Ngày đá 5h47
Nhanh lên!
Khi Julo nhận được tin nhắn của Petar, anh mới ngủ được chưa đầy bốn giờ đồng hồ. Không có lời giải thích nào khác. Chỉ có một mệnh lệnh.
Nhanh lên!
Không cần nói rõ rằng đây là việc khẩn cấp. Julo bắt đầu quen với sự kiệm lời của cấp trên. Nửa giờ sau, anh bước vào phòng chính của Sở Cảnh sát. Râu ria lởm chởm, đầu tóc bù xù, quần áo xộc xệch. Anh gặp vài đồng nghiệp đang đi lại trong hành lang, phong độ chẳng khác gì những người vừa trải qua một bữa tiệc thác loạn thâu đêm suốt sáng.
Ngược lại, Petar có vẻ hoàn toàn tỉnh táo. Ông đón viên phụ tá với nụ cười tươi rói mà ông chỉ trưng ra vào những dịp trọng đại.
— Tôi rất tiếc vì đã kéo cậu ra khỏi giường, nhưng chúng ta có tin mới.
Julo dụi mắt. Petar xoay màn hình máy vi tính về hướng viên phụ tá, nhưng trung úy, ngồi quá xa hoặc chưa đủ tỉnh táo, không thể nhìn rõ bất cứ chữ nào.
— Cô ả sát nhân của chúng ta lại ra tay. – Petar tuyên bố. – Ít ra là cô ta đã cố gắng làm việc đó.
— Ai vậy? – Julo dè dặt hỏi.
— Yan Segalen. Giám đốc hậu cần của Vogelzug.
Vogelzug, lúc nào cũng thế… Petar bằng lòng với việc giữ im lặng đầy bối rối trong một lát. Julo không hỏi thêm, anh chờ đợi. Viên thiếu tá nói tiếp.
— Yan Segalen đang làm việc ở Beyrouth. Ông ta liên hệ với một cô gái xinh đẹp hơi quá mức và, nói thế nào nhỉ, sẵn sàng hơi quá mức. Ông ta đã nghi ngờ. Ông ta hẹn gặp cô ta tại một nơi mà ông ta chọn, đồng thời gọi một nhân viên phụ trách an ninh của Vogelzug để tóm cổ cô ta. Lẽ ra ông ta sẽ làm tốt hơn nếu gọi trước cho chúng ta. Trái ngược với Valioni và Courtois, ông ta sống sót thoát nạn, nhưng cô nàng kia đã chạy trốn.
— Segalen đã nhận diện được cô ta sao? Có đúng là Bamby không? Bamby Maal?
Petar lại nở một nụ cười mỉa mai. Rõ ràng là ông còn chưa nói hết mà thích thú chơi trò mèo vờn chuột với viên phụ tá, riêng lần này hệ thần kinh của Julo lại hoạt động chậm hơn hệ thần kinh của ông.
— Cậu lo lắng cho cô người yêu bé nhỏ à? Hãy kiên nhẫn, lúc này cũng đang là bình minh ở Liban, chúng ta đánh thức đám cảnh sát và chúng ta kiểm tra. Theo lời chứng của Yan Segalen, cô gái đó có mái tóc vàng, mắt xanh, da nâu, dáng đẹp… Bằng cách đội tóc giả, đeo kính áp tròng, trang điểm đôi chút, như thế là trùng hợp. Với Bambi, với Faline, với Fleur, đó là tên mới của cô gái, và đúng thế, tôi biết, cả tôi cũng có thể gõ năm chữ cái trên Wiki, đó là tên con chồn hôi bạn của hươu Bambi. Chân dung mà Yan Segalen mô tả trùng khớp với cô gái của chúng ta. Cũng trùng khớp với hàng tá các cô gái khác…
Julo vẫn không thể nào sắp đặt được suy nghĩ của mình. Bộ não anh quay cuồng. Rõ ràng nó không ở chế độ buổi sáng. Mùi cà phê lan tỏa trong phòng. Anh nghe thấy tiếng rót cà phê từ chiếc bình pha; khi đến đây, anh đã thấy Ryan pha cà phê. Nhanh lên, Julo thầm cầu xin, nhanh lên anh bạn.
Hẳn là Petar đã uống đến vài lát cà phê, ông phấn khích hơn bao giờ hết và có vẻ vui thích khi được bóp nghẹt những mẩu suy nghĩ của viên phụ tá dưới một chiếc gối làm bằng những mẩu hỏi-đáp.
— Anh bạn ranh ma của tôi này, trong khi cậu khăng khăng lục lọi suốt nhiều giờ về Vogelzug và Blanc-Martin, đừng cãi, tôi đã xem lịch sử truy cập trên máy tính của cậu, thì tôi hùng hục tìm kiếm cô gái đó… Và không chỉ bằng cách lướt qua những bức ảnh cô ta mặc bikini trên màn hình máy tính đâu. Từ hôm qua, sau lời khai của Leyli Maal, rồi lời chứng của gã điên Ruben Liberos cũng như danh sách những kẻ vô hình sẵn sàng làm chứng một cách nặc danh của gã, chúng ta có một vấn đề nhỏ trong việc giải thích sự hiện diện của Bamby Maal ở Dubai vào tối hôm kia. Beyrouth đã là khả dĩ hơn rồi, trong bối cảnh chúng ta không có tin tức gì về cô nàng sinh viên-ca sĩ bí ẩn từ sáng hôm qua, nghĩa là từ khi cảnh sát bắt đầu quan tâm sát sao đôi chút đến cô ta.
Không thể thực sự giải thích tại sao, bởi vì Petar tỏ ra dửng dưng chẳng khác thường ngày, Julo không thích cách nói chuyện của cấp trên. Anh cố gắng tập trung mặc dù mọi thứ đều gây nhiễu suy nghĩ của anh, bình pha cà phê sôi sùng sục ồn ào, tiếng đài lạo xạo phát ra những bài hát và tin tức.
— Chúng ta sẽ nhận được kết quả phân tích ADN trong sáng nay. – Julo nói xen vào bằng giọng mệt mỏi. – Dựa vào máu của nữ sát nhân lấy được trong khách sạn Red Corner tại Dubai, chúng ta sẽ có bằng chứng.
