← Quay lại trang sách

Chương 9 Hội nghị Vaduz

Đúng là một cuộc chiến tranh kỳ cục, nếu quả thực có thể gọi nó là chiến tranh; bởi lẽ không hề có quốc gia sa giông hay Chính phủ sa giông nào được công nhận để có thể chính thức phát động chiến tranh đáp trả. Nước đầu tiên thấy mình trong tình trạng chiến tranh với sa giông chính là Anh Quốc, chỉ trong mấy giờ đầu tiên, sa giông đã đánh đắm gần như toàn bộ tàu bè của Anh đang buông neo trong hải cảng; họ không có cách gì chống trả được. Chỉ có những tàu đang ở ngoài khơi xa là tạm thời an toàn, chủ yếu là những tàu qua lại trên vùng biển sâu; nhờ vậy mà cứu được một phần hạm đội của Hải quân Hoàng Gia và các tàu này sau đó đã chọc thủng hàng rào sa giông phong tỏa ở Malta và tập trung trên vùng nước sâu ở biển Ionia; nhưng những đơn vị này cũng nhanh chóng bị các sa giông điều khiển tàu ngầm nhỏ phát hiện và bắn chìm từng chiếc một. Trong vòng sáu tuần lễ, vương Quốc Anh đã thiệt hại bốn phần năm hải lực.

Một lần nữa lịch sử lại cho Anh Quốc cơ hội thể hiện tính cách ngoan cường của họ. Chính phủ Anh từ khước đàm phán và không bãi bỏ lệnh cấm cung ứng mọi hàng hóa cho sa giông. Nhân danh toàn thể dân tộc, ngài Thủ tướng tuyên bố: “Một người Anh quý phái sẽ bảo vệ động vật chứ không mặc cả với chúng”, chỉ vài tuần sau, khắp Quần đảo Anh đã thiếu hụt thực phẩm trầm trọng, chỉ có trẻ em là mỗi ngày còn được nhận một lát bánh mì cùng mấy thìa trà hay sữa; dân tộc Anh chịu đựng với lòng can trường đáng khen, bất kể tình trạng thiếu thốn lương thực đã ngặt nghèo tới mức họ phải làm thịt hết ngựa đua để ăn. Đích thân Hoàng thái tử xẻ luống cày đầu tiên trên câu lạc bộ Golf Hoàng gia để trồng cà rốt cho trẻ mồ côi ở London. Ngay cả các sân quần vợt Wimbledon cũng bị cày xới để trồng khoai tây còn trường đua Ascot thành ruộng lúa mì. “Chúng ta có thể chịu đựng hết, kể cả những hy sinh lớn lao nhất”, người đứng đầu Đảng Bảo thủ tuyên bố trước Nghị viện, “nhưng chúng ta nhất định không bao giờ phản bội lại danh dự Anh Quốc”.

Các bờ biển của vương quốc Anh bị phong tỏa toàn bộ nên nước Anh chỉ còn một đường duy nhất để giữ liên lạc với các thuộc địa và nhận nguồn hàng tiếp vận là đường hàng không, “chúng ta cần thêm 100.000 máy bay nữa”, Bộ trưởng Hàng không tuyên bố, và bất kỳ ai may mắn còn có đủ chân tay thì phải dốc sức mình cống hiến cho mục tiêu này; nhiều chuẩn bị ráo riết được tiến hành để nhằm sản xuất được 1.000 máy bay mỗi ngày, nhưng sau đó thì Chính phủ của các cường quốc châu Âu lại can thiệp, họ kịch liệt phản đối vì làm thế là vi phạm cán cân quyền lực trên không; chính phủ vương quốc Anh buộc phải bãi bỏ kế hoạch và cam kết sẽ không chế tạo quá 20.000 máy bay và ngay cả số lượng này cũng phải rải đều ra sản xuất trong năm năm tới. Do đó, nước Anh buộc phải nhịn đói hoặc phải mua với cái giá cắt cổ các loại thực phẩm do máy bay của các nước khác chuyên chở tới; một ổ bánh mì giá mười shilling, một cặp chuột thịt giá một đồng vàng guinea, một hộp trứng cá caviar giá hai mười lăm bảng; đúng là thời cơ bằng vàng cho các ngành thương mại, công nghiệp và nông nghiệp của các nước trong lục địa.

