát lên ra lệnh: “Làm lô kế tiếp”. Và những cú nện choáng váng vào đầu những con vật lại tiếp tục. Viên thuyền trưởng ấy tên là Bellamy, một người có học thức và ít nói, một tay đánh cờ xuất sắc; nhưng đây là đi săn, hay đúng hơn đây là chuyện làm ăn, cho nên chẳng có gì mà ầm ĩ. Hơn 200 con sa giông đã bị đánh bất tỉnh theo kiểu đó; chừng 70 con bị bỏ lại tại chỗ vì chúng có lẽ đã chết rồi, không đáng công lôi đi nữa. Trên tàu, những con sa giông bắt được đều bị quẳng vào một bồn chứa. Tàu của chúng tôi là một chiếc tàu chở dầu cũ, có những bồn chứa không được lau chùi, còn hôi nồng mùi dầu thô; nước trong bồn vẫn còn váng một lớp nhờn óng ánh ngũ sắc; nắp bồn được tháo ra cho thoáng khí; quẳng hết đám sa giông vào thì bồn chứa trông như một nồi mì đặc quánh, tởm lợm. Trong cái đống nhung nhúc đó, thỉnh thoảng có con cựa quậy yếu ớt, nhưng cả đám được để yên một ngày cho hồi tỉnh. Qua hôm sau, bốn người cầm sào dài đến thọc vào “nồi xúp” (tiếng nhà nghề gọi như thế) đảo trộn những cơ thể chen chúc ấy xem thử có con vật nào đã hết cử động hoặc thịt chúng đã bị rách toạc ra chưa, rồi dùng một móc câu dài lôi những cái xác ấy ra khỏi bồn nước. “Dọn xúp xong chưa?”, Thuyền trưởng sẽ hỏi. “Yes, sir”. “Đồ nước vào”. “Yes, sir”. Món xúp ấy được châm nước mới hàng ngày, và mỗi lần lại có từ sáu đến mười “món hàng hư hỏng” - họ gọi vậy - bị ném xuống biển; tàu chúng tôi luôn có một đàn cá mập lớn, no béo, làm bạn đồng hành. Mùi hôi hám từ những bồn chứa này thật kinh khủng; bất kể được thay nước định kỳ, nước trong bồn luôn vàng khè, đầy chất phóng uế và những vụn thức ăn nhớp nhúa; chen chúc những thân hình đen đúa lờ đờ quẫy nước hoặc chỉ lềnh bềnh thảm thương và thở không ra hơi. “Vậy là tốt rồi”, già Mike cứ nói thế. “Tao từng thấy một tàu chở cái đám này trong những thùng thiếc đựng xăng; chúng chết sạch”.
Sáu ngày sau; chúng tôi đánh thêm chuyến hàng mới trên đảo Nanomea.
–
Đó là cách hoạt động của những vụ buôn lậu sa giông; đúng; hoàn toàn phi pháp; nói chính xác hơn đó là một hình thức hải tặc hiện đại đã nảy sinh hết sức nhanh chóng. Người ta nói rằng gần một phần tư của toàn bộ số sa giông mua đi bán lại đều bị săn bắt theo cách này. Sa giông sinh đẻ rất nhanh trong những trại nuôi ấp mà Salamander Syndicate thấy không còn đáng để duy trì hoạt động nữa, và chúng lan tràn trên nhiều đảo nhỏ của Thái Bình Dương tới mức trở thành một thứ sinh vật gây hại trầm trọng, dân địa phương căm ghét chúng và nhất định cho rằng cả hòn đảo có nguy cơ sụp xuống biển vì những đường hầm và ngách thông mà chúng đào khoét khắp nơi; cho nên nhà chức trách sở tại và cả Salamander Syndicate đều làm ngơ với những vụ vây bắt sa giông kiểu ăn cướp ở những nơi đó. Ước tính đã có khoảng 400 tàu hải tặc chỉ chuyên