— Tỉnh dậy đi, lạy Chúa! Chúng ta có một cô nàng đang bỏ trốn. Một cô nàng đã cắt mạch máu hai người cha trung hậu và tìm cách cắt mạch máu người thứ ba. Hẳn là cô ta đã bắt một chuyến bay từ sân bay Beyrouth. Chúng ta đang hành động, chúng ta đang kiểm tra tất cả các chuyến bay từ tối hôm qua. Chúng ta sẽ tóm cổ cô ta ở sảnh đến chứ không ngồi bên lò sưởi chờ kết quả xét nghiệm máu.
Julo có cảm giác khó chịu như thể anh đang phải tham dự bước khởi đầu của một vụ vây dồn. Một cuộc đi săn. Thời điểm khi mà mọi chuyện đảo lộn trong một cuộc điều tra, và chắc hẳn cũng là thời điểm mà Petar giỏi hơn cả, khi không cần suy nghĩ nữa mà cần hành động. Khi không còn phải tìm hiểu cô gái đã giết mấy người đàn ông đó như thế nào và vì lý do gì, mà chỉ còn phải ngăn cản cô ta tiếp tục giết người. Vô hiệu hóa cô ta. Quên lãng.
— Giả thuyết của tôi. – Petar tiếp tục nói trong khi đã bình tĩnh lại. – Đó là có thể cô ta không hành động một mình, và đó chính là điểm tôi cần đến bộ não của cậu.
Julo tập trung trở lại.
— Tôi và Ryan cùng Tòni đã bận rộn suốt từ tối qua. Chỉ trong vòng một buổi tối, Tòni đã giúp chúng tôi tiến hành một điều tra chi tiết về các hàng xóm của Bamby Maal. Phải tin rằng những con linh dương xinh đẹp nhất thường di chuyển theo đàn. Tôi có ba ứng cử viên tiềm năng để đóng vai chị em sinh đôi.
Những màn sương mù cuối cùng trong óc Julo tan biến. Một lần nữa, anh thấy Petar tỏ ra là một cảnh sát hành động hiệu quả, thực dụng và có linh cảm tốt hơn anh rất nhiều. Trong khi anh bỏ ra nhiều giờ đồng hồ để hành hạ bản thân bằng những câu hỏi hóc búa không thể nào giải đáp, thì viên thiếu tá đã tiến triển rất nhiều.
— Người đầu tiên, cả hai chúng ta đã gặp cô ta ở khách sạn Ibis, có tên là Noura Benhadda, một cô nàng người lai xinh đẹp và hình như còn hát hay như một nữ thần, có tình trạng cư trú hợp pháp, ăn lương nữ nhân viên quét dọn, không có điều gì cho phép chúng ta nghi ngờ cô ta ngoài thân hình và việc mẹ của Bamby cũng làm trong cùng khách sạn với cô ta.
Chẳng có gì mới, Julo thầm nghĩ.
— Người thứ hai, chính Tòni đã phát hiện ra cô ta. Kamila Saadi, một người bạn cùng trường đại học với Bamby Maal, cô ta ở căn hộ bên dưới căn hộ của Leyli Maal. Hai người họ từng rất thân thiết, trước khi giận nhau. Theo Tòni, về sức quyến rũ, Kamila khó mà so sánh với Bamby, nhưng như chính cậu cũng đã nói, với phần mềm Photoshop, chúng ta có thể thực hiện những phép mầu trên Facebook… và không cần phải là Halle Berry mới có thể thu hút một gã năm mươi tuổi đã kết hôn đến khách sạn Red Corner gần nhất.
Hướng điều tra sai lầm, Julo thầm nghĩ theo bản năng.
— Người thứ ba sẽ khiến cậu quan tâm nhiều hơn. Trong danh sách liên hệ của Bamby Maal, chúng tôi đã tìm thấy một cô nàng Chérine Meunier nào đó, hơn Bamby hai tuổi, họ gặp nhau trong một khóa học Zumba tại trung tâm khiêu vũ Isadora ở Marseille, hai nhành dây leo cùng thanh mảnh như nhau. Hình như họ rất gắn bó với nhau, mặc dù không gặp gỡ thường xuyên. Chérine Meunier là tiếp viên hàng không của hãng Royal Air Maroc.
Lần này thì Julo giật mình. Một cô bạn gái là tiếp viên hàng không! Mắt xích còn thiếu trong lập luận của anh. Một cô gái có thể chụp ảnh chính mình ở khắp nơi trên thế giới. Chắc hẳn đây chính là lời giải thích cho những bức ảnh của Bambi13 trên Facebook. Bớt được một bí ẩn…
Và thêm một câu hỏi, bộ não Julo lập tức điều tiết. Phải chăng Chérine Meunier chính là một nữ sát thủ đã lợi dụng danh tính của cô bạn gái, hay chỉ đơn giản là đồng phạm của cô ta? Lần đầu tiên từ khi anh đến Sở Cảnh sát, Petar ngừng nói. Cả chiếc bình cà phê cũng ngừng sôi.
Một bản nhạc trên đài báo hiệu loạt tin vắn đúng lúc Ryan bước vào phòng.
— Julo và Petar. Hai cà phê? Đã xong!
Trung úy Flores không trả lời. Một tấm màng vừa bị xé toạc. Đột nhiên, mọi thứ trở nên mờ mịt xung quanh anh, Petar chậm chạp chưa muốn đứng dậy cầm cốc cà phê, người phóng viên đang nói trên đài phát thanh, Ryan đang nhắc nhở.
Julo và Petar. Hai cà phê? Đã xong!
Cuối cùng anh cũng tách bạch được ký ức mà anh truy tìm suốt ba ngày qua trong trí nhớ. Không phải một hình ảnh, không phải một cảm giác: một câu nói! Chỉ một câu nói anh đã nghe thấy, đã tách lọc, đã lưu giữ đâu đó ở một góc của bộ não hỗn độn trong lúc chờ được xử lý.
Bamby và Alpha. Hai cà phê? Đã xong!
Julo rành rọt gán câu nói đó với một địa điểm, quán cà phê Starbucks gần khách sạn Red Corner, vào một ngày và một giờ cụ thể, ba ngày trước, vài phút sau khi phát hiện ra xác François Valioni.
