← Quay lại trang sách

Ngày nổi gió 7h03

Thủ Quỹ trông giống Ben Kingsley.

Cái đầu dài và hói, đôi mắt kính tròn nhỏ, nụ cười ngoác miệng để lộ toàn bộ hai hàm răng chẳng khác nào những phím đàn và mấy nếp nhăn hằn sâu trên trán cũng thanh nhã chẳng khác nào các dòng kẻ trên khuông nhạc. Vả lại, Alpha có cảm giác rằng tất cả những gã bị giam cầm trong nhà tù đều giống với các diễn viên người Mỹ. Cậu đã nhìn thấy Bruce Willis đi ra từ nhà xí, một De Niro già nua nói chuyện một mình ở góc sân, một Robert Downey Jr và một Hugh Jackman tranh thủ thời gian đi dạo buổi sáng để tập cơ bụng.

Ben Thủ Quỹ lại gần, bám sát cậu, hai người đi cạnh nhau suốt vài mét dọc theo tường nhà tù, nơi khuất gió. Ông ta chỉ thốt lên ba từ, thậm chí không nhìn Alpha.

— Tao nghe đây.

Alpha thở ra một hơi trước khi lên tiếng. Cậu phải cân nhắc lời lẽ. Cậu biết rằng Thủ Quỹ, cũng như cậu, đã tự nguyện để mình bị tống vào tù, mặc dù với Alpha là vài giờ còn với Thủ Quỹ là vài năm. Bởi vì nhất định phải có ai đó ở bên trong để điều hành công việc, giống như những tập đoàn đa quốc gia cần gửi nhân viên đến tận vùng Mãn Châu xa xôi hoặc đến Arlit ở giữa sa mạc Sahara. Một số người, như Thủ Quỹ, chấp thuận, bởi việc này là tạm thời và được trả lương hậu hĩnh. Alpha trình bày kế hoạch của mình bằng vài câu vắn tắt, và chủ yếu là đưa ra các mật mã để lấy một hồ sơ lưu trữ trong một tài khoản Dropbox. Họ sẽ tìm thấy trong hồ sơ đó toàn bộ các chi tiết, kế hoạch tài chính, các đầu mối liên hệ, các kỳ hạn. Tất cả đã được dự kiến, mọi chuyện đã được chuẩn bị đâu vào đấy. Rồi Alpha nhấn mạnh đến các khoản lợi nhuận, những khoản lợi nhuận khổng lồ, nhưng phải tiến hành nhanh chóng.

Trái ngược với DeVito, Ben Thủ Quỹ có vẻ quan tâm ngay lập tức. Ông ta ném cho Alpha nụ cười của một ông chủ nhà băng. Chỉ thiếu nước ông ta bắt tay cậu mà thôi.

— Tôi sẽ truyền đạt lại. Chúng tôi sẽ nghiên cứu.

Alpha quyết định đẩy lợi thế đi xa hơn.

— Phải tiến hành thật sự nhanh. Con tàu sẽ không trống lâu đâu.

Vừa nói xong, cậu cảm thấy hối tiếc ngay lập tức. Ben đã tách ra xa. Cuộc trò chuyện kéo dài chưa đầy một phút. Thủ Quỹ là người đưa ra ý kiến cuối cùng.

— Chúng tôi không có thói quen lần chần. Ở chỗ chúng tôi, thông tin được truyền tải nhanh chóng. Nó đã được đưa lên rồi. Mọi chuyện sẽ được giải quyết trong sáng nay.

7h04

Cảm ơn.

Chỉ hai từ đó, chỉ thoáng thốt ra, chỉ được thì thầm trong một hơi thở, cứ lặp đi lặp lại mãi trong tiềm thức của Jourdain Blanc-Martin. Khi ông bật máy vi tính lên, chính xác là vào lúc 7 giờ sáng nay, ở nền màn hình, tại vị trí của bức ảnh quen thuộc chụp con tàu Marité ngoài khơi bán đảo Port-de-Bouc, hiện lên khuôn mặt mẹ ông. Ông phải mất vài giây mới hiểu, trước khi nhớ ra rằng ông đã lên chương trình cho việc này từ nhiều tháng trước, để không quên ngày.

Cách đây mười năm, không sai một ngày, mẹ ông đã thiếp ngủ trong vòng tay ông, trên chiếc giường lớn tại nhà của bà Sausset-les-Pins, đại lộ Côte-Bleue, nằm đối diện quần đảo Frioul. Bình lặng. Thanh thản, giống như một ngôi sao nhỏ nhòa đi vào buổi sớm để nhường chỗ cho ánh sáng. Có lẽ là hạnh phúc hơn bất cứ thời khắc nào trong đời bà.

Cảm ơn, bà đã thì thầm với ông trước khi nhắm mắt để cho bóng tối len vào.

Cảm ơn con, Jordy.

Đó là những lời cuối cùng của mẹ ông, Blanc-Martin thầm nghĩ. Đó cũng là lần cuối cùng có một người gọi ông bằng tên thật của ông.

Jordy.

Từ khi mẹ ông ra đi, mọi người đều gọi ông là Jourdain. Sáu trăm nhân viên của ông, mười lăm thành viên trong hội đồng quản trị, ba đứa con trai và vợ ông.

Blanc-Martin gửi lại chỉ dẫn lần thứ ba cho nữ thư ký. Đừng quên gửi một vòng hoa đến nghĩa trang Saint-Roch và một vòng hoa nữa đến buổi lễ mixa sẽ được tổ chức lúc 11 giờ tại nhà thờ Saint-Cézaire.

Mặc dù đã ra sức lục lọi trong tận cùng trí nhớ, ông vẫn chỉ giữ được rất ít kỷ niệm về thời tuổi trẻ khi sống cùng mẹ. Vài hình ảnh và âm thanh của những cuộc biểu tình nơi mẹ ông đưa ông đến, khi đó ông vẫn còn bé tẹo, đứng trên đại lộ Canebière, một thằng nhóc đứng dưới ngọn cờ của Tổng Liên đoàn Lao động Quốc tế. Annette Blanc là một nữ chiến binh tích cực, một chiến sĩ, một phụ nữ dấn thân vì lý tưởng bị cuốn theo luồng gió phản kháng xã hội. Một hồng nhân! Bà càng nhiệt huyết bao nhiêu thì cha ông, Bernard Martin, lại càng mờ nhạt bấy nhiêu. Trung lập. Không quan tâm đến chính trị. Người theo chủ nghĩa bỏ phiếu trắng. Chẳng đấu tranh cho điều gì, coi mọi thứ là hư vô sau khi các công trường tàu biển ở Port-de-Bouc bị đóng cửa. Jordy đã lớn lên trong tình cảnh mắc kẹt giữa biển và những tòa chung cư ở Les Aigues Douces, học cấp hai ở trường trung học Victor-Hugo và học cấp ba ở trường trung học Frédéric-Mistral. Trong những buổi gặp gỡ giữa phụ huynh và giáo viên, nơi chỉ có mẹ ông có mặt, để la hét, ông là thằng nhóc không được mọi người nhớ đến. Jordy ư? Jordy gì nhỉ? Jordy Martin à? Cô chờ nhé… Thằng nhóc mà giáo viên bình luận về những điểm số, không đến nỗi tệ cho lắm, nhưng không nhớ được giọng nói của nó.

Jourdain ngắm nghía bức ảnh chân dung mẹ ông suốt nhiều giây liền, rồi cuối cùng cũng mở tập tin văn bản ra. Mọi thứ trong biệt thự Lavéra đều im ắng. Ông có chút thời gian trước khi Safietou mang bữa sáng đến. Nếu ông tập trung, khoảng thời gian này là đủ để vạch ra những nét chính trong bài diễn văn mà ngày mai ông phải phát biểu để khai mạc hội nghị chuyên đề của Frontex tại lâu đài Pharo. Cơ quan châu Âu này, để mua sự trong sạch cho mình, đã áp dụng chiến lược mạo hiểm là giao phó bài diễn văn mở đầu hội nghị cho các tổ chức tư nhân.

Toàn quyền hành động.