săn bắt sa giông. Ngoài ra còn có cả giới thương nhân điều hành những công ty hải vận cũng tham gia hoạt động buôn lậu này lớn nhất là Pacific Trade Company, trụ sở chính ở Dublin, dưới quyền vị giám đốc khả kính Charles B. Harriman. Một năm trước tình hình còn tệ hơn khi tên cướp Đằng Hải Khấu gốc Trung Hoa dùng ba chiếc tàu tấn công thẳng vào những trại nuôi sa giông của Syndicate và không ngần ngại giết luôn cả các nhân viên khi họ cố kháng cự. Tháng Chín vừa qua, tên Đằng và toàn bộ đội tàu của hắn đã bị pháo hạm Mỹ “Minnetonka” bắn chìm ở ngoài khơi đảo Midway. Từ đó, việc buôn bán sa giông đánh cướp đã bớt táo tợn hơn, và phát triển ổn định theo những quy ước đã thỏa thuận; chẳng hạn như phải hạ cờ hiệu quốc tịch của chiếc tàu xuống khi tấn công vào bờ biển thuộc lãnh thổ ngoại quốc, không mượn danh nghĩa buôn lậu sa giông để xuất nhập khẩu các loại hàng hóa khác; và không được bán phá giá sa giông trên thị trường - những con vật săn bắt phi pháp này sẽ được xếp vào loại hàng thứ phẩm. Sa gông phi pháp sẽ được bán với giá từ 20 đến 22 đô-la một con; chúng được coi là thứ phẩm nhưng lại rất khoẻ mạnh nếu xét tới việc chứng vẫn sống sót sau khi bị đối xử kinh khủng trên các tàu hải tặc. Ước tính cứ sau một chuyến tàu hải tặc thì tỷ lệ sa giông còn toàn mạng trung bình là từ 25 đến 30 %; và số này thường sống dai. Trong ngôn ngữ nhà nghề, sa giông loại này được gọi là “Maccaroni” - một loại mì ống - và gần đây đã được yết giá trên các bản tin thị trường chính thức.
–
Hai tháng sau, tôi đánh cờ với Thuyền trưởng Bellamy trong khách sạn Hotel France ở Sài Gòn; tất nhiên lúc này tôi không còn làm thủy thủ trên tàu của ông nữa.
“Bellamy này”, tôi nói với ông ta, ““ông là người đàng hoàng, có thể nói là người quý phái phong lưu. Ông không khó chịu khi làm một chuyện mà thực chất chẳng khác gì chuyện buôn nô lệ hạ cấp nhất sao?”.
Bellamy nhún vai: “Sa giông là sa giông”, ông làu bàu cho qua chuyện.
“Hai trăm năm trước người ta cũng nói mọi đen là mọi đen”. “Thế họ nói không đúng sao?”, Bellamy nói, ““Chiếu tướng!”. Tôi thua ván cờ. Đột nhiên tôi hiểu ra là mọi nước đi trên bàn cờ đều đã có từ xưa và đều từng được đi bởi một ai đó trước kia. Có lẽ bàn cờ lịch sử của chúng ta đã được sắp sẵn và chúng ta chỉ di chuyển quân cờ theo cùng một nước đi để chịu cùng một thất bại như người xưa từng gặp phải. Có lẽ cũng đã từng có một Bellamy khác cũng điềm đạm, dễ mến như vậy, từng săn lùng người da đen ở Côte d’Ivoire và vận chuyển họ tới Haïti và Louisiana, để mặc họ chết như rạ dưới hầm tàu. Bellamy ngày xưa thấy việc đó chẳng có gì sai trái. Bellamy bây giờ cũng thấy việc đó bình thường. Cho nên làm sao mà cứu vãn được.
“Đen thua rồi”, Bellamy đắc chí thốt lên, và đứng dậy vươn vai thư giãn.