Anh đón nhận cái cốc nóng bỏng mà Ryan đưa cho chẳng khác nào một người mộng du.
Bamby và Alpha.
Hai cái tên riêng đó, gắn với nhau.
Không thể nghi ngờ gì nữa, vậy là Julo đã ngồi cạnh Bamby và Alpha Maal, ở quán cà phê Starbucks, cách hiện trường vụ án chưa đầy một trăm mét.
Những ý nghĩ lại tiếp tục xoay vòng trong đầu anh. Ngay khi một manh mối chứng minh Bamby Maal vô tội, một chứng cứ khác lại xuất hiện để buộc tội cô. Chẳng khác nào một bức tranh ghép hình không thể hoàn thiện, với những mảnh ghép không chịu khớp lại với nhau. Chính vì lý do này mà tối qua, anh đã cố tình bỏ qua việc nhận diện cô gái để tập trung vào Vogelzug, tổ chức đã len lỏi vào từng ngóc ngách của vụ điều tra chẳng khác nào các xúc tu của một con bạch tuộc.
Khi Julo thoát khỏi dòng suy nghĩ để chia sẻ với cấp trên về sự trùng hợp lạ lùng này, anh nhận thấy chẳng còn ai nói chuyện trong phòng. Trên đài phát thanh, giữa kết quả một trận bóng và những con số đáng tiếc về tình trạng thất nghiệp, phóng viên đang thông báo một thảm kịch mới như vẫn xảy ra trên biển Địa Trung Hải.
Ngoài khơi quần đảo Zaffarines, cách bờ biển Maroc chừng vài kilomet.
Một chiếc xuồng trên vùng biển dữ tợn.
Một tin nhắn hoảng loạn mà đội tuần tra biên giới Tây Ban Nha bắt được. Quá muộn.
Chừng mười lăm thi thể chết đuối được vớt lên khỏi mặt nước, mười xác khác mắc kẹt trong bùn.
Bây giờ chúng ta sẽ chuyển sang mục dự báo thời tiết.
6h11Leyli châm một điếu thuốc ngoài ban công. Mặt trời kín đáo nhô lên, được che phủ bởi một màn mây tích đang tẩy xóa đường chân trời. Làn khói mỏng mà chị thở ra đọng lại ngang tầm mũi chị, giống như một đám mây ô nhiễm tí xíu, không có chút gió nào xua nó đi. Không có sóng cũng chẳng có bọt sóng, chỉ có một màn sương mù lạnh lẽo, ẩm ướt và mặn mòi. Ngay cả biển dường như cũng uể oải không muốn thức dậy.
Từ tầng tám trên tòa chung cư nơi chị sống tại Les Aigues Douces, Leyli nhìn thấy vài cái bóng bước đi bên dưới các tòa nhà. Trong số chúng, chị nhận ra Guy. Cổ áo kéo cao, mũ trùm kéo sụp xuống tận tai.
Chị đưa mắt dõi theo ông, nhìn ông đi qua bãi đỗ xe rồi đến đại lộ Mistral để nhập bọn với những bóng ma khác của buổi sáng tại trạm dừng của tuyến xe buýt số 22. Hướng Martigues-Figuerolles. Tuyến buýt mà vài phút nữa chị sẽ đi.
Có lẽ một ngày nào đó, họ sẽ đi cùng nhau, rời khỏi cùng một chiếc giường, thay phiên nhau đứng dưới vòi hoa sen, cùng ngồi bên bàn ăn sáng với nhau, cùng đóng cửa nhà để vào thang máy, bước đi bên nhau đến tận điểm dừng xe buýt, lặng lẽ chờ xe, hôn nhau khi Guy xuống bến Caravelle trong khi chị còn đi tiếp năm trạm nữa. Leyli vẫn thường u sầu quan sát những gia đình dịu dàng chia tay nhau khi vừa bước xuống khỏi phương tiện giao thông công cộng hoặc trên bãi đỗ xe của một ngôi trường, để vui vẻ gặp lại nhau lúc chiều muộn.
Có lẽ là một ngày nào đó. Không phải sáng nay. Guy đã quay trở xuống căn hộ của ông lúc khoảng 2 giờ sáng, chị đã giải thích với ông là ông không thể ngủ lại, rằng chị phải đưa Tidiane đi học, ông đã hiểu. Cả ông cũng phải đi làm. Đêm ngắn, ngày dài.
Chị nhìn chiếc xe buýt số 22 nuốt chửng Guy cùng chừng chục người lao động khác, hai chiếc xe đẩy và vài học sinh trung học. Rồi nó biến mất.
Leyli đã bị muộn; chị không thể nào thoát khỏi tình trạng đờ đẫn của những buổi sáng khi mà đầu óc quay cuồng. Chị kiểm tra điện thoại di động thêm lần nữa. Vẫn không có tin tức gì của Bamby, vẫn không có tin tức gì của Alpha. Thế nhưng chị đã gửi tin nhắn cho hai đứa ngay khi vừa thức dậy. Chị lo lắng. Chị tiếp tục gặm nhấm những lời đe dọa của Jourdain Blanc-Martin. Bản năng thì thầm với chị rằng chị chỉ là một con tốt thí trong đế chế rộng lớn mà ông ta xây dựng chẳng khác nào một ván cờ. Chị có thể tin tưởng vào ai đây? Trong túi chị, bàn tay trái cuộn tròn tấm danh thiếp của viên cảnh sát trẻ chị gặp ngày hôm qua Sở Cảnh sát. Ít ra anh chàng đó cũng có vẻ chân thành. Giống như một quản giáo mới bắt đầu sự nghiệp. Chưa bị vỡ mộng như các đồng nghiệp của anh ta, một người có dáng dấp của chó bull, người còn lại nói giọng Marseille.
Chị dập điếu thuốc lá. Bây giờ thì tăng tốc lên. Một giờ nữa chị sẽ nhận ca tại khách sạn Ibis. Sẽ là đỉnh điểm nếu đến muộn trong khi chưa bao giờ chị sốt ruột muốn đến nơi làm việc sớm như thế này. Chị đã muộn để có thể lắng nghe những câu chuyện hoang đường của Ruben, trò chuyện với Savorgnan và tất cả những người tị nạn khác trong những căn phòng bí mật.