Do các chiến hạm đã bị loại trừ ngay từ đầu cuộc chiến, các hoạt động quân sự chống sa giông phải tiến hành trên bộ và trên không. Quân đội nã đại bác và súng máy xuống biển nhưng dường như không gây thiệt hại nào đáng kể đối với quân sa giông, dù rằng bom thả từ máy bay xuống biển thường có vẻ hiệu quả hơn. Sa giông đáp trả bằng cách dùng các khẩu đại bác ngầm dưới nước pháo kích tan tành các hải cảng Anh. Từ cửa sông Thames, chúng thậm chí còn bắn phá London khiến ban chỉ huy quân sự thành phố phải cố đầu độc sa giông bằng cách trút vi khuẩn độc hại, dầu thô và các loại hóa chất ăn mòn xuống sông Thames cùng một số cửa vịnh. Sa giông phản công bằng một màn khói độc dọc theo 120 km bờ biển nước Anh. Đó chỉ là thử nghiệm vũ khí nhưng đã quá đủ; lần đầu tiên trong lịch sử chính phủ Anh buộc phải viện dẫn hiệp ước cấm sử dụng khí độc trong chiến tranh nhằm kêu gọi các cường quốc khác can thiệp giúp.

Đêm đó, giọng nói khói khàn khàn, nặng nề và tức giận của Lãnh tụ Sa giông lại vang trên làn sóng vô tuyến: “Hello quý vị con người! Anh Quốc phải chấm dứt trò ngu ngốc này đi! Nếu các người đầu độc nguồn nước của chúng tôi thì chúng tôi sẽ đầu độc bầu không khí của các người. Chúng tôi chỉ sử dụng đúng loại vũ khí của các người. Chúng tôi không phải quân man rợ. Chúng tôi không muốn gây chiến với các người, chúng tôi chỉ muốn được sống mà thôi. Chúng tôi đề nghị hai bên đình chiến. Các người sẽ cung cấp sản phẩm cho chúng tôi và bán đất đai cho chúng tôi. Chúng tôi sẵn sàng trả giá cao. Chúng tồi không chỉ đề nghị hòa bình. Chúng tôi còn đề nghị làm ăn. Chúng tôi sẽ mua đất đai của các người bằng vàng. Hello, chúng tôi đang nói với chính phủ Anh Quốc. Hãy ra giá phần đất phía nam Lincolnshire gần cửa vịnh The Wash, cho các người ba ngày suy nghĩ. Trong thời gian này tôi sẽ cho ngừng mọi hành động chiến tranh ngoại trừ việc phong tỏa”.