Bên cạnh một thị trường kinh doanh sa giông được tổ chức tốt và có chiến dịch quảng cáo sâu rộng trên báo chí, tác nhân hiệu quả nhất gây lan rộng quần chủng sinh vật này là làn sóng sùng bái kỹ thuật khổng lồ tràn ngập toàn thế giới vào thời đó. G.H. Bondy đã tiên đoán chính xác, trí tuệ con người sẽ tư duy hoàn toàn theo hệ thống của những châu lục mới và những lục địa Atlantis mới. Trong suốt cả Thời đại Sa giông này, ngự trị trong các bộ óc kỹ thuật luôn là cuộc tranh cãi sôi nổi và phong phú, chẳng hạn như nên bồi đắp lục địa rắn bằng bờ biển gia cố bê-tông hay chỉ tạo lục địa xốp từ cát lấy dưới lòng biển. Những dự án mới vĩ đại xuất hiện gần như hàng ngày: Các kỹ sư Ý một mặt vạch kế hoạch xây dựng lãnh thổ Đại Italy mở rộng ra gần hết Địa Trung Hải đến tận Tripoli, quần đảo Baleares và cụm đảo Dodekanisa, mặt khác lại muốn thiết lập một lục địa mới - gọi là Lemuria - ở phía đông Somalia thuộc địa của Ý mà một ngày nào đó sẽ lấn hết Ấn Độ Dương. Với sự giúp sức của nhiều đội quân sa giông, thực tế là nhiều đảo mới đã được bồi đắp, lấp đầy mười ba mẫu mặt biển đối diện cảng Mogadishu của Somalia. Nhật Bản có kế hoạch và đã hoàn tất một phần việc tạo lập một đảo lớn mới phủ kín Quần đảo Marianne trước đây và đang chuẩn bị nối liền hai Quần đảo Caroline và Marshall thành hai đảo lớn - dự kiến đặt tên là Tân Nippon; trên hai đảo này sẽ đắp hai núi lửa nhân tạo để nhắc nhở các cư dân tương lai nhớ đến đỉnh Phú Sĩ linh thiêng. Cũng có tin đồn là các kỹ sư Đức đã bí mật xây dựng ở biển Sargasso một lục địa bê-tông kiên cố để tạo ra lục địa Atlantis mới, nghe đâu sẽ là mối đe dọa cho vùng Đông Phi của Pháp; nhưng dường như kế hoạch này mới chỉ đặt móng rồi thôi. Còn Hà Lan thì đang tiến hành bồi đắp vùng đất ngập Zeeland lên chỗ cao hơn cho khô ráo; Pháp đã hợp nhất các đảo Guadeloupe, Grande Terre, Basse Terre và La Désirade thành một đảo lớn; Mỹ bắt đầu xây dựng hải đảo - phi trường đầu tiên ở kinh tuyến 37 (cao hai tầng với một khách sạn khổng lồ, có sân vận động, khu vui chơi và rạp chiếu phim có sức chứa năm ngàn người). Dường như rào chắn ngăn chặn sự bành trướng của con người do biển cả áp đặt cuối cùng đã sụp đổ; một thời đại mới xán lạn của những dự án kỹ thuật phi thường đã bắt đầu; nhiều người tới giờ mới nhận ra rằng họ đang trở thành Bá chủ Thế giới, và đó là nhờ những con sa giông đã bước vào kịch trường quốc tế đúng lúc, và có thể nói là, cũng là nhờ cả vào nhu cầu lịch sử nữa. Rõ ràng loài sa giông sẽ không phát triển lan tràn đến thế nếu như thời đại kỹ thuật của chúng ta không chuẩn bị sẵn cho chúng nhiều công việc cùng với nhiều nhu cầu tuyển dụng đại trà và dài hạn. Tương lai của những Lao động Biển cả này có lẽ đã được bảo đảm trong nhiều thế kỷ sắp tới.
Khoa học cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển ngành kinh doanh sa giông và nay đã nhanh chóng chuyển hướng sang nghiên cứu tâm sinh lý loài lưỡng cư này.
Chúng tôi dẫn lại ở đây bài tường thuật về một hội nghị khoa học ở Paris của một người tham dự ký tên tắt là R. D.:
1 er CONGRÈS DURODÈLES
HỘI NGHỊ SA GIÔNG LẦN I
Gọi tắt là Hội nghị Sa giông, tên chính thức đầy đủ của sự kiện này khá dài: Hội nghị Quốc tế lần thứ nhất các nhà Động vật học Nghiên cứu Tâm lý Loài lưỡng cư có đuôi. Tuy nhiên, không có dân Paris chính hiệu nào lại thích những cái tên dài cả thước như vậy, cho nên họ gọi những giáo sư uyên bác ngồi trong hội trường Đại học Sorbonne chỉ đơn giản là Messieurs les Urodèles , các vị sa giông. Thậm chí, có thể gọi ngắn gọn và bất kính hơn nữa: Ces Zoos-là , bọn sở thú.