Blanc-Martin sẽ không làm họ thất vọng…

Tuy nhiên, ông vẫn để mình lơ đãng một lát trước khi gõ những từ đầu tiên trên bàn phím, lúc đầu là đưa ánh mắt thèm muốn về phía bể bơi, rồi nhìn sang hàng hiên bằng gỗ teak và quang cảnh trên bến cảng. Jourdain thích so sánh vũng tàu Port-de-Bouc với phần hàm của một con mãnh thú. Từ trên cao biệt thự của ông, ảo ảnh đó thật thuyết phục: mỏm con đê chắn sóng uốn vòng tạo thành một cái răng nanh hoàn hảo, trong khi các vũng cảng, bến du thuyền ở phía Bắc, bến tàu dầu ở phía Nam, vươn ra vùng vịnh hé mở chẳng khác nào những chiếc răng sắc nhọn. Sáng nay gió đã nổi lên. Ông vẫn ngồi, đấu tranh chống lại mong muốn được đi ra kiểm tra xem Escaillon, Maribor và các tàu khác trong bến có được neo buộc chắc chắn không.

Bài diễn văn khai mạc của ông sẽ theo kiểu truyền thống và phổ thông. Nó sẽ làm vui lòng những người đứng đầu các tổ chức địa phương và làm yên lòng các khách mời quốc tế. Jourdain sẽ nhắc nhớ đến giai đoạn mùa hè năm 1947 khi mà Port-de-Bouc được đưa lên trang nhất của thời sự quốc tế, khi mà 4.500 người tị nạn, những người Do Thái, những người thoát khỏi thảm sát Holocaust, bị trục xuất khỏi tàu Exodus, đã bị người Anh quây nhốt ở đây, trên ba tàu-nhà tù, suốt ba tuần, trong những điều kiện phi nhân đạo sẽ khiến cả thế giới phải choáng váng.

Blanc-Martin không nhấn mạnh đến trang sử này, mà sẽ thu hút sự chú ý vào sợi dây đoàn kết tự phát được các cư dân Port-de-Bouc tổ chức, mẹ ông thuộc nhóm những người phụ nữ tích cực nhất, vượt xa thái độ chần chừ của chính quyền Pháp và chính quyền Anh. Mặt khác, có lẽ chính ông đã thành lập Vogelzug, tại đây, ở Port-de-Bouc này, là nhằm tưởng nhớ đến thời kỳ đã được khắc ghi vào ký ức cộng đồng này. Ông sẽ dẫn dắt sang một bài học đạo đức hơi ngây thơ, nhưng sẽ được đánh giá cao bởi các chính khách lãnh đạo dựa trên kết quả điều tra. Thông thường, ông sẽ khẳng định bằng cách lấy ví dụ về chủ nghĩa anh hùng hàng ngày của người dân Port-de-Bouc, những người đàn ông và phụ nữ luôn khẳng định không muốn chia sẻ lãnh thổ của mình với người di cư, người tị nạn, lại là những người đầu tiên ra tay giúp đỡ những người ngoại quốc chìa ra bàn tay tuyệt vọng khi chỉ còn cách miền đất hứa của họ vài mét. Như thể chủ nghĩa phân biệt chủng tộc công khai của họ chỉ là chiếc áo giáp mà họ khoác lên mình để chống lại chính bản chất hào hiệp của họ. Bắt đầu bằng một bài học về lòng nhân đạo. Tất cả mọi người sẽ vui lòng, từ ông thị trưởng Port-de-Bouc đến các đại diện của Thổ Nhĩ Kỳ, của đảo Síp và của Hungari.

Ông mỉm cười khi đọc lại những ghi chép đầu tiên, rồi nhăn nhó khó chịu. Ông lưỡng lự đôi chút về cụm từ phân biệt chủng tộc, ông những muốn tìm ra một cụm từ khác thích hợp hơn để chỉ nỗi sợ hãi trước những người tị nạn. Ông khó mà tập trung được. Sáng nay, ngày giỗ của mẹ ông đã đưa ông trở lại nhiều năm về trước.

Jordy Martin.

Tháng chín năm 1971, ông ghi danh vào đại học Luật Aix-Marseille. Trong tiết luật hiến pháp đầu tiên, trong số hai trăm sinh viên, Jordy không nhận ra bất cứ thanh niên nào ở Port-de-Bouc. Ông có cảm giác rằng tất cả các sinh viên khác đều xuất thân từ những khu phố giàu có và những vùng sang trọng, từ Aix hoặc từ phía Nam Marseille, rằng cái tên cũng như xuất thân của ông khiến ông không bao giờ được nằm trong số mười lăm sinh viên sẽ ra khỏi mô hình đào tạo hình phễu năm năm sau, trong túi là một tấm bằng thạc sĩ quốc tế hoặc một suất thi công chức cấp cao. Khi giảng viên cho cả lớp chuyền tay nhau danh sách ghi tên vào các tiết học thực hành, Jordy chỉ viết tên riêng của mình bằng nét chữ gần như không thể đọc nổi.

Jordy trở thành Jourdain.

Cũng trên tờ danh sách đó, ông đã ghép họ của cha mẹ mình, hai người chưa từng kết hôn, Annette Blanc và Bernard Martin. Thật lạ lùng, chỉ cần kết hợp hai cái họ ngớ ngẩn đó lại là có một cái họ mới thật kêu, chẳng khác nào một dòng họ lãnh chúa.

Kể từ lễ khai giảng năm 1971 ấy, và với tất cả những người ông gặp từ đó về sau, ông sẽ là Jourdain Blanc-Martin.

Jourdain say mê quyền trẻ em, các nạn nhân chiến tranh và nạn nhân của các thảm họa tự nhiên, những người không có giấy tờ tùy thân. Ông nhanh chóng tự thuyết phục mình rằng người ta có thể trở nên giàu có khi chuyên tâm vào quyền của những người nghèo khổ ngang với khi chuyên tâm vào ngành luật kinh doanh. Vài năm sau, khi mới đang làm thạc sĩ về Quyền con người và Luật nhân đạo, ông đã thành lập tổ chức Vogelzug.

Blanc-Martin chăm chú nhìn lần cuối vào một điểm tưởng tượng ở phía biển, rồi lại chúi mũi vào màn hình. Sau phần mở đầu đầy trịnh trọng này, các khách mời của Frontex hẳn sẽ chờ đợi ông mạnh mẽ lên án những kẻ đưa người vượt biên, hàng vài chục tỷ thu được từ việc buôn người da đen này, hàng ngàn người chết đuối trên biển Địa Trung Hải.

Ông sẽ không phục vụ họ cái điệu hát nhàm tai đó! Họ không cần đến ông vì điều đó, những bảng tính được phân phát trong tập hồ sơ dành cho người tham dự hội nghị đầy ắp những con số này đến mức khiến người ta buồn nôn. Frontex có đặc quyền lạ lùng là được Liên minh châu Âu giao cho nhiệm vụ đánh giá các vấn đề liên quan đến người di cư… và giải quyết chúng. Nói cách khác, cơ quan này xác định mức độ rủi ro, phục vụ cho việc đàm phán ngân sách, đã nhân gấp bảy trong mười năm, để có thể mua bổ sung cho mình vài chiếc máy bay hoặc trực thăng. Tuy nhiên, ông sẽ tránh việc tấn công trực diện cơ quan Frontex, trong phòng hội nghị hẳn sẽ có vài chục chiến binh sẵn sàng tố cáo quá trình tư nhân hóa và xu hướng trở thành một cơ quan bán quân sự của nó. Ông muốn đón nhận ý kiến của họ bằng việc trích dẫn câu nói tất yếu của Stefan Zweig. Ông thường xuyên dùng nó, và nó luôn mang lại tác động nhất định.

Không điều gì có thể khiến tình trạng thụt lùi khủng khiếp mà thế giới đã phải chịu đựng từ Thế chiến thứ nhất trở nên rõ rệt hơn là những hạn chế đặt ra với tự do của con người. Trước năm 1914, trái đất từng thuộc về tất cả mọi người. Ai muốn đi đâu tùy ý và có thể ở lại đó lâu chừng nào anh ta muốn.

Sau đó, ông sẽ chuyển ý bằng cách nhắc nhở rằng nhân loại từng vẫn sống mà không cần hộ chiếu. Con người chỉ sáng tạo ra mảnh giấy đó nhân Thế chiến thứ nhất, đồng thời cam kết là sẽ hủy bỏ nó ngay khi hòa bình được lập lại. Lời hứa đó đã trở thành chủ đề tranh cãi từ lâu của Hội Quốc Liên, rồi của Liên Hiệp Quốc, trước khi bị vĩnh viễn chôn vùi vào những năm 1960. Việc tự do di chuyển của con người trên trái đất này, cái quyền cơ bản, có tính lịch sử và đã tồn tại hàng ngàn năm đó chỉ trở thành một ảo tưởng trong vòng chưa đầy năm mươi năm trở lại đây, và ngay cả những người theo lý tưởng chủ nghĩa nhiệt thành nhất cũng không còn tin vào nó nữa.