Chị mặc chiếc áo gi-lê đặt trên ghế tựa trong phòng khách. Trên tủ buffet, một phóng viên câm lặng đang giới thiệu các tin tức thời sự. TV bật ở chế độ gần như im lặng, và âm thanh yếu ớt bị át đi bởi những tràng cười trên đài Fun Radio mà Kamila tầng dưới đang bật hết cỡ. Leyli bước đến để tắt màn hình, dửng dưng với anh chàng phóng viên hẳn là đang bình luận về tình hình giao thông buổi sáng, căn cứ vào những hàng xe hơi bất động chiếu sau lưng anh ta. Dải thông tin chạy liên tục, chuyển động duy nhất trên màn hình, dường như cũng xoay tròn vô tận chẳng khác gì trái đất. Ánh mắt Leyli ngẫu nhiên bắt gặp một câu, đọc từng từ trước khi chúng biến mất ở bên trái màn hình để được thay thế bởi một tin vắn khác.
Thêm một thảm kịch trên biển Địa Trung Hải. Hai mươi sáu người di cư Bénin chết đuối ngoài khơi bờ biển Maroc.
Những thông tin khác tiếp tục lướt qua. Thế giới bỗng ngừng quay.
Ruben ngồi trong phòng ăn sáng rộng của khách sạn Ibis. Chẳng khác nào một khách hàng bị bỏ quên lại đó. Bị bỏ rơi. Đang chờ bị xua đuổi.
Khi bước vào, Leyli bắt gặp ánh mắt trống rỗng, đôi mắt đỏ hoe, đôi bàn tay run rẩy của ông. Viên quản lý khách sạn như vừa già đi cả chục tuổi. Noura ngồi ở một bàn phía xa, bơ phờ, hai bàn tay bấu chặt lấy điện thoại di động.
Mọi thứ trong khách sạn đều im lìm. Vài khách hàng kiên nhẫn chờ thanh toán ở quầy lễ tân, họ chờ một lát, rồi bỏ đi. Không nói gì. Giống như khi ta bắt gặp một đoàn đưa tang, ta đột ngột im lặng và nhón chân đi sang vỉa hè khác. Những khách hàng khác, sau khi hy vọng Noura và Ruben đứng dậy nhưng vô ích, đành mang bánh sừng bò, những túi ngũ cốc và cà phê espresso theo người. Không dám ăn uống tại chỗ. Đói bụng và ngại ngần. Họ bỏ trốn mang theo cái bụng rỗng và những bàn tay bận rộn, hẳn là bị chìm đắm trong cảm giác lương tâm cắn rứt vì đã lấy đi những thứ chẳng đáng gì.
Dần dần, những khách hàng cuối cùng cũng biến mất.
Leyli bước vài bước về phía Ruben. Trong tâm trí chị, dải thông tin tiếp tục chạy đi chạy lại.
Thêm một thảm kịch trên biển Địa Trung Hải. Hai mươi sáu người di cư Bénin chết đuối ngoài khơi bờ biển Maroc.
Suốt dọc đường đi, chị tự thuyết phục mình rằng chỉ có khả năng rất nhỏ là tin vắn đó liên quan đến Savorgnan, Zahérine và những người khác đang ở trong những căn phòng bí mật. Bénin có mười triệu dân, hàng ngàn người di cư, một cộng đồng người tỏa ra khắp châu Âu. Tại sao lại phải hình dung ra khả năng tồi tệ nhất? Khi thời sự đẻ ra một thảm kịch, cái thói tự cho mình là trung tâm chết tiệt nào luôn thúc đẩy ta nghĩ rằng thảm kịch đó có thể liên quan tới một người nào đó mà ta quen biết chứ?
Ngay khi bước vào khách sạn, không thấy Ruben đón chào ngưỡng cửa, chị đã hiểu ra. Leyli ngồi xuống trước mặt Ruben. Viên quản lý dường như không thể thốt nên lời nào. Chị không thúc ép ông. Chị nhìn một lượt khắp xung quanh, hy vọng thấy Savorgnan, hoặc Zahérine, hoặc Whisley… xuất hiện. Nhưng chính Noura là người bước đến bên chị. Cô chỉ đặt điện thoại di động lên bàn, rồi mở hộp thư và nhấp vào một tệp âm thanh gắn kèm. Mặc dù cô đã bật loa ngoài, chất lượng âm thanh vẫn rất tồi, gần như không thể nghe được, bị ngắt quãng bởi tạp âm. Giọng nói yếu ớt, như thể người nói đang hụt hơi. Mỗi từ, mỗi câu chỉ nối tiếp với từ và câu nói trước đó sau một khoảng im lặng dài, như người ta vẫn thường làm khi cầu kinh. Một bài kinh được cầu nguyện quá muộn màng, không chút hy vọng.