Vì thế chúng tôi đến ngắm các Ces Zoos-là vì tò mò hơn là vì bổn phận ký giả. Sự tò mò này, độc giả thừa hiểu, không liên quan đến giới kinh viện ấy, những nhân vật đeo mục kỉnh và hầu hết đều già cả, mà là vì những… sinh vật (tại sao ngòi bút của chúng tôi lại ngần ngại khi viết từ “con vật”?) mà người ta đã viết quá nhiều về chúng trong cả những chuyên san khoa học lẫn báo chí bình dân; những sinh vật mà có người coi đó chỉ là trò bịp bợm của báo chí trong khi người khác lại cho rằng chúng, trong nhiều phương diện, còn tài giỏi hơn cả con người - kẻ vẫn tự nhận là Bá chủ Thế giới và Vua kiến tạo (ngay cả sau cuộc Đại Thế chiến và nhiều biến cố lịch sử khác). Tôi đã hy vọng các quý ngài danh tiếng lẫy lừng ở Hội nghị Nghiên cứu Tâm lý Loài lưỡng cư có đuôi này sẽ cho những người bình thường như chúng ta câu trả lời xác quyết rằng khả năng học hỏi được tán tụng quá mức của loài Andrias Scheuchzeri này, thực sự có thể dạt đến mức nào; rằng họ sẽ bảo chúng ta: đúng, đây là một sinh vật thông minh, hoặc chí ít chúng cũng có khả năng trở nên văn minh như bạn và tôi; do đó cần phải quan tâm đến tương lai cửa chúng, giống như chúng ta phải quan tâm đến tương lai của những chủng tộc từng bị xem là man di mọi rợ… Xin thưa quý độc giả, không hề có câu trả lời nào như thế; thậm chí một câu hỏi liên quan cũng không hề được nêu ra ở hội nghị này; bởi khoa học ngày nay đã quá… chuyên môn tới mức không màng đến những chuyện như vậy.
Vậy thì chúng ta sẽ thử tìm hiểu về lĩnh vực mà giới khoa học gia gọi là đời sống tâm lý của động vật. Quý ông cao dong dỏng với bộ râu dài như phù thủy đang bước lên diễn đàn kia chính là Giáo sư danh tiếng Dubosque; ông ta dường như đang đả kích một lý thuyết cố chấp nào đó của một đồng nghiệp cao quý, dù vậy chúng tôi thấy khó mà theo dõi được những lập luận của ông. Phải mất một lúc lâu sau chúng tôi mới nhận ra vị phù thủy hăng hái này đang nói về khả năng cảm nhận và phân biệt màu sắc của loài Andrias. Tôi không dám chắc mình đã thấu hiểu vấn đề, nhưng tôi có cảm tưởng là thị giác loài Andrias Scheuchzeri có phần bị mù màu, còn mắt của Giáo sư Dubosque kia thì nhất định phải cận thị cực nặng nếu xét theo cách ông ta đưa xấp giấy lên sát đôi mục kỉnh dày cộp, lấp lánh sáng lòe. Tiếp nối Giáo sư Dubosque trên diễn đàn là vị tiến sĩ tươi cười Okagawa người Nhật Bản; vị này nói gì đó về chu trình phản xạ và các hiện tượng khác nảy sinh khi cắt lìa một tuyến dẫn cảm giác nào đó trong bộ não con Andrias; sau đó ông ta mô tả các phản ứng của con Andrias khi phần tai trong của nó bị nghiền nát. Tới lượt Giáo sư Rehmann giải thích chi tiết về những phản ứng của con Andrias khi bị kích thích bằng điện, và rồi một cuộc tranh cãi nảy lửa nổ ra giữa vị này và Giáo sư Bruckner. C’est un type , đúng là quái lạ cái vị Giáo sư Bruckner này: nhỏ con, nóng nảy, và hăng hái tới mức đáng ngại; trong những gì ông ta nói có một điều ông khẳng định là các giác quan của con Andrias cũng yếu kém như các giác quan tương ứng của con người và cả hai đều có những thiên khiếu hạn chế như nhau; nếu xét hoàn toàn theo quan điểm sinh vật học, Andrias là loài động vật cũng thoái hóa như con người, và cũng như con người, nó cố bù đắp những khiếm khuyết sinh vật học này bằng cái gọi là trí thông minh. Tuy nhiên, các chuyên gia khác dường như không coi trọng phần trình bày của Giáo sư Bruckner, có lẽ vì ông ta không cắt lìa một tuyến dẫn cảm giác nào mà cũng không chích điện vào bộ não con Andrias nào. Kế tiếp là Giáo sư van Diäten, người từ tốn và gần như sùng kính trong lúc mô tả lại những biểu hiện rối loạn ở con Andrias sau khi bị cắt bỏ thùy thái dương bên não phải và thùy chẩm bên não trái. Sau đó là tham luận của Giáo sư Devrient người Mỹ…