Đúng lúc đó tiếng đại bác đì đùng từ dưới nước không còn bắn lên các bờ biển nước Anh nữa. Mọi khẩu pháo trên bộ cũng im bặt. Sự im lặng kỳ lạ đến ma quái. Chính phủ Anh tuyên bố trước Nghị viện rằng họ không hề có ý định đàm phán với súc vật. Cư dân ở vùng vịnh The Wash và Lynn Deep được cảnh báo sẽ có nguy cơ sa giông mở cuộc tấn công lớn và dân chúng nên di tản khỏi các vùng bờ biển này và đi sâu vào nội địa; nhưng số lượng tàu hỏa, ô-tô và xe buýt đã sẵn sàng chỉ chuyên chở trẻ em và một số phụ nữ mà thôi. Mọi nam giới đều ở lại vị trí; trong đầu họ không thể chấp nhận ý tưởng rằng một người Anh Quốc lại có thể bị cướp mất mảnh đất mình đang sinh sống. Một phút trước khi kết thúc thời hạn ba ngày ngừng bắn; súng lại ầm vang; đó là tiếng đại pháo của trung đoàn Loyal North Lancashire Anh Quốc bắn trong tiếng nhạc bài hành khúc trung đoàn “Bông hồng đỏ”. Sau đó là một tiếng nổ kinh hoàng chấn động. Cửa sông Nene bị phá sập đến tận Wisbech và nước biển từ vịnh The Wash ào ạt tràn vào đất liền. Rất nhiều địa điểm danh tiếng đã sụp đổ dưới dòng nước, bao gồm di tích Tu viện Wisbech, lâu đài Holland và lữ quán George & Dragon. Ngày hôm sau, trả lời chất vấn trước Nghị viện, chính phủ Anh tuyên bố: “Quân đội đã làm tất cả để bảo vệ biên bờ tổ quốc; tuy nhiên không loại trừ khả năng sẽ tiếp tục có nhiều đợt tấn công khác sâu hơn và rộng lớn hơn trên lãnh thổ Anh; nhưng chính phủ Anh không chấp nhận đàm phán với một kẻ thù bất chấp tính mạng của thường dân và phụ nữ. (Đồng ý, đồng ý). Lúc này đây không chỉ là số phận nước Anh mà là toàn bộ thế giới văn minh đang lâm nguy, vương quốc Anh sẵn sàng cân nhắc tới những cam kết quốc tế nhằm khống chế những cuộc tấn công man rợ và khủng khiếp đang đe dọa tương lai của chính loài người”.

Mấy tuần sau, một hội nghị quốc tế nhóm họp ở Vaduz.

Hội nghị tổ chức ở Vaduz vì trên vùng cao núi Alps không hề có nguy cơ nào từ sa giông, và cũng vì hầu hết những nhân vật quyền lực nhất và có địa vị xã hội quan trọng nhất ở các nước ven biển đều đã chạy trốn lên đây. Hội nghị này, ai cũng công nhận, đã có những bước năng động để tìm ra giải pháp cho mọi vấn đề hiện hành của thế giới. Mọi quốc gia (ngoại trừ Thụy Sĩ, Afghanistan, Bolivia và một số nước nằm sâu trong lục địa) về nguyên tắc đều không công nhận sa giông như một quốc gia gây chiến độc lập, bởi nếu như vậy thì họ cũng phải công nhận số lượng sa giông riêng của mình là thành phần của quốc gia Sa giông; và không loại trừ khả năng là nếu công nhận một quốc gia Sa giông thì quốc gia này có thể đòi thực thi chủ quyền trên mọi vùng biển và bờ biển có sa giông ngụ cư. Vì lý do đó, về mặt pháp lý lẫn thực tiễn, không thể nào tuyên chiến chống lại sa giông, hay gây sức ép quốc tế đối với chúng; mỗi quốc gia chỉ có quyền can thiệp chống lại sa giông của chính nước mình mà thôi; tức, đây là vấn đề hoàn toàn nội bộ. Do đó không thể nói đến một chiến dịch quân sự hay ngoại giao chung nào nhằm chống lại sa giông. Quốc gia nào bị sa giông tấn công có thể nhận viện trợ quốc tế, chỉ dưới hình thức các khoản vay nước ngoài, để giúp quốc gia đó tự vệ mà thôi.

Sau đó, Anh Quốc đưa ra đề xuất rằng mọi quốc gia ít nhất cũng phải cam kết ngừng cung cấp vũ khí hay chất nổ cho sa giông. Sau khi cân nhắc kỹ, đề xuất này bị bác bỏ; thứ nhất, lý do là những ràng buộc tương tự đã có sẵn trong Công ước London rồi; thứ hai, vì không thể nào ngăn cản các quốc gia cung cấp cho sa giông ở các nước sở tại các thiết bị “chỉ dành cho nhu cầu riêng” và vũ khí để bảo vệ vùng duyên hải của mình; và thứ ba, các quốc gia ven biển “phải duy trì quan hệ hữu nghị với các cư dân của biển”, do đó “tạm thời tránh thúc đẩy bất kỳ biện pháp nào có thể khiến sa giông cảm thấy bị ức chế”; tuy nhiên mọi quốc gia đều sẵn sàng hứa sẽ cung cấp vũ khí và chất nổ cho bất kỳ quốc gia nào bị sa giông tấn công.