Rami… tôi là Rami… cựu trưởng làng Dogbo-Tota… hãy lan truyền thông điệp này… họ đã tiếp nhận chúng tôi… trong một bệnh viện quân đội… Isla de Isabel II… tôi nghĩ thế…
Chiếc xuồng đã bị lật… gần như ngay sau khi chúng tôi lên xuồng… sau khi tàu Al Berkane bỏ chúng tôi lại… chúng tôi không trụ nổi năm phút… sóng quá lớn… điện thoại di động có sóng… chúng tôi đã gọi ngay lập tức… chúng tôi nhìn thấy bờ biển… quần đảo Zaffarines, Keyvann đã hét lên… thằng bé thuộc lòng bản đồ thế giới… một căn cứ quân sự của Tây Ban Nha… hy vọng… chúng tôi đã gọi… chúng tôi đã la hét… một số người bíu chặt lấy chiếc xuồng đã bị lật… những người khác chẳng bíu được vào đâu… những người khác bíu vào những người khác… trước khi sóng đánh chúng tôi tan tác…
Người Tây Ban Nha nói rằng họ đã đến rất nhanh… nhanh hết mức có thể… lo más rápido… rápido… rápido… Họ nhắc đi nhắc lại câu đó… cả họ cũng có vẻ bị sốc… họ vừa đếm vừa kéo chúng tôi lên tàu chiến… uno… dos… tres… cuatro⦾… họ gán số cho chúng tôi… họ la hét… cuántos⦾? cuántos? bằng đèn rọi, họ tiếp tục rà soát mặt biển… tôi là số 5… Fatima, vợ tôi, số 8… Cuántos? cuántos? Họ la hét càng lúc càng to hơn… treinta y cinco⦾, tôi đáp… sau Fatima họ còn vớt được một cậu thanh niên… số 9… người cuối cùng… họ tiếp tục tìm kiếm, gần một giờ… rồi họ bỏ cuộc…
Họ đã vớt được chín người đắm tàu trên tổng số ba mươi lăm… Tôi tin rằng họ đã làm tất cả những gì có thể… thật dễ dàng với tôi khi nói cảm ơn họ… họ đã cứu sống tôi… cả vợ tôi nữa… còn với các bạn, họ sẽ vĩnh viễn bị nguyền rủa… họ đã quay trở lại biển… khi biển lặng… ngay khi mặt trời lên… tìm kiếm các thi thể… một số thi thể đã dạt dào bờ… vào buổi sáng, bờ biển trông càng có vẻ gần hơn… chưa đầy một kilomet… tôi biết rằng nói rõ ra thế này lại càng tàn nhẫn… tôi xin lỗi… tôi nói quá nhiều… tôi nói linh tinh… để trì hoãn thời điểm tôi phải nói ra những cái tên… chúng tôi không biết hết nhau… chúng tôi đến từ cùng một vùng… chúng tôi đã sống cùng nhau ba tháng nay, chờ vượt biên… một cộng đồng… cho đến tận cùng, mọi người phải tin tôi… chúng tôi đã bấu víu… tất cả mọi người cùng bấu víu… vào một giấc mơ… chính biển đã sàng lọc… không phải các quân nhân Tây Ban Nha… chính là biển.
Đến đây, thông điệp trở nên không nghe nổi. Đứt đoạn. Như khi lời lẽ chính là những viên đạn bắn ra từ một khẩu súng lục. Họ nghe thấy những tiếng khóc, những lời lẽ không rõ ràng bằng tiếng Tây Ban Nha và tiếng Fon. Rồi một giọng nữ truyền tải đoạn tiếp theo của thông điệp, chắc hẳn là Fatima. Một giọng nói bình tĩnh. Nhỏ nhẹ.
Các bạn của tôi. Các bạn thân mến của tôi. Mong rằng một ngày nào đó các bạn sẽ tha thứ cho tôi vì đã là sứ giả của thần chết.
Sau đó, bà đọc lần lượt hai mươi sáu cái tên. Tên của những người đã khuất. Chậm rãi. Nhấn từng từ để tránh mọi hiểu lầm tai hại.
Rất nhiều lần, Leyli giật bắn mình. Mỗi lần nỗi đau lại xoáy sâu hơn vào tim chị.
Caimile và Ifrah.
Hai người anh em họ của Zahérine.
Naïa.
Vợ chưa cưới của Whisley.
Babila, Keyvann và Safy.
Vợ và hai con của Savorgnan.
— Họ đâu rồi? – Leyli khẽ khàng hỏi Ruben. – Savorgnan, Zahérine, Darius và Whisley đâu?
— Tôi không biết.
Giọng Fatima tiếp tục đọc thêm vài cái tên nữa, rồi dừng lại. Dừng hẳn. Thông điệp ngắt quãng sau thông báo về nạn nhân cuối cùng, thậm chí Fatima còn không nói thêm câu Cầu chúa ban phúc lành cho các bạn. Họ chỉ còn nghe thấy đằng sau giọng bà vài lời bằng tiếng Tây Ban Nha, hắn là tiếng các quân nhân.
Uno… dos… tres… cuatro…
Không biết họ đếm người sống hay người chết.
Leyli trả điện thoại lại cho Noura. Chị chưa bao giờ thấy ánh mắt cô gái trẻ đen thẳm đến thế. Những ngày trước đó, Leyli đọc thấy trong đó sự ghen tị, ham muốn, giận dữ. Giờ đây chị chỉ còn đọc thấy nỗi hận thù.
— Hát đi. – Leyli thì thầm. – Hát đi, Noura. Hãy hát cho họ đi.
Noura lưỡng lự, rồi cất tiếng hát, gần như câm lặng, một giai điệu dịu dàng mà cô thì thầm trên đầu môi, bằng một thứ tiếng mà Leyli không biết. Một bài hát ru dịu dàng.
Chuyện đó dường như kéo dài suốt nhiều giờ. Chuyện đó đã có thể kéo dài suốt nhiều giờ.
Giọng hát êm mượt như bông của Noura đã thấm khô đôi mắt Ruben. Vài khách hàng chậm trễ đã dừng lại lắng nghe. Phép mầu đã có tác dụng.
Điện thoại của Leyli như mũi dao đâm vào chị.
Một tiếng chuông chói tai. Leyli vội lấy máy ra.
Alpha? Bamby? Hay có thể là Savorgnan chăng?
Noura, người đang nhắm mắt hát từ nhiều phút trước, liền mở mắt ra và nhìn Leyli bằng ánh mắt giận dữ đầy trách móc. Leyli mặc kệ. Một số điện thoại lạ hiện lên. Chị nghe máy.
— Cô Maal à? – Một giọng nữ như sắp phát điên đến nơi hét lên. – Cô Maal, về nhanh lên!
Leyli nhận ra giọng nói đó nhưng không thể xác định nó là của ai.
— Cô Maal, giọng nói tiếp tục, cháu là Kamila đây. Hàng xóm ở tầng dưới của cô. Họ đang đập phá mọi thứ ở nhà cô đây này. Họ lao vào dùng vai phá cửa, cháu đã lên xem, nhưng họ có hai người, và họ có vũ khí. Cháu… Cháu không muốn báo cảnh sát, cháu giam mình trong nhà… Cháu nghĩ họ đang đi rồi… Cháu sợ lắm, cô Maal ạ… Cô về nhanh lên… Cháu sợ…
Kamila hét to đến nỗi Ruben nghe thấy hết. Ông đã đứng dậy.
— Tôi đưa cô về, Leyli ạ. Chúng ta đi thôi.
Khi Leyli và Ruben về đến Les Aigues Douces, hai người đàn ông đã rời khỏi đó. Nhìn khu phố không có vẻ gì là đáng lo ngại hơn bình thường. Cả những thùng thư cũng không bị phá hỏng nhiều hơn. Cả khoang thang máy cũng không bị tác động gì rõ rệt.