Một cái tát đích đáng vào những ý tưởng đã được đưa ra! Ông sẽ xoáy sâu thêm cái đinh bằng cách nhấn mạnh rằng số người di cư thực tế trên hành tinh này vẫn ổn định từ nhiều năm nay, chiếm khoảng 3% dân số thế giới, ít hơn khoảng ba lần so với thế kỷ 19. Một nghịch lý trong một xã hội toàn cầu hóa, nơi mọi thứ đều di chuyển nhanh hơn và xa hơn so với các thế kỷ trước, từ tiền bạc, thông tin, năng lượng cho đến văn hóa. Tất cả. Tất cả trừ con người. Trừ đa số nhân loại. Hiện nay, các chính thể dân chủ đang dựng nên những bức tường. Một căn bệnh truyền nhiễm thực sự kể từ ngày 11 tháng Chín năm 2001. Những bức tường không phải là để che chắn, mà là để sàng lọc. Để phân loại, để sàng lọc con người thành những người được mong muốn và những kẻ không ai muốn dung nạp. Không có biên giới nào bị quân sự hóa, đắt đỏ và làm chết nhiều người hơn là biên giới giữa Mỹ và Mexico, trong khi mỗi năm vẫn có hàng vài chục triệu phương tiện giao thông đi lại giữa Tijuana và San Diego.

Jourdain đọc lại bài viết, và rất thích thú. Sáng nay, ông thấy mình thật trữ tình. Thậm chí ông còn tự hỏi liệu mình có thể tiến xa hơn không, bằng việc đề xuất hủy bỏ, một cách đơn giản và thuần chất, các đường biên giới. Không còn biên giới và không còn người nhập cư bất hợp pháp. Vấn đề đã được giải quyết! Frontex sẽ chẳng còn tác dụng gì. Đó là một thực tế được chứng minh ở mọi nơi, và đặc biệt là với sự sụp đổ của bức tường Berlin hoặc việc lập ra khối Schengen: Con người càng tự do di chuyển, họ càng ít đến sống ở nơi khác hơn.

Ông ngước mắt lên. Chỉ riêng ông mới có thể cho phép mình đẩy sự khiêu khích đi xa đến thế. Với Vogelzug, ông đã xây dựng một đế chế cũng mơ hồ chẳng khác nào Frontex. Tình trạng di cư bất hợp pháp đã nuôi sống vài trăm nhân viên và hội đồng quản trị của ông. Gia đình ông. Một cuộc sống rất ổn.

Ở chân trời, xa ngoài mũi Carro, ông nhìn thấy vũng Côte Bleue, những ngọn đồi phủ rợp bóng cây,nơi ẩn mình của thôn trang Sausset-les-Pins mà ông tặng cho cha mẹ mình vào năm 1995. Một trang viên trên sườn đồi, nơi chỉ riêng phòng tắm cũng rộng hơn căn hộ của họ ở Les Aigues Douces. Phải khó khăn lắm mẹ ông mới chấp thuận sự xa hoa đó. Nhưng con trai Jordy bé nhỏ của bà thì rất tự hào. Từ chối món quà khủng này cũng có nghĩa là coi thường thành công của ông. Bà đã sống một mình ở đó chín năm, sau khi cha ông mất, bị quật ngã bởi một cơn tai biến mạch máu não, trên bến nổi nơi ông cụ đang câu cá.

Cùng với cái chết của cha mẹ, cậu bé Jordy cũng chết theo.

Xuất phát từ tay trắng, leo lên đến nấc thang tít trên cao. Ánh mắt ông lướt trên dãy chung cư của Les Aigues Douces, quay ra biển nhưng lại bị ngăn cách với phần còn lại của thành phố bằng một mê cung tạo bởi những ngõ cụt. Sự thăng tiến mà các con của ông sẽ không bao giờ biết đến, cho dù trong vài tháng hoặc vài năm nữa, Geoffrey sẽ thừa kế ghế chủ tịch tổ chức. Ông ngồi thẳng dậy trên ghế rồi khó chịu ước lượng độ cao của hàng rào bảo vệ biệt thự, những bức tường bao quanh khu vườn, giống hệt với những bức tường bảo vệ tòa nhà của các con trai ông, ở Eguilles, Cabriès, Carry-le-Rouet. Sinh ra ở tít trên cao. Được rào kín để ở lại trên đó.

Jourdain xem đồng hồ. Ông cho bản thân nửa giờ nữa để viết thêm. Ông vẫn còn nhiều điểm cần đề cập. Những chủ đề gây tranh cãi cần tháo gỡ. Sự bất ổn trong xã hội Pháp là do sự xuất hiện của vài trăm ngàn người tị nạn chăng? Bốn triệu người Liban đã đón nhận, trên lãnh thổ nhỏ xíu có mật độ dân cư gấp sáu lần mật độ dân cư của nước Pháp, một triệu rưỡi người Syria. Một thảm họa cho nền tài chính công ư? Tất cả các nhà kinh tế học đều thống nhất khẳng định rằng việc đón nhận người lao động nước ngoài là một cơ hội cho nền kinh tế, rằng lực lượng này sẽ mang lại nhiều hơn chi phí mà các nền kinh tế phải bỏ ra cho họ. Vì họ đã được đào tạo. Và còn chưa nghỉ hưu.

Jourdain Blanc-Martin đang chuẩn bị bóp chết thêm một sự thật sai lệch khác thì bị bản Adagio của Barber cắt ngang. Ông lấy điện thoại di động từ trong túi ra.

Petar. Petar Velika.

Một dự cảm không lành khiến cổ họng ông nghẹn lại. Chắc chắn là viên thiếu tá cảnh sát không gọi cho ông vào giờ này để thông báo rằng ông ta đã tóm được ả sát nhân giết François Valioni. Ông đứng dậy và ngắm nghía làn gió mistral đang làm các vỏ tàu trong cảng Renaissance rung lắc.

— Ông Blanc-Martin?

— Chính ông ta đây.

— Tôi sẽ không vòng vo đâu. Chúng tôi. Chúng tôi lại có một xác chết mới… Jean-Lou Courtois. Nghi thức vẫn giống hệt như đã làm với Valioni. Bị trói. Mạch máu cổ tay bị cắt. Tìm thấy trong một phòng ở khách sạn Red Corner. Lần này là phòng Caravansérail và…

— Các ông không cử người mai phục trước của khách sạn sao? – Blanc-Martin ngạc nhiên hỏi.

— Có chứ, đương nhiên là có rồi. Ông sẽ thấy chuyện này thật khó tin nhưng…

— Dù sao đi nữa. – Vị chủ tịch cắt ngang, không thèm quan tâm đến những lời biện minh của viên cảnh sát. – Jean-Clou Courtois không còn làm việc cho Vogelzug nữa. Từ gần hai mươi năm nay rồi. Hẳn lý do này đủ để tổ chức của tôi không phải dính vào tất cả những chuyện này nữa. Tôi trông cậy vào ông đấy, Velika a.

8h21

Gió thổi sập cánh cửa sổ phòng Caravansérail ở khách sạn Red Corner, cánh cửa mà Petar Velika đã yêu cầu mở ra. Cách duy nhất, theo viên thiếu tá, để khỏi tin rằng mình vừa bị dịch chuyển vào sa mạc. Ông đứng bên cửa sổ tầng bốn một lát, cửa sổ này trông ra vùng ngoại vi và khu thương mại, rồi quay trở vào căn phòng có trần bằng vải và những bức tường bằng cát. Serge Tisserant, viên quản lý khách sạn, đứng trước mặt ông, trang phục vẫn chỉnh tề không chê vào đâu được. Bên dưới mái lều theo kiểu phương Đông, hai chân lún sâu trong lớp thảm dày, trông ông ta chẳng khác nào một viên chức thuộc địa có trách nhiệm thông báo với đám người Ả Rập du cư rằng người ta vừa tìm thấy dầu dưới lòng đất và họ sẽ phải biến đi chỗ khác.

— Phòng của các khách sạn Red Corner trên khắp thế giới thực sự là giống hệt nhau sao? – Petar hỏi.

Tisserant gật đầu.