Xin độc giả lượng thứ, tôi thật tình không rõ Giáo sư Devrient nói gì vì ngay lúc đó đầu óc tôi đang quay cuồng với ý nghĩ là Giáo sư Devrient sẽ có biểu hiện rối loạn nào nếu như tôi cắt bỏ thùy thái dương bên phải của ông ta; rồi vị tiến sĩ tươi cười Okagawa sẽ phản ứng ra sao nếu ông ta bị chích diện, và Giáo sư Rehmann sẽ có phản xạ gì nếu ai đó nghiền nát phần tai trong của ông. Tôi cũng bắt đầu hoang mang về khả năng cảm nhận màu sắc và tác động phản xạ “hệ số T” của chính mình. Nỗi hoài nghi giày vò tôi là liệu chúng ta (xét theo nghĩa khoa học thuần túy) có quyền gì để nói về đời sống tinh thần của chính mình (tức là của con người) khi chúngta còn chưa băm vằm thùy não hay chặt đứt tuyến dẫn cảm giác của nhau, có nên chăng, chúng ta lăm lăm dao mổ xông vào nhau để tìm hiểu đời sống tinh thần của kẻ khác? Về phần mình, tôi sẽ rất sẵn sàng vì lợi ích của khoa học mà nghiền nát đôi mắt kính của Giáo sư Dubosque hay chích điện vào cái đầu hói của Giáo sư Diäten, rồi đăng một bài về cách các vị này phản ứng ra sao. Nói thật, tôi có thể hình dung rõ mồn một cảnh tượng đó. Nhưng tôi lại khó lòng hình dung được cái gì đang diễn ra trong thế giới tinh thần của loài Andrias Scheuchzeri trong những thí nghiệm kiểu này mặc dù tôi có cảm tưởng là loài vật này hiền lành và có sức chịu đựng lên đến cực độ. Chẳng hề có một diễn giả danh tiếng nào nhắc tới chuyện loài Andrias Scheuchzeri tội nghiệp đó có khi nào trở nên hung bạo hay không.
Tôi tin chắc Hội nghị Loài lưỡng cư có đuôi lần thứ nhất là một thành tựu khoa học đáng chú ý; nhưng ngay khi có được một ngày nghỉ thì tôi sẽ tới vườn bách thảo Jardin des Plantes , đi thẳng tới bể nước nuôi con Andrias Scheuchzeri để nói thầm với nó rằng: “Này, sa giông ơi, rồi sẽ tới thời đại của mi… lức ấy xin mi đừng bao giờ nảy ra ý định nghiên cứu khoa học về đời sống tinh thần của những con homo sapiens , những con người nhé!’’.
Nhờ có giới nghiên cứu mà nhiều người đã thôi không xem những con sa giông là thứ gì đó kỳ lạ nữa; dưới ánh sáng khoa học loài vật này đã mất gần hết vầng hào quang lạ lùng và độc đáo nguyên thủy; khi đã trở thành đối tượng của những thí nghiệm tâm lý thì chúng bắt đầu trở nên tầm thường, không còn đáng chú ý nữa; những tài năng lạ lùng của chúng đã bị các nhà nghiên cứu tống khứ vào thế giới hoang đường. Khoa học đã xác định loài sa giông là tầm thường, là nhàm chán; chỉ có cánh báo chí là thỉnh thoảng phát hiện ra được một con Sa giông Thần kỳ, biết tính nhẩm phép nhân những số có năm chữ số chẳng hạn, nhưng ngay cả với trò đó, thiên hạ rồi cũng mau chán thôi, nhất là khi một người bình thường cũng làm được như thế nếu được đào tạo bài bản. Người ta chỉ đơn giản coi những con sa giông là vật tầm thường như cái máy biết làm tính hay các máy móc kỹ thuật khác; họ chẳng còn nghĩ chúng là thứ gì đó bí ẩn trồi lên từ đáy sâu thăm thẳm của đại dương và xuất hiện để làm gì thì chỉ có Chúa mới biết thôi. Ngoài ra, người ta có bao giờ xem một thứ phục vụ và mang lại lợi ích cho mình là một điều bí ẩn đâu; chỉ có cái gì đe dọa hay gây nguy hại mới là bí ẩn thôi; chứ còn lũ sa giông ư, nhờ chúng hết sức đa năng và hữu dụng nên loài người đã hoàn toàn chấp nhận chúng như một điều tất yếu trong trật tự tự nhiên và hợp lý này.