Kamila chờ họ trong cầu thang.
— Họ đi rồi. Họ ở lại chưa đầy năm phút. Không biết họ…
Hẳn là cô ta sắp sửa tuôn ra cả tràng nguyền rủa, nhưng cô ta chợt nhìn thấy Ruben và dường như bị ấn tượng bởi dáng vóc oai vệ của ông. Ông khoác một chiếc áo choàng dài, đội mũ rộng vành màu đen bằng vải dạ, và cũng giống như Leyli, ông che giấu cặp mắt đỏ hoe đằng sau cặp kính mát.
Kamila thấy sợ. Sau hai người dọn nhà thuê lại đến một sát thủ.
— Cháu không vào, cô Maal ạ. Cháu thề với cô. Họ chặn cháu lại ngoài thềm nhà, cháu không nhìn thấy họ đang làm gì.
Không trả lời, Leyli và Ruben leo lên thêm một tầng và bước vào căn hộ. Gần như ngay lập tức, Leyli hiểu rằng họ không lấy cắp gì của chị hết. Vả lại, ở đây có gì để lấy cắp ngoài TV và máy tính đâu? Những kẻ viếng thăm căn hộ đã không động đến chúng. Tất cả những thứ còn lại trong căn hộ đều bị gạt vung vãi bởi những cú vung tay mạnh mẽ, từ bộ sưu tập cú của chị, cho đến sách vở và đống kính. Chúng nằm rải rác trên sàn, cùng chung tình trạng với những tấm đệm bị lật ngược, quần áo trẻ em bị lôi khỏi vali và vứt bừa bãi…
— Họ… họ không lấy gì của tôi cả, tôi nghĩ thế.
Vài con chim cú bằng thạch cao đã bị vỡ, nhưng đa số đồ vật vẫn còn nguyên vẹn, như thể những kẻ viếng thăm thậm chí còn không bỏ công giẫm đạp lên chúng. Căn hộ dường như chỉ vừa phải chịu một trận cuồng phong dữ dội.
— Đây là lời đe dọa. – Leyli nói tiếp. – Chỉ là lời đe dọa thôi.
Chị nhớ đến Blanc-Martin. Lời đe dọa của ông ta. Chị hình dung ông ta chính là người đặt hàng chuyến viếng thăm này. Để khiến chị sợ. Để tỏ ý cho chị thấy rằng ông ta đang sốt ruột. Rằng nếu Bamby hoặc Alpha liên lạc với chị, chị phải nói ra.
Với ông ta. Hay với cảnh sát?
Tất cả họ đều đồng lõa với nhau chăng?
Ruben ngồi xuống ghế sofa và ra hiệu cho chị cũng ngồi xuống.
— Họ tìm gì vậy, Leyli? – Ông hỏi bằng giọng vỗ về.
Leyli thầm cảm ơn ông vì đã không sáng tác ra một giai thoại nào khác về việc kẻ trộm đột nhập căn hộ ở Miến Điện hoặc Polynesia. Mà chỉ lắng nghe chị.
— Các con tôi. Họ tìm hai đứa con lớn của tôi.
— Họ đi rồi, Leyli ạ. Xong cả rồi. Họ đi rồi.
Leyli im lặng hồi lâu. Chị nhặt một con chim cú lăn lóc bên chân. Một con chim cú bằng thủy tinh đã không bị vỡ tung khi rơi xuống, thật kỳ lạ.
— Họ sẽ quay lại. Không phải ngay lập tức, nhưng họ sẽ quay lại.
— Tại sao?
Leyli mỉm cười. Chị nhặt lên một con cú khác, bằng gỗ chạm trổ, rồi đặt nó bên cạnh con bằng thủy tinh.
— Giờ thì chẳng còn gì phải vội vàng nữa, Ruben ạ. Ông có muốn nghe đoạn kết câu chuyện của tôi không?
Leily - EndAlpha vừa ra đời. Bố thằng bé, Virgile, đã bị sát hại trong lúc tìm cách vượt qua hàng rào dây thép gai ở Melilla. Nỗ lực thâm nhập châu Âu của tôi đã thất bại. Tôi đã nghe những câu chuyện kể của các phụ nữ muốn vượt biên bằng mọi cách, cùng với đứa con nhỏ của họ, để rồi rốt cuộc trở nên điên rồ bấu chặt vào một cái xác nhỏ bé chết trong sa mạc hoặc trong hành trình vượt biên.
Tôi quay về sống tại Ségou. Tôi muốn gặp lại Bamby. Tôi muốn giới thiệu Alpha với ông bà ngoại của thằng bé. Tôi mệt mỏi, Ruben ạ. Tôi đã sống sót sau hai lần ra đi, tôi đã vượt qua cái chết, tôi đã vượt qua châu Âu. Tôi không còn đủ sức tiếp tục nữa. Phải trải qua chừng ấy chuyện tôi mới chịu lùi bước.
Quay trở về Ségou cũng chính là thất bại. Mặc dù cha mẹ tôi đối xử với tôi rất dịu dàng, mặc dù những trò chơi của các anh chị em họ của Bamby, mặc dù hàng xóm láng giềng ra sức trò chuyện an ủi.
Trước đây, cha tôi đã kể cho tôi nghe quá nhiều câu chuyện, truyện cổ tích, nên tôi không thể nào khiến các con tôi tin rằng dòng sông chính là biển cả. Rằng ở bờ bên kia chẳng có gì hết. Rằng đài phát thanh, sách vở và truyền hình đều nói dối. Ông hiểu điều đó không, Ruben? Đương nhiên là ông hiểu. Có lẽ tôi phải tìm ra một cách để tặng cho chúng một cuộc đời khác. Những cách thức hợp pháp giống như lời bài hát, Bay lên nào tôi ơi, bay lên nào tôi ơi…
Hồi ấy, tôi quyến rũ hơn những người khác, tôi tin là thế, tôi cũng thông minh hơn họ. Tôi yêu thích sách vở. Điều đó khiến một số cậu con trai thích thú, những cậu con trai thành phố, những người tham vọng, những người sẽ không ở lại đó, những người sau này sẽ thành công. Tôi đã gặp Wa’il trong đợt bầu cử tổng thống năm 2002. Wa’il thực hiện chiến dịch vận động tranh cử trong phạm vi Ségou cho đảng của Ibrahim Boubacar Keïta, anh ấy cho rằng một ngày nào đó IBK sẽ là tổng thống, thế nên anh ấy vừa đấu tranh vừa theo học ngành luật và viết luận văn về nền cộng hòa. Wa’il xuất thân từ một gia đình thương nhân ở Kayes, giàu hơn gia đình tôi rất nhiều. Anh ấy đeo những đôi kính nhỏ, ăn mặc theo kiểu phương Tây, lúc nào cũng nhét một cuốn sách triết học hoặc kinh tế trong túi. Anh ấy gọi tôi là nàng công chúa nhỏ của anh, nàng Simone của anh khi anh ấy coi mình là Sartre, nàng Colette của anh khi anh ấy coi mình là Senghor, nàng Winnie của anh khi anh ấy coi mình là Mandela.