— Cho tôi xem nào. – Viên thiếu tá nói. – Nếu chúng ta phải đương đầu với một ả giết người hàng loạt mỗi sáng lại để lại cho chúng ta một xác chết ở khắp bốn phương trên hành tinh này, chỉ bằng cách đổi phòng mỗi tối, tôi muốn thử hình dung xem cô ta sẽ đi săn mồi ở đâu vào ngày mai.

Ông quay sang trung úy Julo Flores, anh đang ngồi trên chiếc ghế đôn bọc vải thêu, ngoan ngoãn chờ lệnh cấp trên.

— Trong lúc tôi dạo một vòng quanh cơ ngơi này, cậu chuẩn bị cho tôi bản tóm tắt chi tiết nhé?

Julo sững sờ nhìn theo viên thiếu tá đang đi xa dần. Petar đã quàng một tay qua vai viên quản lý và trò chuyện với ông ta như thể ông ta là một nhân viên môi giới bất động sản.

— Thế nào, Serge, hãy cho tôi biết xem, có phải trong phòng Sen hồng, các bức tường đều được phủ tranh khắc gỗ tả cảnh khiêu dâm của Nhật Bản, còn các ngăn kéo thì chất đầy bóng Benwa không? Còn trong phòng Carioca, ta sẽ tìm thấy cả loạt quần lọt khe, quần lót dây và đủ loại quần lót khác? Đưa tôi đi thăm đi, anh bạn, cho tôi thấy tất cả những thứ đó.

Nửa giờ sau, Petar quay trở lại, một mình. Ông đến gặp Julo quầy bar khách sạn Red Corner, kéo ghế và ngồi đối diện với viên cảnh sát phụ tá. Viên trung úy đặt một chai nước lên bàn, đặt cốc trước mặt ông.

— Thế nào rồi?

Julo trình bày một bản tóm tắt ngắn gọn. Thông tin tiếp tục được thu thập ngay lập tức. Nạn nhân, Jean-Lou Courtois, có vẻ là một ông bố không điều tiếng gì, rất tích cực tham gia các hoạt động cộng đồng, là chủ tịch của một hiệp hội trợ giúp các cha mẹ có con bị hội chứng Down. Mối liên hệ duy nhất giữa ông ta với François Valioni là Vogelzug, ông ta đã làm việc cho tổ chức này trong gần mười năm, trước khi từ chức.

Petar Velika im lặng không nói gì.

— Còn đâu thì. – Julo nói tiếp. – Kịch bản của vụ giết người này giống hệt vụ Valioni. Bác sĩ pháp y sẽ gửi báo cáo đầu tiên cho chúng ta trong sáng nay. Chúng tôi đang kiểm tra băng ghi hình của các camera giám sát để xem có phải là cùng cô gái đó không.

Lần này, ánh mắt Petar sáng lên. Ông quay đầu về phía cửa ra vào của khách sạn Red Corner nơi hạ sĩ Taleb đang gà gật. Taleb đã cắm chốt trước của khách sạn Red Corner cả đêm. Chẳng ích gì. Làm sao họ có thể hình dung được rằng ả sát nhân tìm ra cách giết hại nạn nhân của mình trong phòng Caravansérail mà không đi vào qua cửa duy nhất của khách sạn?

— Thưa thiếu tá. – Julo cắt ngang, hơi lớn giọng thêm một chút. – Dù thế nào, hiện trường vụ án cũng cho chúng ta thấy hai điểm mới rõ rệt so với vụ sát hại François Valioni. Tôi nói chi tiết cho ông nghe nhé?

— Tôi nghe đây.

— Trước hết, chúng tôi đã tìm thấy những mảnh thủy tinh vỡ trên tấm thảm, gần xác Courtois. Nhóm cảnh sát khoa học cho rằng đây là một món đồ trang sức nhỏ, một thứ không có giá trị, nhưng họ vẫn chưa tái tạo được hình dáng của nó.

— OK, họ sẽ gọi cho chúng ta sau khi kết thúc trò chơi ghép hình. Thế còn manh mối thứ hai của cậu?

— Máu. Jean-Lou Courtois đã cắn được vào kẻ sát nhân. Vào bàn tay, theo các bác sĩ pháp y. Chúng tôi đã tìm thấy máu trên quần áo, trên môi và trên răng cửa của ông ta. Trộn lẫn với máu của chính ông ta. Đương nhiên, chúng tôi sẽ chuyển toàn bộ những thứ này đến cơ quan lưu trữ dấu vân tay quốc gia, nhưng tôi không quá tin rằng ADN đó sẽ giúp chúng ta lần ra cô ta.

— Ờ. Thế cậu tin vào cái gì, anh chàng ranh mãnh?

— Nhóm máu của cô ta. Mất chưa đầy năm phút để biết.

— Thế thì sao?

— AB. Một trong những nhóm máu hiếm nhất. Nó chỉ chảy trong huyết mạch của 4% dân số thế giới.

— Tuyệt vời… Như thế chúng ta chỉ còn lại chừng vài triệu nữ nghi phạm.

Trung úy Flores xem đồng hồ, uống cạn cốc nước, cầm cái chai rồi phác cử chỉ như sắp đứng dậy.

— Tôi không muốn hối thúc ông, sếp ạ, nhưng mười lăm phút nữa chúng ta có hẹn ở Trung tâm Al Islâh. Tôi rất tiếc, lần này tôi không có thời gian đi mua cà phê Starbucks cho ông.

— Chết tiệt. – Viên thiếu tá thốt lên. Làm sao tôi có thể qua nổi một ngày nếu không có món Kati Kati Ethiopia?

Julo vừa đứng dậy vừa mỉm cười. Thiếu tá Velika đi theo anh bằng bước chân rề rà, rõ ràng ông không mấy thích thú với việc đi gặp một chuyên gia về châu Phi cổ, lại càng không thích khi ông không phải là người quyết định nơi hẹn. Giờ mà các giảng viên đại học lại còn bắt đầu giở bài của các ngôi sao bận rộn thì… Trong khi họ đi bộ trên vỉa hè hướng về phía chiếc Renault Safrane, Julo nhân khoảng im lặng để đưa ra thông tin cuối cùng.

— Chúng tôi đã kịp kiểm tra máy tính xách tay của Jean-Lou Courtois. Cách thức tạo lập mối liên hệ cũng giống như cách tiếp cận Valioni. Ông ta đã có thời gian trò chuyện dài với nữ sát nhân giả định của mình trên Facebook, từ nhiều tháng nay, bằng tin nhắn riêng. Chính cô ta là người tìm đến ông ta.

— Dù sao cũng không phải bằng cái biệt danh Bambi13 chứ?

— Không. Lần này, cô ta lấy tên là Faline95.

— 95? Tỉnh Val-d’Oise? Không hẳn là cánh cửa bên cạnh Marseille.

— Trừ phi 95 không phải là con số của tỉnh, mà là năm sinh của cô ta. Hai mươi mốt tuổi, cũng phù hợp đấy chứ.

Petar dừng lại trước chiếc Safrane màu xanh da trời mạ kim loại.

— Phù hợp với cái gì? Làm sao cậu có thể chắc chắn rằng ả Faline95 này cũng chính là cô người yêu bé nhỏ của cậu, Bambi13?

Đến lượt Julo dừng lại trước chiếc xe, phía ghế hành khách, và chăm chăm nhìn cấp trên.

— Ông biết ai là Faline không, thiếu tá?

— Không hề… Một nữ ca sĩ à?

— Một con hươu cái, thưa sếp.

Velika nhìn Julo với vẻ lạ lùng, và nhắc lại như thể ông chưa nghe rõ:

— Một con hươu cái ư?

— Faline chính là bạn tình của Bambi.

— Mę kiếp…

Viên thiếu tá đứng vững một lát đằng trước chiếc xe cảnh sát, rồi, đột nhiên, ném chìa khóa xe cho viên phụ tá.

— Lái đi, Sherlock! Chúng ta sẽ chơi lớn. Tôi gọi Ryan để yêu cầu anh ta chính thức tìm thông tin về Bamby Maal, để anh ta kiểm tra xem họ đã thả tự do cho em trai cô ta chưa, và nhất là để anh ta sắp xếp cho chúng ta gặp Leyli, mẹ của hai thiên thần đó. Lần này, Cục Cảnh sát hình sự sẽ trải thảm đỏ cho chúng ta.

8h27

— Mở mắt ra, Tidiane!

— Không cần đâu ông ơi!