Đặc biệt, sự hữu dụng của loài sa giông đã được nhà nghiên cứu Wuhrmann ở Hamburg nghiên cứu, và đây chỉ là một trích đoạn ngắn từ nhiều báo cáo khoa học của ông về đề tài này:
BERICHT UBER DIE SOMATISCHE VERANLAGUNG DER MOLCHE
[BÁO CÁO VỀ KHUYNH HƯỚNG THỂ CHẤT CỦA LOÀI SA GIÔNG]
Thí nghiệm do chính tôi thực hiện trên cá thể loài Đại sa giông Thái Bình Dương ( Andrias Scheuchzeri Tschudi ) trong phòng thí nghiệm của mình ở Hamburg được tiến hành với một mục tiêu rất đặc biệt: kiểm tra khả năng chịu đựng của loài sa giông trước những thay đổi trong môi trường sống của chúng cùng các tác động ngoại vi khác, để từ đó chứng minh ích lợi thực tiễn của loài động vật này ở các khu vực địa lý đa dạng và trong các điều kiện môi sinh biến thiên.
Loạt thí nghiệm đầu tiên nhằm xác định xem loài sa giông có thể sống bao lâu khi bị cách ly với nước. Các đối tượng được giữ trong một cái bồn khô ráo ở nhiệt độ khoảng 40°- 50°C. Sau vài giờ, chúng thể hiện rõ các dấu hiệu mệt mỏi, nhưng nếu được tưới nước thì chúng sẽ hồi phục. Sau 24 giờ, chúng nằm bất động, chỉ có mi mắt là còn chớp; mạch đập chậm và mọi cử động cơ thể đều giảm tới mức tối thiểu. Các con vật rõ ràng là đau đớn và chỉ một cử động nhỏ nhất cũng khiến chúng tốn hao rất nhiều sức lực. Sau ba ngày, chúng chuyến sang trạng thái khô cứng toàn thân (xerosis) ; chúng không phản ứng ngay cả khi bị đốt bằng thanh nung điện cháy đỏ. Nếu độ ẩm của không khí tăng lên, chúng thể hiện các dấu hiệu sự sống ở mức thấp nhất (nhắm mắt trước nguồn sáng mạnh, v.v…) Nếu một con sa giông bị thiếu nước suốt bảy ngày rồi được quẳng xuống nước thì phải sau một thời gian dài nó mới hồi phục được; đa số các đối tượng đều chết nếu bị thiếu nước lâu hơn. Dưới ánh nắng trực tiếp, chúng sẽ chết chỉ sau vài giờ.
Trong một thí nghiệm khác, các đối tượng bị ép buộc phải quay cần trục trong bóng tối và trong môi trường rất khô ráo. Sau ba giờ, hoạt động của chúng bắt đầu suy giảm nhưng lại tăng lên sau khi được phun một lượng nước lớn. Nếu việc phun nước lặp lại thường xuyên, những con vật tiếp tục quay cần trục được 17, 20 hoặc, có một trường hợp, lên tới 26 giờ liên tục, trong khi đó một người được dùng làm chuẩn đối chiếu đã hoàn toàn kiệt sức chỉ sau 5 giờ thực hiện cùng một thao tác cơ học. Qua các thí nghiệm này chúng tôi có thể kết luận rằng loài sa giông rất thích hợp làm việc trên đất khô cạn nhưng với hai điều kiện: không được phơi dưới ánh nắng trực tiếp và thỉnh thoảng phải phun nước cho chúng.