Tôi thích thế.
Mặc dù đã được bầu là ủy viên hội đồng ở Ségou, anh vẫn dành nhiều thời gian ở Bamako. Cùng với đảng. Anh ấy muốn trở thành dân biểu. Anh ấy muốn tôi đến ở cùng. Mang theo con gái tôi. Muốn tôi học hành. Anh ấy rất yêu Bamby. Hồi ấy con bé đã lớn trước tuổi rồi. Lẽ ra chừng ba hoặc bốn năm nữa, chúng tôi có thể ghi danh cho con bé vào trường trung học dành cho các thiếu nữ ở Bamako. Lẽ ra chúng tôi có thể mua một căn hộ trong khu Trường đua.
Với điều kiện tôi phải bỏ lại Alpha. Kẻ hay gây gổ. Nỗi kinh hoàng. Wa’il không yêu quý con trai tôi cho lắm, theo anh ấy thì nó là đứa con của một vụ hãm hiếp, và tôi càng khẳng định điều ngược lại thì Wa’il càng tức giận. Anh ấy ghét phải nghe tôi nhắc đến mối quan hệ trong quá khứ giữa tôi với Virgile. Bởi vì mặc dù là một người hãnh tiến tự phụ, Wa’il vẫn đủ thông minh để hiểu rằng trong số tất cả những người đàn ông từng bảo vệ tôi, Virgile là người duy nhất được tôi trao tặng tất cả. Wa’il sẽ mãi mãi chỉ có được sự ngưỡng mộ của tôi, một mối quan hệ dựa trên lý trí, chứ không bao giờ có được niềm say đắm nơi tôi.
Tôi có thai khi Wa’il bước sang năm nghiên cứu sinh thứ tư. Chúng tôi sống giữa Ségou và Bamako, tôi sắp xếp để đến gặp anh ấy càng thường xuyên càng tốt. Tôi làm việc đôi chút cho trung tâm Djoliba. Tôi phân loại báo chí. Tidiane ra đời năm 2006. Chúng tôi sống bằng hy vọng. Luận văn của Wa’il sắp hoàn tất, anh ấy sắp có một chức vụ ở trường đại học, anh ấy sắp thành dân biểu, bố mẹ anh ấy sắp cho anh ấy đủ tiền để mua căn hộ này.
Sắp, sắp, sắp, Ruben ạ. Chúng tôi xây dựng biết bao cuộc đời chỉ với những cái sắp ở Bamako. Châu Phi là châu lục của những cái sắp. Nhưng ở châu Phi cũng như ở những nơi khác, đàn ông đều vội vàng. Một ngày đẹp trời, Wa’il thông báo với tôi rằng anh ấy đã giành được một suất học bổng hợp tác Pháp-Canada để hoàn tất luận văn của anh ấy tại Québec. Một cơ hội không thể từ chối. Một dịp may duy nhất! Wa’il siết chặt tôi trong vòng tay, anh ấy run lên vì sung sướng, mặc dù học bổng đó chỉ kéo dài vài tháng. Canada, Canada, anh ấy nhắc đi nhắc lại cái tên đó chẳng khác nào một nhà thám hiểm, anh ấy sắp đưa tôi đến đó. Sớm thôi.
Tôi tin rằng không cần nói thêm về đoạn tiếp theo, Ruben ạ. Những tuần đầu tiên, chúng tôi dành ra nhiều giờ để liên lạc với nhau qua mạng xã hội, anh ấy nhớ đất nước, nhớ Bamby, nhớ Tidy bé bỏng, anh ấy lạnh, anh ấy chóng mặt, anh ấy mơ về dòng Niger khi đứng trước sông Saint Lawrence. Rồi những lần trò chuyện của chúng tôi cách quãng dần, nhưng Wa’il vẫn luôn lên mạng. Tôi dõi theo anh ấy qua những bức ảnh trên trang Facebook của anh ấy, hoặc trang Facebook của các bạn bè anh ấy, những người Mali, những người châu Phi ở Québec, gần như tất cả họ đều là sinh viên giống anh ấy. Những bức ảnh trên đó anh ấy không còn lạnh nữa, những bữa tiệc tối nơi anh ấy uống rượu, những đêm anh ấy khiêu vũ.
Những từ đầu tiên Tidy biết nói, việc Bamby vào trung học không còn khiến anh ấy quan tâm như trước. Vẫn những khuôn mặt ấy vây quanh Wa’il trên Facebook. Anh ấy đã tự tạo ra cho mình một gia đình mới. Lúc nào cũng vẫn là những cô gái ấy. Thế rồi, chẳng mấy chốc, luôn luôn là cô gái ấy. Ngồi trên đùi anh ấy, quàng tay quanh cổ anh ấy. Cô ấy tên là Grace. Cô ấy là sinh viên ngành nhân chủng học. Wa’il không đăng bất cứ bức ảnh nào của Grace trên trang Facebook của mình, nhưng cô ấy đăng ảnh anh ấy, những bức ảnh công khai, trên trang Facebook của cô ấy. Wa’il và Grace đã sống chung. Một buổi tối, tôi đã vượt qua ranh giới, tôi gửi đề nghị của tôi cho Grace.
Leyli Maal muốn làm bạn của cô.