Trong một phiên họp riêng, đề xuất của đoàn Colombia được tán thành, đó là ít nhất phải có những cuộc đàm phán không chính thức với sa giông. Lãnh tụ Sa giông được mời gửi đại diện đến hội nghị này. Đại diện Anh Quốc phản đối dữ dội, quyết không ngồi chung bàn họp với sa giông; nhưng cuối cùng bằng lòng với cách dàn xếp là vị này tạm thời lánh mặt đi Engadin vì lý do sức khỏe. Đêm đó, tất cả các quốc gia ven biển đều đánh điện gửi Ngài Thủ lĩnh Salalamder lời mời chính thức xin cử đại diện đến Vaduz. Lời phúc đáp khọt khẹt là: “Được, lần này chúng tôi đến gặp các người; lần tới đại diện của các người sẽ xuống nước gặp tôi”. Sau đó là thông báo chính thức: “Các đại diện của sa giông sẽ đến ga Buchs bằng chuyến tàu Tốc Hành Phương Đông vào chiều ngày mốt”.

Mọi công tác chuẩn bị đón tiếp sa giông được tiến hành thần tốc; những buồng tắm sang trọng nhất thành phố được dành sẵn cho họ và một chuyến tàu đặc biệt được thuê chở nhiều bồn nước biển mang lên núi cho các đại diện sa giông. Buổi chiều ở Buchs chỉ có thể gọi là lễ đón tiếp không chính thức; có mặt ở đó là thư ký của các đoàn ngoại giao, đại diện các cơ quan chính quyền sở tại và chừng 200 ký giả, người chụp ảnh và quay phim. Đúng 6 giờ 25 phút, tàu Tốc Hành Phương Đông đến ga. Từ toa thượng hạng ba quý ông cao ráo, lịch lãm bước xuống thảm đỏ, theo sau là những viên thư ký trông hết sức bình thường, xách cặp táp dày nặng. “Thế sa giông đâu?”, có ai đó nói khẽ. Hai hay ba vị chức sắc bước tới ngập ngừng không chắc có nên đón tiếp ba quý ông kia không thì quý ông đi đầu đã hấp tấp nói khẽ: “Chúng tôi là đại diện của sa giông. Tôi là Giáo sư-Tiến sĩ van Dott từ La Hay. Maître Rosso Castelli, từ Paris. Tiến sĩ Manoel Carvalho, luật sư từ Lisbon”. Các vị chức sắc cúi chào và tự giới thiệu. “Hóa ra các ngài không phải sa giông”, viên thư ký người Pháp thốt lên. “Đương nhiên là không rồi”, Tiến sĩ Rosso Castelli đáp. “Chúng tôi là luật sư của họ. Xin lỗi, chắc mấy quý ông này muốn chụp ảnh”, và rồi đoàn đại biểu tươi cười của sa giông được cánh phóng viên tranh nhau chụp ảnh quay phim ào ào. Thư ký của các đoàn ngoại giao cũng tỏ ra hài lòng. Nói cho cùng, phía sa giông rất tế nhị và có lý khi phái đại diện là con người tới hội nghị, với con người thì chúng ta có thể nói chuyện dễ dàng hơn. Và tiện nhất là tránh được nhiều điều khó chịu trong giao tế.