Khi cụp mi mắt lại, ngay sau lúc đi qua bùng binh, Tidiane nhận ra rằng không cần nhìn cậu cũng có thể tìm đường đến tận trường học. Não bộ cậu đã ghi nhận toàn bộ từ khi cậu còn nhỏ, mà thậm chí cậu còn không nhận ra điều đó. Tiếng bước chân cậu vang lên trên lớp sỏi khi cậu băng qua công viên, tiếng chim hót trên những cây ô-liu trồng dọc đại lộ Jean-Jaurès, cho đến mùi bánh tỏa ra từ tiệm bánh mì ở góc đại lộ Pasteur. Chờ đèn đỏ. Lắng nghe những chiếc xe hơi dừng lại. Đi sang đường.

— Mở mắt ra, Tidiane!

Tidiane không cho ông ngoại Moussa cầm tay. Dù thế nào, cậu cũng cần một tay để ôm quả bóng, còn tay kia để quờ quạng trong bóng tối trước mặt. Tuy nhiên, cậu vẫn để cho ông ngoại đặt một tay lên vai cậu để dẫn cậu sang đường.

— Chú ý vỉa hè nào, cháu yêu!

Tidiane nhấc chân lên. Thật dễ dàng bước đi trong bóng tối nếu ta chú ý đến từng tiếng động. Cậu đã nghe thấy tiếng la hét của lũ trẻ từ xa, trong sân trường. Cậu chỉ còn phải đi dọc phố. Cậu nghe thấy ông ngoại bước đi bên cạnh, hình dung hai cánh tay ông chìa ra sẵn sàng túm lấy cậu, như khi người ta canh chừng những bước chân đầu tiên của một em bé.

Một em bé.

Tidiane không muốn bạn bè nhìn thấy cậu trong cảnh này cho lắm. Khi ước chừng còn khoảng vài chục mét nữa là đến cổng trường, rốt cuộc cậu cũng mở mắt ra.

Thành công rồi! Cậu đang đứng trước đúng số nhà 12, ngôi nhà có chuồng chim ở ban công.

Lần này, ông ngoại túm lấy cổ tay giữ cậu lại.

— Chú nhóc này, lẽ ra ông không bao giờ nên kể cho cháu nghe chuyện mặt trời đã khiến mẹ cháu bị mù mới phải!

— Nhờ có ông, ông ngoại Moussa ạ, cháu sẽ mạnh mẽ như mẹ. Cháu sẽ rèn luyện cho đến khi nhận biết được mùi như một chú chó chăn cừu, nhìn được trong bóng tối như một con mèo, di chuyển trong bóng tối như một con chuột nhắt.

Ông ngoại chỉnh lại cổ áo sơ mi cho đứa cháu.

— Thế chuyện đó có ích gì cho cháu?

— Nó sẽ giúp cháu tìm ra kho báu của mẹ. Rồi sau đó là bảo vệ nó…

Người ta nghe thấy những tiếng la hét từ phía bên kia bức tường. Tiếng một quả bóng đập vào gạch. Tidiane ôm siết lấy quả bóng mà cậu đang kẹp ở nách. Lần này, cậu sốt ruột muốn gặp lại các bạn. Ông ngoại trìu mến nhìn cậu, nhưng vẫn không buông tay cậu.

— Ông đã từng như cháu, Tidiane ạ. Giống như cháu ở tuổi cháu. Trong đầu ông chỉ có toàn những chuyện về kho báu.

Tidiane vươn cổ ra, tò mò.

— Cả mẹ của ông cũng có một kho báu sao?

— Không, không phải mẹ ông. Mà là ông nội ông. Một kho báu mà không người nào có thể bảo vệ được. Nếu người ta không đánh cắp mất kho báu đó, có lẽ đã không có bất kỳ điều bất hạnh nào xảy ra với chúng ta.

Những tiếng la hét bùng lên trong sân trường. Một trong hai đội vừa ghi bàn. Lần này, Tidiane không thể ngăn mình chạy về phía cổng trường.

Hai mắt mở to.

— Tối nay ông sẽ kể chuyện đó cho cháu nghe, ông ngoại Moussa nhé!

9h17

Noura đứng vững trước mặt Ruben.

— Ông trả lương gấp đôi cho tôi sao?

Người quản lý khách sạn Ibis quan sát cô gái trẻ người châu Phi, đôi mắt tròn xoe. Như cô đã thông báo với ông, cô chỉ đến vào lúc 9 giờ sáng, nét mặt bơ phờ, mái tóc xoăn xù lên như một phù thủy đang đi tìm cái chổi. Cô bận rộn chừng mười lăm phút, trước khi giận dữ lao đến trước quầy.

— Ôi nào, nữ thần của tôi, có chuyện gì không ổn sao?

Noura là một tạo vật lạ lùng. Hoạt động bằng pin. Ban đêm, cô hát và nhảy, mang đến niềm vui cho các khách trọ bất hợp pháp. Ban ngày, cô đi đi lại lại trong hành lang và các phòng của khách sạn Ibis, tai nghe úp chặt vào tai, chẳng khác nào một cỗ máy chạy điện đang được sạc pin. Sáng nay, đôi tai nghe lủng lẳng quanh cổ cô.

— Chuyện không ổn, Ruben ạ, là về lý thuyết mà nói, chúng tôi có hai người làm công việc quét dọn!

Noura là một tạo vật kỳ lạ… và hay ghen. Cô thường than thở là có quá nhiều việc ở Ibis, nhưng lại không thể chịu đựng được việc ông nhận Leyli vào làm, lại càng không chịu được việc người mới đến này có kinh nghiệm hơn và làm tốt hơn cô. Nghị lực hơn, sống động hơn, hiệu quả hơn. Và đỉnh điểm của mọi sự, Leyli lại còn xinh xắn và vui vẻ, thuộc loại người có thể đốt nóng trái tim của đàn ông mặc dù không tỏ vẻ gì là như thế. Một người có khả năng tỏa sáng.

— Cô bé dịu dàng của ta ơi, Leyli đã đến nhận ca làm việc từ 6 giờ sáng nay. Cô ấy đi bộ, đi bộ suốt một giờ vì không có xe buýt lúc sớm như thế, cô ấy đã phải nhờ người trông giúp thằng bé con, cô ấy…

— Chẳng liên quan gì đến đời sống riêng của chị ta hết. Nếu chị ta ở đây, thì phải làm việc, chấm hết.

Noura thở ra một hơi dài, rồi, như thể có một thông báo Pin yếu đang nhấp nháy trong não, cô chụp tai nghe lên rồi bỏ đi, tay nắm chặt chổi.

Ruben tìm thấy Leyli ngồi trên giường phòng 23. Chị đang khóc. Dưới chân chị, đống ga trải giường và khăn tắm màu trắng khiến người ta có cảm giác chị đã dùng hết cả vài kilo khăn mùi soa. Trước khi Ruben kịp thốt ra lời nào, Leyli đã quay mặt về phía ông.

— Tôi bị triệu tập đến Sở Cảnh sát Port-de-Bouc. Chiều nay. Lúc 16 giờ.

— Tại sao?

— Lần này là chuyện liên quan đến Bamby. Họ… họ đang tìm kiếm con bé…

— Thế còn Alpha?

— Nó đã gửi tin nhắn cho tôi. Nó được ra rồi. Sáng sớm nay. Sớm hơn dự kiến.

— Thế còn con gái cô, Bamby. Con bé đang ở đâu?

Nước mắt lại tiếp tục chảy, lúc đầu là lăn chầm chậm dọc theo hai gò má Leyli, rồi đột ngột rơi xuống thành những viên bi nhỏ trên tạp dề bằng nhựa màu xanh và vỡ tan trên đùi chị. Ruben không hỏi lại câu vừa rồi, ông chỉ nói thêm:

— Nếu con gái cô gặp vấn đề, tôi có thể giúp con bé.

Leyli đã cho ông xem ảnh các con. Bamby rất xinh, xinh như Noura, vóc dáng mảnh mai, thân hình như được tạo ra để khiêu vũ, những đường cong như được vẽ nên để lắc mình uyển chuyển, một cần cổ bằng đồng để cất lên giọng nói trầm ấm, đôi môi như quả đào mộng mịn màng như nhung.

Ruben ngồi xuống bên cạnh Leyli.

— Sáu tiếng nữa mới đến giờ cô bị triệu tập. Chúng ta vẫn còn thời gian… Cô có muốn một cốc cà phê không?