Loạt thí nghiệm thứ hai là nhằm kiểm tra sức chịu đựng nhiệt độ lạnh của loài vật có nguồn gốc nhiệt đới này. Nếu làm lạnh nước đột ngột, các đối tượng sẽ chết vì viêm đường ruột; tuy nhiên nếu cho làm quen dần dần với môi trường lạnh hơn, các đối tượng sẽ thích nghi và sau tám tháng chúng vẫn còn linh hoạt trong nước có nhiệt độ 7°C, với điều kiện phải tăng thêm lượng mỡ trong khẩu phẩn cho chúng (150-200 gram mỗi con/suất ăn). Nếu nhiệt độ nước giảm xuống dưới 5°C, các đối tượng sẽ chuyển sang trạng thái tê cứng (gelosis) ; có thể đông lạnh chúng trong điều kiện này và lưu giữ trong một khối nước đá suốt nhiều tháng; khi cho nước đá tan và nâng nhiệt độ nước lên trên mức 5°C, chúng bắt đầu dấu hiệu hồi sinh và ở nhiệt độ 7°-10°C thì chúng sẽ hoạt động và tìm kiếm thức ăn. Như vậy, chúng tôi có thể kết luận rằng không có khó khăn gì với việc tập cho loài sa giông này thích nghi với khí hậu ở tận những khu vực như bắc Na Uy và Iceland. Với điều kiện ở vùng địa cực, cần phải tiến hành thí nghiệm thêm.
Mặt khác, các đối tượng tự tỏ ra nhạy cảm đáng kể với hóa chất; trong các thí nghiệm với dung dịch kiềm rất loãng, với các chất thải của nhà máy, với các chất thuộc da, v.v…, da của chúng bị tróc ra từng mảng lớn và các đối tượng tử vong vì một dạng viêm ở mang. Như vậy, xét đến điều kiện sông ngòi của chúng ta thì việc sử dụng lao động sa giông ở đây là bất khả.
Trong một loạt thí nghiệm khác, chúng tôi đấ xác định thành công thời gian sống sót của một con sa giông mà không có thức ăn. Có thể bỏ đói chúng ba tuần hoặc thậm chí lâu hơn mà chúng chỉ thể hiện trạng thái lờ đờ nhất định chứ không có dấu hiệu nào tệ hại hơn. Tôi đã bỏ đói một con sa giông suốt sáu tháng; sau ba tháng đầu tiên nó chuyển sang trạng thái ngủ liền tù tì và bất động hoàn toàn; cuối thời gian đó một miếng gan bằm nhỏ được thảy vào bồn nhưng con vật đã quá yếu nên không còn sức phản ứng gì và phải dùng tay đút cho nó ăn. Sau vài ngày nó lại ăn được bình thường, và có thể dùng nó cho những thí nghiệm khác.
Loạt thí nghiệm cuối cùng là nhằm kiểm tra khả năng phục hồi thương tích của loài sa giông. Nếu bị cắt đuôi thì đối tượng sẽ mọc đuôi mới trong vòng 14 ngày; thí nghiệm này được lặp lại bảy lần với cùng một con sa giông và luôn cho cùng một kết quả như nhau. Kết quả cũng tương tự nếu con sa giông bị chặt chân. Một đối tượng đã bị chặt cả đuôi lẫn tứ chi; và trong vòng 30 ngày nó sẽ mọc lại đầy đủ. Nếu đập vỡ xương đùi hay xương vai của một con, toàn bộ cái chân hay cái tay đó sẽ rụng đi và sẽ mọc chân tay mới thay thế. Kết quả cũng như vậy khi móc mắt hay cắt lưỡi đối tượng; điều đáng chú ý là trong trường hợp con sa giông mà tôi cắt lưỡi, nó mất khả năng ngôn ngữ khi mọc lưỡi mới và phải học lại từ đầu. Nếu một con sa giông bị cắt cụt đầu, hay thân thể nó bị cắt đôi bất kỳ đâu từ cổ tới xương chậu thì con vật sẽ chết. Ngược lại, có thể cắt bỏ bao tử, một phần ruột, hai phần ba lá gan hay các cơ quan khác mà không ảnh hưởng đến sự sống của con vật này; do đó chúng tôi có thể nói rằng một con sa giông hầu như đã bị moi hết bụng vẫn có thể tiếp tục sống. Không có động vật nào khác có thể chịu đựng được thương tích tới mức độ của loài sa giông. Hầu như không thể bị hủy diệt, khả năng này sẽ khiến nó trở thành con vật thượng hạng để sử dụng cho chiến tranh; tiếc thay, điều này lại mâu thuẫn với bản chất hiền hòa và không biết tự vệ của loài vật này.
–
Song song với các thí nghiệm này, trợ lý của tôi, ngài Tiến sĩ Walter Hinkel, đã nghiên cứu để xác định xem loài sa giông có giá trị như một nguồn nguyên liệu thô hay không. Đặc biệt ông đã phát hiệ