Buổi tối cùng ngày, phiên họp với đoàn đại biểu sa giông đã diễn ra. Trong chương trình nghị sự là vấn đề làm cách nào khả dĩ nhanh nhất để phục hồi hòa bình giữa vương quốc Anh và sa giông. Giáo sư van Dott xin phép nói trước hội nghị: “Bằng chứng không thể chối cãi là vương quốc Anh đã tấn công sa giông; pháo hạm Erebus của Anh đã nổ súng vào chiếc tàu phát sóng vô tuyến của sa giông ngoài biển khơi; Bộ Hải quân Anh đã vi phạm quan hệ thương mại hòa bình với sa giông khi ngăn không cho tàu Amenhotep bốc dỡ số lượng chất nổ mà sa giông đã đặt hàng; và thứ ba, chính phủ Anh bằng việc nghiêm cấm không cho sa giông nhận bất kỳ nguồn cung ứng nào chính là nguyên nhân buộc sa giông phải phong tỏa. Sa giông không thể kiện những hành động thù địch này lên Tòa án La Hay vì công ước London đã phủ nhận quyền xin quốc tế phân xử; cũng không thể kiện lên Geneva vì sa giông không phải là thành viên Liên Hiệp Quốc; sa giông không còn cách nào khác hơn là buộc phải tự vệ. Tuy nhiên, Lãnh tụ Sa giông sẵn sàng chấm dứt các hành động chiến tranh, nhưng với các điều kiện sau: 1. Vương Quốc Anh phải xin lỗi sa giông về những vi phạm đã nói trên; 2. Bãi bỏ mọi lệnh cấm cung ứng hàng hóa cho sa giông; 3. Để bồi thường thiệt hại, Vương quốc Anh phải nhượng lại cho sa giông vùng châu thổ Punjab ở Ấn Độ để sa giông kiến tạo những vịnh và bờ biển mới ”. Chủ tịch hội nghị tuyên bố ông sẽ chuyển các điều kiện này cho người bạn cao quý của ông là người đại diện cho vương quốc Anh, hiện thời không thể dự họp; tuy nhiên ông không che giấu nỗi lo ngại rằng Anh Quốc sẽ thấy không chấp nhận được những điều kiện này; nhưng cũng hy vọng rằng đây có thể là khởi điểm cho những đàm phán tiếp tục.

Vấn đề kế tiếp là việc Pháp kiện việc sa giông gây ra nhiều vụ nổ dọc bờ biển Senegambia, và vì thế đã vi phạm chủ quyền thuộc địa của Pháp, về việc này, luật sư Paris lừng danh, Tiến sĩ Julien Rosso Castelli trả lời như sau: “Chứng minh đi!”, ông ta nói. “Giới chuyên môn quốc tế về địa chấn học đã nói vụ động đất ở Senegambia có nguồn gốc núi lửa và liên quan đến hoạt động của núi lửa Pico trên đảo Fogo. Tất cả ở đây”, ông vừa nói to vừa vỗ bồm bộp vào tập hồ sơ, “có đủ mọi chứng cứ khoa học của các chuyên gia. Nếu các ngài có bất cứ bằng chứng nào là trận động đất ở Senegam-bia là do các hoạt động của thân chủ chúng tôi gây ra thì tôi rất hân hạnh được biết”.

ĐẠI BIỂU BỈ, CREUX: Chính Lãnh tụ Sa giông của các ngài đã tuyên bố việc đó do sa giông gây ra.

GIÁO SƯ VAN DOTT: Tuyên bố ấy là không chính thức.

LS. ROSSO CASTELLI: Chúng tôi được thân chủ ủy quyền bác bỏ nội dung của tuyên bố đó. Tôi yêu cầu các chuyên gia kỹ thuật cho biết ý kiến về việc các phương tiện nhân tạo liệu có khả năng tạo ra một khe nứt sâu dài 67 km trên vỏ Trái Đất hay không. Tôi đề nghị họ nên thử tạo ra một khe nứt với quy mô tương tự. Thưa các ngài, nếu các ngài không có bằng chứng ngược lại thì chúng ta buộc phải nói theo hướng hoạt động núi lửa. Tuy nhiên, vịnh biển được tạo ra ở Senegambia sẽ phù hợp để cho một quần chủng sa giông định cư nên Lãnh tụ Sa giông sẵn sàng mua lại của chính phủ Pháp phần đất này. Chúng tôi đã được ủy quyền để đàm phán giá cả với chính phủ Pháp.

ĐẠI BIỂU PHÁP, BỘ TRƯỞNG DEVAL: Nếu việc này được xem như một đề nghị bồi thường thiệt hại đã gây ra thì chúng tôi sẵn sàng thảo luận.