Leyli đồng ý.

— Tôi mang từ đảo Halmahera ở Indonesia về đấy. Ba xe bò cà phê mà những người theo chủ nghĩa độc lập đã tặng cho tôi sau khi tôi bí mật chứa chấp lãnh đạo của họ, Johan Teterissa, trong vòng ba mươi sáu tháng, ông ta bị toàn bộ quân cảnh ở Djakarta truy tìm.

Leyli mỉm cười. Ruben đứng dậy đi lấy mật hoa Moluques trong văn phòng ông.

— Khi tôi quay trở lại. – Ông vừa nói vừa quay về phía Leyli. – Cô sẽ kể chuyện cho tôi nghe. Cuộc đời cô còn thú vị hơn cuộc đời tôi rất nhiều.

Leyli không nói gì, nhưng sự im lặng ấy có nghĩa là chị không tin chắc về điều đó. Ruben nhìn thẳng vào mắt chị, không thể giấu nổi chút sầu não.

— Ít nhất, cô cũng không bịa ra nó.

Leily - 6

Tôi cập bến ở Tanger vào tháng chín năm 1994. Nadia đã giúp tôi liên hệ với Caritas Maroc, một tổ chức chăm sóc cho các phụ nữ có thai. Nhiều phụ nữ di cư từ Hạ Sahara có thai trước cả khi tới được châu Âu. Phần lớn là sau khi bị cưỡng hiếp, những người khác thì ngược lại, họ đã tìm cách để quan hệ tình dục vào thời kỳ rụng trứng, phương pháp tốt nhất để đàn ông không còn đụng chạm đến họ trong suốt chín tháng. Một lợi thế khác, khi các trại tập trung dành cho người nhập cư bất hợp pháp bị nhà cầm quyền Maroc hoặc Algeria dỡ bỏ, phụ nữ được ưu tiên chăm sóc bởi các tổ chức xã hội, nhờ thế họ tránh được việc bị lục soát, bị đánh đập, bị tiếp tục hãm hiếp trong các nhà tù ở các đồn biên giới trong sa mạc. Dòng người chờ đợi gồm toàn các phụ nữ có thai kéo dài ở Caritas Maroc, nhưng những người mù, cũng giống như những người bị cụt chân tay, có may mắn là được ưu tiên.

Tôi đã kể lại câu chuyện của mình, chỉ không tiết lộ những thứ chứa trong chiếc túi Adidas mà tôi không bao giờ rời khỏi tay. Nó chứa tiền, nhiều tiền, tiền của tôi. Nhưng không chỉ có thế. Phần còn lại, phần chiến lợi phẩm thuộc về Adil mà tôi mang theo, tôi sẽ không bao giờ kể với bất kỳ ai, kể cả ông, Ruben ạ. Tôi sẽ chỉ nói với ông rằng tôi không thể vứt bỏ nó, nhưng cũng không thể tiêu nó. Thế đấy, Ruben ạ. Không có kho báu nào lại không đi kèm với lời nguyền.

Với các nữ y tá của Caritas Maroc, tôi nhắc đi nhắc lại chẳng khác nào một con điên rằng tôi muốn được phẫu thuật giác mạc. Một ca ghép giác mạc. Tôi có tiền. Tôi kể rằng gia đình tôi đã tiết kiệm tiền cho việc này. Tôi tin rằng Caritas đã điều tra đôi chút để xác minh câu chuyện của tôi. Thế là tôi biết được rằng Adil Zairi không phải là người tình như tôi vẫn tưởng. Anh ta rất quen thuộc với các mạng lưới người di cư, chơi trò hai mặt với tổ chức hỗ trợ người tị nạn, và kiếm thêm bằng cách đưa người di cư bất hợp pháp. Những cô gái khác cũng gục ngã trong vòng tay anh ta, tất cả cuối cùng đều trở thành gái điếm, rồi bị bỏ rơi, nhưng không có ai ở lại lâu như tôi. Có thể bởi vì anh ta yêu tôi nhiều hơn những cô gái khác chăng? Có thể bởi vì tôi mất nhiều thời gian hơn để hiểu ra sự thật hiển nhiên đó chăng? Không ai biết anh ta ra sao. Có còn sống không, hay đám buôn lậu đã ném xác anh ta xuống cảng Sousse.

Tôi không quan tâm. Tôi chỉ có một nỗi ám ảnh. Sáng mắt trở lại trước khi sinh con. Nhìn thấy con tôi ra đời. Tôi đã cầu xin vị bác sĩ phẫu thuật chịu trách nhiệm thực hiện ca ghép giác mạc cho tôi. Đó là một người đàn ông có giọng nói đanh thép và the thé, giống như giọng của một con chó nhỏ được cưng chiều. Tôi khóc lóc, nguyền rủa, nhưng ông ấy chỉ cần nói vài lời đã khiến tôi bình tâm trở lại.

— Việc đó quá nguy hiểm cho đứa bé.

Ông ấy nói về việc gây tê tại chỗ, về những rủi ro tiềm ẩn liên quan đến đào thải miếng ghép, nhiễm trùng, chảy máu.

Tôi chỉ ghi nhớ được một điều.

Việc đó quá nguy hiểm cho đứa bé.

Tôi sinh con ngày 27 tháng Ba năm 1995, tại bệnh viện Bouregreg ở Rabat. Bác sĩ Roquet đã đồng ý mổ mắt cho tôi bốn tuần sau đó, vẫn tại Rabat. Ca mổ kéo dài hơn một giờ, gần bốn mươi phút cho mỗi bên mắt. Nếu ông biết tôi đã hét vào mặt bác sĩ như thế nào khi biết được điều đó. Thậm chí không gây mê toàn thân, không cần đến một tuần nằm viện. 90.000 dirham cho hai cú rạch dao mổ!

Quá nguy hiểm cho đứa bé, ông ấy đã khẳng định như thế.

Tôi đã giận bác sĩ Roquet rất nhiều. Con tôi ngủ cạnh tôi, trong nôi của nó, từ khi ra đời, thế mà tôi không biết trông nó như thế nào. Tôi cho nó bú, thay tã cho nó, tắm cho nó, hôn nó, làn da mềm mại và thơm tho của nó khiến tôi hạnh phúc đến phát điên, mặc dù không biết làn da đó có màu gì.

Tuy nhiên, vị bác sĩ phẫu thuật đã nói đúng, tôi chỉ hiểu ra điều đó sau ca phẫu thuật.

Thứ đầu tiên mà tôi nhìn thấy, khi mở mắt ra, đó là Bamby.

Sau đó tôi hoàn toàn có thể nhắm mắt mãi mãi. Chỉ hình ảnh duy nhất đó đã đủ cho suốt phần đời còn lại của tôi.

Bamby, kho báu của tôi, sắc đẹp của tôi, phép mầu của tôi. Đứa con yêu dấu của tôi.

Vài tuần sau, tôi quay về sống ở Ségou, cùng với cha mẹ tôi, các anh chị em họ của tôi và hàng xóm. Với một phần số tiền còn lại, tôi mua một ngôi nhà nhỏ gần bờ sông.

Bamby lớn lên. Một bông hoa trên cát. Yếu ớt. Như thể làn da sáng màu của một đứa bé lai da trắng khiến nó trông mỏng manh hơn đám con gái và con trai cùng tuổi. Như thể nó thiếu mất tấm áo giáp màu mun. Bamby ghê sợ làn nước đỏ son của dòng sông, ghét nhìn thấy váy của nó bị vấy bẩn vì đất sét, sợ đến tái người khi một con lạc đà đi qua. Hoàn toàn trái ngược với tính cách giống hệt con trai của tôi khi ở vào tuổi nó.

Bamby ngay lập tức thích đi học. Khoảng năm chục học sinh ngồi chen chúc trong phòng học duy nhất, các giờ học chỉ diễn ra vào buổi sáng và một bà giáo già nói tiếng Bambara nhiều hơn là tiếng Pháp phụ trách giảng bài. Không có trường nào khác trong vòng ba mươi kilomet xung quanh.

Dần dần, ý tưởng điên rồ đã nảy mầm.

Lại ra đi. Sang châu Âu. Đưa con gái tôi đến đó.