LS. ROSSO CASTELLI: Rất tốt. Tuy nhiên chính phủ sa giông yêu cầu rằng hợp đồng mua đất nói trên bao gồm cả vùng Landes của nước Pháp, từ cửa sông Ginronde đến Bayonne, tổng diện tích 6.720 km vuông. Nói cách khác, Chính phủ sa giông sẵn sàng mua lại của Pháp khu vực ấy ở miền nam nước Pháp.

BỘ TRƯỞNG DEVAL (dân gốc Bayonne, đại diện cho Bayonne ở Quốc hội): Để cho quân Salamander các người lại biến một phần nước Pháp thành đáy biển sao? Không đời nào! Không đời nào!

LS. ROSSO CASTELLI: Nước Pháp rồi sẽ hối tiếc vì những lời nói của ngài, thưa ngài. Ngày hôm nay chúng tôi vẫn còn bàn chuyện giá cả mua bán.

Tới đây phiên họp tạm ngừng.

Chương trình nghị sự của phiên họp kế tiếp bàn về một đề nghị có tầm quan trọng quốc tế dành cho sa giông: thay vì phá hủy những lục địa đã ổn định và đông đúc dân cư, một điều không thể chấp nhận được, thì sa giông có thể tự xây dựng những đảo mới và bờ biển mới cho mình; trong trường hợp này sa giông bảo đảm sẽ được hưởng những khoản vay đáng kể để trang trải các chi phí; các lục địa mới và đảo mới sau đó sẽ được công nhận như lãnh thể độc lập và có chủ quyền quốc gia.

Tiến sĩ MANOEL CARVALHO, luật sư lừng danh từ Lisbon, bày tỏ lòng cảm kích với đề xuất này và ông sẽ chuyển chúng đến các thân chủ sa giông; nhưng ông nói, “ngay cả trẻ con cũng hiểu rằng xây dựng đất mới sẽ tốn nhiều thời gian và tốn nhiều chi phí hơn là phá hủy đất có sẵn. Thân chủ của chúng tôi đang cần có nhiều vịnh mới và vùng bờ biển mới càng nhanh càng tốt; đối với họ đó là vấn đề sinh tử. Tốt nhất loài người nên chấp nhận đề nghị hào phóng của Lãnh tụ Sa giông là mua lại thế giới của con người thay vì chiếm đoạt bằng vũ lực. Thân chủ cũng chúng tôi đã tìm ra phương pháp trích xuất vàng từ nước biển; cho nên họ có điều kiện hầu như vô tận có thể mua lại thế giới của con người với giá cao; rất cao nữa là khác. Các ngài đừng quên là, xét theo quan điểm của sa giông, giá trị của thế giới này sẽ sụt giảm theo thời gian, đặc biệt là - và điều này có thể hình dung trước - khi bất kỳ thảm họa kiến tạo hay núi lửa nào diễn ra trong tường lai đều có quy mô lớn hơn bất cứ những gì chúng ta đã từng kinh qua cho tới nay, và khi diện tích bề mặt của các lục địa đã thu nhỏ đáng kể. Hôm nay các ngài vẫn còn cơ hội bán thế giới này khi nó vẫn còn giá trị; khi Trái Đất không còn gì bên trên mặt biển ngoại trừ những ngọn núi hoang tàn thì một xu cũng không ai mua đâu”.

“Tôi đến đây với tư cách đại diện và cố vấn pháp lý cho sa giông”, Tiến sĩ Carvalho hăng hái, “và bổn phận của tôi là phải bảo vệ lợi ích của họ; nhưng tôi cũng là một con người như các ngài, kính thưa quý vị, tôi tha thiết vì sự an lạc của loài người chẳng kém gì các ngài. Chính vì thế tôi khuyên quý vị, đúng hơn, tôi khẩn nài quý vị: hãy bán hết các lục địa đi trước khi quá muộn! Bán sỉ toàn bộ hay bán lẻ từng quốc gia một. Lãnh tụ Sa giông, người mà giờ đây ai cũng biết là có tư duy hiện đại và hào hiệp, bảo đảm rằng trong tiến trình biến đổi bề mặt Trái Đất thiết yếu trong tương lai, Lãnh tụ sẽ bằng mọi cách bảo vệ nhân mạng; các lục địa chỉ bị ngập lụt theo nhiều giai đoạn và theo cách nào đó tránh gây hoảng loạn hay tạo ra những thảm họa không cần thiết, chúng tôi đã được ủy quyền để đàm phán hoặc là với toàn hội nghị quốc tế danh tiếng này hay với từng quốc gia riêng lẻ. Sự tham dự của những luật sư lỗi lạc như Giáo sư van Dott và Maître Julien Rosso Castelli chính là sự bảo đảm rằng chúng tôi không chỉ bảo vệ những quyền lợi đúng đắn của thân chủ sa giông mà còn sát cánh cùng các ngài để bảo vệ những điều quý giá nhất đối với tất cả chúng ta: nền văn minh nhân loại và những gì tốt đẹp nhất của loài người.

Trong bầu không khí có phần ngột ngạt, một đề xuất khác được đưa ra: có thể nhượng phần miền trung Trung Hoa cho sa giông dìm xuống đáy biển không; đổi lại sa giông phải cam kết vĩnh viễn không đụng tới các vùng bờ biển châu Âu cùng các vùng dân cư liên quan.

LS. ROSSO CASTELLI: “Vĩnh viễn” là một khái niệm trừu tượng. Ta hãy nói một thời hạn cụ thể là mười hai năm.

GS. VAN DOTT: Miền trung Trung Hoa không đủ rộng lớn. Ta phải nói cụ thể là các tỉnh An Huy, Hồ Nam, Giang Tô, Hà Bắc và Phụng Thiên.

Đại biểu Nhật Bản phản đối việc nhượng tỉnh Phụng Thiên vốn đang nằm trong vùng ảnh hưởng của Nhật.

Đại biểu Trung Quốc đứng lên phát biểu nhưng rủi thay không ai hiểu vị này muốn nói gì. Không khí bất an tăng dần trong phòng họp, lúc đó đã là một giờ sáng.

Ngay khi ấy viên thư ký của đoàn Ý bước vào, nói thầm gì đó vào tai người đại diện nước Ý, Bá tước Tosti. Bất kể Tiến sĩ Lý, đại diện Trung Hoa, vẫn còn đang nói, Bá tước Tosti tái mặt đứng dậy nói to, giọng khản đặc: “Thưa Chủ tọa, cho phép tôi nói. Vừa có tin là sa giông đã làm chìm ngập một phần khu vực Venice gần Portogruaro.”

Sự im lặng ghê sự kéo dài, chỉ trừ đại biểu Trung Hoa vẫn nói không ngừng.

“Lãnh tụ Sa giông đã báo trước các người chuyện này từ lâu rồi mà?”, Tiến sĩ Carvalho lầu bầu.

Giáo sư van Dott ngồi nhấp nhổm không yên rồi giơ tay phát biểu: “Thưa Chủ tọa, đề nghị chúng ta nên quay lại chủ đề đang thảo luận, chúng ta đang bàn về tỉnh Phụng Thiên. Chúng tôi đã được ủy quyền đề nghị bồi hoàn vùng đất đó cho chính phủ Nhật Bản bằng vàng, vấn đề kế tiếp là các quốc gia có lợi ích mật thiết ở khu vực này sẽ bồi hoàn những gì cho thân chủ chúng tôi để dọn sạch Trung Hoa”.

Đúng lúc đó, các tay chời vô tuyến điện đang lắng nghe bản tin sa giông. “Quý vị vừa thưởng thức khúc Barcarolle trích từ đĩa ghi âm vở nhạc kịch The Tales of Hoffmann”, tiếng sa giông xướng ngôn viên khọt khẹt. “Hello, hello, bây giờ chúng tôi đang chuyển tiếp sóng cho quý vị thông tin từ Venice…”

Và rồi những gì nghe được sau đó chỉ là tiếng rì rầm u ám, bất tận, như tiếng nước dâng cao, dâng cao.