Tôi đã đến châu Âu, tôi đã sượt tay vào nó, ở Marsala, ở Marseille, ở Almería. Tôi không nhìn thấy gì ở bờ bên kia của Địa Trung Hải, nhưng tôi biết nơi đó. Ở Ségou, chúng tôi nhận được thư từ và một chút tiền của những người chị họ sống ở Montreuil, trong vùng Paris. Tôi chỉ có những ký ức mơ hồ về các chị ấy. Những cô bé không được lanh lợi lắm tôi từng chơi cùng khi còn nhỏ. Theo thư của các chị ấy, họ làm việc tại tòa thị chính, họ kiếm được nhiều ngàn franc mỗi tháng (thậm chí tôi không dám tính xem số tiền tương đương bằng đồng CFA là bao nhiêu), đến thư viện cùng gia đình, đi xem phim ở rạp chiếu phim.

Nếu hai cô nàng Nalo và Binetou ngốc nghếch đó thành công, nếu họ tặng được cho con mình tương lai như thế, vậy nhân danh điều gì mà tôi lại phải từ bỏ? Tôi đã vượt biên được một lần, khi còn bị mù. Tôi sẽ thành công lần thứ hai, khi đã sáng mắt. Nếu mọi chuyện diễn ra tốt đẹp, vì tôi vẫn còn khá nhiều tiền cho việc này, tôi có thể để Bamby lại cho bố mẹ tôi và vào châu Âu trong vài tuần. Khoảng thời gian để tìm được một việc làm, một chỗ đứng, rồi tôi sẽ đưa Bamby đến ở cùng. Ở Pháp, con bé sẽ có cơ hội. Con gái tôi là một bông hoa quá mong manh mọc lên trong sa mạc. Cứ ở đây, cuối cùng nó sẽ trở thành xương rồng. Ở Pháp, nó có thể trở thành hoa hồng, hoa diên vĩ, hoa lan.

Càng nghĩ về chuyện đó, quyết tâm của tôi càng trở nên mạnh mẽ, như một điều hiển nhiên.

Tôi phải tìm cách vượt biên vì Bamby. Ở lại chính là bỏ rơi nó. Tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho mình về chuyện đó. Có thể ông sẽ thấy kỳ lạ, Ruben ạ, khi tôi lập luận như thế, khi nghĩ rằng lại bên con gái tôi lại chính là bỏ rơi nó. Nhưng bởi vì ông đã đi rất nhiều nơi, hẳn ông phải hiểu rõ rằng tôi không phải là người duy nhất, rằng trên thế giới có hàng ngàn hàng vạn người mẹ không cam chịu, ở châu Phi và ở nơi khác nữa, những người mẹ cũng cảm thấy sự gấp gáp giống như tôi, những người đã chấp nhận hy sinh giống như tôi. Để con mình ở lại để tặng cho nó cơ hội có được một cuộc sống tốt đẹp hơn. Thậm chí không phải là một cuộc sống tốt đẹp hơn. Một cuộc sống khác, đơn giản thế thôi. Lần thứ hai mang đến cho chúng cuộc sống.

Chuyến đi tốn 3.000 franc. Khởi hành từ Tombouchou, băng qua Sahara, đến Nador, rồi cắm trại trong rừng ở Gourougou, vài kilomet phía trên Melilla, miền đất của Tây Ban Nha lọt giữa Maroc, trước biển Địa Trung Hải. Vào thời kỳ đó, người ta còn chưa xây dựng những bức tường quá cao, không có nhiều binh lính người Tây Ban Nha như hiện nay. Ít ra là những người dẫn đường kể với chúng tôi như thế. Ceuta và Gibraltar bị đóng cửa, nhưng Melilla thì không, có thể đi qua được. Một khi đã vào đến Melilla, ta đã ở châu Âu, ta đã được cứu sống.

Bố mẹ tôi, dù ông có tin hay không, Ruben ạ, thậm chí còn không tìm cách ngăn cản tôi. Họ biết rằng tôi chấp nhận mạo hiểm nhân danh tất cả. Vì món tiền mà tôi sẽ gửi cho họ từ Pháp. Rằng một ngày nào đó, tôi có thể đưa cả họ đến nữa.

Tôi muốn miễn cho ông những chi tiết của vụ băng qua sa mạc thì hơn, Ruben ạ, bốn ngàn kilomet đường mòn đi bằng xe boulboule, loại xe thay thế cho lũ lạc đà một bướu, mười hai người ngồi chen chúc nhau bên dưới những tấm bạt, ban đêm nhiệt độ xuống dưới 0 và ban ngày trên 50 độ, những cảnh thiếu nước, những bi-đông xăng chôn trong sa mạc và phải tìm kiếm trong nhiều giờ, thời gian chờ đợi dài đằng đẵng ở Gao, ở cánh cửa sa mạc, rồi hành trình đến Kidal. Chiếc xe boulboule bị hỏng và chặng đường mà chúng tôi phải tiếp tục đi bộ trong vùng Adrar ở Ifoghas. Những người bạn đồng hành bị bỏ lại vì họ bị đau bụng hoặc bị sốt rét. Trong tổng số ba mươi lăm người khởi hành, chỉ còn lại mười chín người đến được Tinzakuten để vượt biên sang Algeria.

Tinza, nước cộng hòa của người di cư bất hợp pháp, thành phố biên giới nơi chen chúc những người di cư từ Nam Sahara, những người mới đến gặp những người bị trục xuất, mỗi đợt cảnh sát Algeria tống khứ cả mấy trăm người. Chờ đợi nhiều ngày giữa những chiếc xe tải, lại trả tiền cho những người đưa đường vượt biên lần nữa, thoát khỏi đám binh lính lần theo những con đường mòn bằng trực thăng, chuồn theo hướng Tamanrasset, thủ đô của sa mạc. Rốt cuộc cũng được ngủ lại đó vài đêm dưới một mái nhà; đổi sang một chiếc xe khác cũ hơn nhưng có biển đăng ký ở Algeria, thương lượng tại mỗi chốt kiểm tra để ra khỏi thành phố, lần nào cũng phải trả tiền, cho đến khi các đội tuần tra thưa dần. Cuối cùng, đi thẳng về hướng Bắc, nhắm đến sa mạc, hai ngàn kilomet không ngừng nghỉ, kể cả để uống nước, chỉ dừng chốc lát để đi vệ sinh, các tài xế thay nhau lái cả ngày lẫn đêm. Bốn ngày kinh hoàng thêm vào chuỗi ngày trước đó, chỉ có những người đàn ông khỏe nhất mới sống sót được, Ruben ạ, chỉ có những người phụ nữ khỏe nhất, giá như người Pháp có thể hiểu được điều đó. Bốn ngày tra tấn tưởng gãy cả lưng và cổ, ngủ trong cáu ghét và mặc cho gió cuốn mùi nước tiểu và mùi mật đi, để rồi cuối cùng cũng đến được Oujda, trước ngưỡng cửa Maroc.

Chờ đợi, còn lâu hơn thời gian chờ đợi ở Tinza. Dốc tiền cho những người xa lạ, chuẩn bị tinh thần hàng đêm, và đột nhiên bị đánh thức. Chúng tôi khởi hành, đi bộ, chúng tôi có cả thảy mười lăm người, được tháp tùng bởi đám lính biến chất, về hướng Nador, phía Nam Melilla, cách đó một trăm năm mươi kilomet. Sáu ngày đi bộ qua Rif, nỗi sợ thường trực trong lòng, sợ rằng những người dẫn đường sẽ bắn một viên đạn vào lưng chúng tôi trên bờ một con kênh, sợ gặp phải những chiếc xe jeep của quân cảnh Maroc và thế là mọi chuyện chấm hết. Nỗi mệt mỏi không thể chịu nổi cơn điên rồ thúc đẩy ta sống sót, niềm hy vọng kỳ cục khiến chúng ta hoang tưởng, cho đến khi cuối cùng ta cũng đến được khu rừng Gourougou, ngọn núi nhỏ có rừng bao phủ nhô lên phía trên Melilla và Địa Trung Hải. Khách sạn của những người di cư bất hợp pháp, như những người di cư vẫn thường gọi. Khu rừng-ký túc. Cánh cửa thiên đường. Châu Âu cách đó chưa đầy một kilomet, chỉ cần vượt qua một bức tường cao ba mét, nhưng những người lẩn trốn trong rừng phải mất nhiều ngày để chuẩn bị cho các vụ tấn công, để đẽo sào, để thu thập thang. Không thể thất bại khi đã đến sát đích như thế. Hàng ngàn người di cư, gần như tất cả đều xuất thân từ Hạ Sahara, Bờ Biển Ngà, Congo, Gabon, tìm kiếm kẽ hở. Chờ đợi thời điểm thích hợp. Một đội quân đầy quyết tâm.

Những cánh cửa thiên đường, Ruben ạ. Tôi nói thật với ông là thế. Nhưng thiên đường là một miền đất kẹt giữa địa ngục.

Trong rừng cũng có cả phụ nữ. Ít hơn, ít hơn nhiều so với đàn ông. Lần này tôi không bị mù, Ruben ạ. Tôi đã nhìn được. Tôi đã thấy những người phụ nữ đó đi ra xa chỗ cắm trại để tắm rửa, hoặc chỉ là đi vệ sinh. Tôi đã thấy những người đàn ông đi theo họ. Tôi đã thấy những người phụ nữ đó cởi quần áo, và những người đàn ông cũng cởi quần áo. Tôi đã thấy những người phụ nữ đó mặc cho đám đàn ông muốn làm gì thì làm, để khỏi bị đánh, họ bị chiếm đoạt bởi một người đàn ông, rồi người thứ hai, người thứ ba, mà không dùng bao cao su.

Một tối tháng Sáu, đến lượt đám đàn ông nhìn thấy tôi đi xa khỏi khu trại. Họ có năm người.

Tôi ở cách căn lều đầu tiên chừng hơn một kilomet thì họ vây lấy tôi. Giống như một bầy sư tử bao vây một con linh dương. Gã đầu tiên, một gã xuất thân từ Bờ Biển Ngà, nói với tôi bằng tiếng Pháp.

— Bọn ta không muốn làm hại cô em. Nếu cô em chiều bọn ta, mọi chuyện sẽ êm đẹp.

Bốn gã khác đã cởi quần.

— Em gặp may đấy. – Gã người Bờ Biển Ngà nói thêm. – Em có thể gặp phải những kẻ còn tệ hơn bọn ta. Bọn ta là những quý ông.

Gã không nói dối, Ruben ạ. Trong khi những gã khác đã tụt quần xuống đến mắt cá chân, gã lấy từ trong túi ra một cái hộp đựng mười chiếc bao cao su.

9h25

Sébastopol là một du thuyền ba mươi mét thuộc về một nhà tỷ phú người Ukraina, được neo buộc rất lâu ở Monaco, và được rao bán từ khi thương gia đó thích đầu tư vào một đội bóng Bulgari hơn. Giá bán là 2.500.000 euro, mẩu tin quảng cáo trên plaisance.fr nêu rõ. Gavril Boukine được trả 70 euro mỗi ngày để xả nước cho du thuyền trong vòng một giờ, chạy động cơ, đánh bóng qua loa vỏ thuyền và các cửa sổ, cho khách mua xem du thuyền nếu có, và được thưởng thêm 150 euro nếu người mua muốn chạy thử ra biển.

Ông ta ngạc nhiên khi phát hiện những người khách tiến lại gần vào buổi sáng. Một người da đen khổng lồ, mặc quần jean, áo thun ố bẩn và áo vest nhàu nhĩ, râu ria lởm chởm, dây giày buộc cẩu thả, như thể vừa chui từ trong tù ra, đi cùng một gã lùn dị dạng ăn mặc chỉnh tề, nhợt nhạt như một xác chết trôi và có mái tóc bạc trắng được chải mượt không chê vào đâu được. Laurel và Hardy phiên bản Đen và Trắng.

Gavril đưa họ đi thăm du thuyền một vòng, cả ba người chỉ thăm qua phòng máy, phòng lạnh, bếp, rồi dừng lại hồi lâu trong phòng lớn dưới hầm tàu, rộng gần tám mươi mét vuông. Người da đen cao lớn dường như đang thầm tính toán trong đầu, ngoẹo cổ ngắm lên trần nhà để tính chiều cao nhằm không va đầu vào đó.

— Hoàn hảo, xin ông cho chúng tôi ở riêng với nhau một chút. – Cuối cùng người da đen bảo với Gavril.

Gavril đồng ý, không nói gì. Ông ta leo lên boong tàu, tuy nhiên vẫn cảnh giác trông chừng cặp đôi Laurel và Hardy kia. Không phải là ông ta muốn rình rập họ, ông ta chỉ nghe thấy vài mẩu đứt đoạn trong câu chuyện mà họ đang trao đổi, nhưng những yêu cầu mà ông ta phải làm theo là rất cụ thể: không để khách hàng ở một mình trên du thuyền chừng nào họ chưa trả tiền! Tuy nhiên, Gavril khó mà tưởng tượng được có thứ gì có thể đánh cắp trong chiếc vỏ ốc mà chủ nhân đã vét sạch đồ đạc bên trong này. Ông ta bám vào lan can và ngắm nghía những đám mây tầng tích đang duỗi dài ra, cho đến khi tan rã thành những mảng rách lớn khiến người ta nghĩ đến những lá buồm của một con tàu ma. Gió nổi lên và ông ta cầu mong để hai người khách không yêu cầu ông ta đưa họ dạo một vòng trên biển.

— Hai triệu rưỡi euro, đó là một món đáng kể đấy.

— Một khoản đầu tư. – Alpha đính chính. – Một khoản đầu tư tốt.

Trong khi người đối thoại với cậu đang suy nghĩ, Alpha nhớ lại diễn biến các sự kiện từ sáng nay. Thủ Quỹ đã hành động rất hiệu quả. Cậu không biết ông ta có liên quan gì đến việc cậu được ra tù từ sáng sớm hay không, nhưng ngay khi cậu được thả ra, một chiếc taxi đã chờ cậu trên vỉa hè đối diện. Thẳng hướng bến tàu, đi cùng một gã hẳn phải là ngang hàng với Thủ Quỹ, nhưng ở ngoài nhà tù. Max-Olivier. Một người đàn ông quyến rũ, da trắng, trạc tuổi ngũ tuần, chính xác là kiểu chủ ngân hàng mà ta thường gặp khi đi vòng quanh các quầy giao dịch để vay tiền mua nhà. Một người đầy lòng trắc ẩn lắng nghe những nhu cầu của ta và giải thích tỉ mỉ cho ta về những hậu quả của một khoản nợ trong vòng ba mươi năm. Một người đầy thông cảm không ngần ngại nhắc cho ta nhớ, ngay khi ta không thể trả nợ và phải ra đường: “Tôi đã cảnh báo anh trước rồi còn gì.”

Ông chủ ngân hàng hoài nghi đi lại trong hầm tàu bụi bặm, các vách gỗ bị gặm nhấm bởi những đám mạng nhện.

— Anh Maal này, tôi đã nghiên cứu chi tiết kế hoạch tài chính của anh, và phải thú thực là tôi vẫn còn một số điểm nghi ngờ.

Giọng ông ta vang vọng trong căn phòng rộng không đồ đạc. Tuy nhiên, Alpha lại lớn tiếng thêm một chút.

— Cả ông lẫn tôi đều biết rõ các mức giá. Từ 3.000 đến 5.000 euro cho một người di cư để cho họ trèo lên những chiếc Zodiac lúc nào cũng có nguy cơ chìm nghỉm, và chắc chắn sẽ bị lực lượng bảo vệ bờ biển châu Âu phát hiện. 3.000 euro nhân với năm mươi hành khách chất chồng lên nhau, tính nhanh cũng ra 150.000 euro cho một chiếc thuyền bơm hơi, không thuế, trong một vụ làm ăn tự sát. Thứ tôi đề xuất là một mô hình kinh tế khác.

Viên chủ nhà băng rít lên giữa các kẽ răng.

— Lại còn thế nữa.

— Ông biết rất rõ tôi đang muốn nói đến chuyện gì. Thị trường người di cư cũng giống như tất cả các thị trường khác, nó biến động tùy theo cung và cầu. Frontex càng làm tốt công việc của mình, thì lại càng ít người di cư bất hợp pháp vượt biên được, và giá cả lại càng tăng. Tôi không dạy ông làm việc của ông, Max-Olivier ạ. Chính hải quan đã sinh ra buôn lậu, chứ không phải là ngược lại. Chính bằng cách cấm rượu mà nước Mỹ giúp lũ vô lại làm giàu. Không có Thời kỳ cấm rượu thì không có Al Capone.

Alpha khá tự hào về cách nói của mình, cậu đã tỉa tót nó trong suốt nhiều tuần, nhưng dường như những gì cậu vừa nói không gây ấn tượng với viên chủ nhà băng.

— Tôi rất biết về việc làm ăn qua biên gi?