Cô ấy đã chấp nhận. Tôi hiểu rằng cô ấy không biết tôi là ai. Rằng thậm chí cô ấy còn không biết là tôi tồn tại. Tôi chỉ nhận ra khi mà Wa’il không bao giờ nhắc đến Tidy trên trang của anh ấy.
Cũng tối hôm đó, tôi đã gửi cho Grace và Wa’il một tin nhắn chúc mừng, cùng một bức ảnh chụp tôi đang bế Tidiane. Họ không bao giờ trả lời tôi. Tôi cho rằng họ đã cãi nhau cả đêm. Hẳn là Grace đã cho anh ta một trận lôi đình vì ghen tuông, tôi không biết Wa’il có thể bịa ra chuyện gì để tự bào chữa, nhưng rốt cuộc anh ta đã thắng. Ngày hôm sau, tôi không còn xuất hiện trong danh sách bạn bè của họ nữa.
Trong nhiều tuần, nhiều tháng tiếp theo, tôi vẫn vào trang Facebook của họ. Bây giờ thỉnh thoảng tôi cũng vẫn vào, Ruben ạ, đến phải nghĩ rằng tôi đã ngấm sở thích bị bất hạnh. Họ đã cưới nhau, họ đang sống ở Montréal, họ có một đứa con, thằng bé ít hơn Tidiane hai tuổi, mọi chuyện đều ổn. Một ngày nào đó nếu gặp lại Wa’il, có lẽ tôi sẽ phải cảm ơn anh ta. Ông có ngạc nhiên vì điều đó không, Ruben? Tôi sẽ giải thích với ông.
Một tối tháng Mười, tôi vào mạng. Hôm đó là sinh nhật con trai Nathan bé bỏng của họ, thằng bé ra đời một ngày sau Halloween. Thằng bé ăn mừng sinh nhật ba tuổi cùng với những đứa bạn người Québec, một nửa là da trắng, một nửa là da đen, có vẻ chuyện đó không quan trọng, màu sắc quan trọng duy nhất là màu cam của những quả bí ngô, của những chiếc đèn ma, những đồ hóa trang của lũ trẻ trong các căn nhà, những trận mưa kẹo, của bữa tiệc tối kết thúc tại nhà hàng MacDo rồi đến công viên giải trí La Ronde. Các bậc cha mẹ hạnh phúc đã đăng tải cả một album ảnh cho cái ngày không thể quên được đó. Tidiane mừng sinh nhật từ vài tháng trước. Tôi chẳng tặng cho thằng bé thứ gì ngoại trừ những nụ cười, con muốn bao nhiêu nụ cười cũng được, con yêu của mẹ. Những nụ cười giống như những nỗi hổ thẹn tồi tệ nhất.
Tôi biết rõ rằng với Tidy, Alpha và Bamby, tôi không bao giờ còn có thể vượt biên bất hợp pháp sang châu Âu nữa. Thế là hết. Tôi đành lập một kế hoạch khác. Tôi bán vài món trang sức trong mớ chiến lợi phẩm chiếm được của Adil, mớ chiến lợi phẩm đáng nguyền rủa mà tôi đã tự hứa với bản thân là sẽ không động đến, và cả gia đình tôi, gồm ba đứa con và cha mẹ tôi, cùng nhau đi Maroc. Đến Rabat. Những người anh em họ xa của tôi có một nhà hàng ở đó. Họ đang tìm người làm. Maroc không phải là châu Âu, nhưng đó là bước đi đầu tiên. Mẹ tôi bị đau lưng, cha tôi bị bệnh khớp, nghề thợ gốm gần như không còn mang lại cho ông chút thu nhập nào, tôi đã thuyết phục hai người rằng Rabat sẽ là một thiên đường với các bác sĩ, các bệnh viện và những khoản lương thực sự.
Đúng là như thế. Rabat là một thiên đường, mặc dù tôi đã nói dối bố mẹ tôi về tất cả những chuyện còn lại. Tôi đã không nói với họ về kế hoạch của mình, để khỏi làm họ hoảng sợ. Trong thâm tâm, Ruben ạ, tôi có thể thú nhận với ông điều này, tôi chưa bao giờ từ bỏ ý định vượt biên. Sang châu Âu. Sang Pháp. Một cách hợp pháp!
Các anh chị em họ của tôi có một nhà hàng ở Rabat, trong thành Oudayas, và sở hữu một nhà hàng khác tại Marrakech, một nhà hàng thứ ba tại Essaouira, và nhà hàng thứ tư tại Marseille. Tôi sẽ tiết lộ với ông một bí mật khác, Ruben ạ. Tôi là đầu bếp tồi nhất Tây Phi, và mẹ tôi vô cùng thất vọng về điều này.
Người ta nói rằng những người mù sẽ phát triển bốn giác quan còn lại. Tôi thì không! Tôi ghét các loại mùi. Tôi không đủ kiên nhẫn để thái rau và các loại gia vị suốt nhiều giờ, chỉ cần nhìn thấy thịt còn rỉ máu, dù có hợp thức theo quy định của đạo Hồi hay không, cũng khiến tôi lộn tròng, và tôi ngàn lần thà đêm nào cũng một mình, cắm tai nghe, lau chùi các siêu thị còn rộng hơm cả các sân bóng, còn hơn là phải làm việc theo lệnh của một ông chủ nhỏ trong bếp. Tuy nhiên, tôi đã đề nghị được làm bếp. Ở nhà hàng Magot của người Berber, tại Marseille.
Ở đó họ không cần người làm. Lại càng không cần tôi. Vậy là tôi nói rõ với họ rằng tôi có thể tự trả lương cho công việc của mình. Tự trả lương, Ruben ạ, nói rõ ra là như thế. Tôi đã vét sạch lần cuối kho báu đáng nguyền rủa kia, và trả cho họ 15.000 euro tiền mặt, tương đương với hợp đồng một năm mà họ sẽ trả lại cho tôi dưới dạng tiền lương được khai báo. Họ chỉ phải soạn một thư mời để gửi cho lãnh sự quán, theo đó tôi là người không có đối thủ trên khắp vùng bờ Nam sông Niger, ở Pháp lại càng không, trong việc nấu món fakou-ouï và món gà yassa. Rằng họ muốn thuê tôi, chỉ tôi và không ai khác ngoài tôi. Trong vòng mười hai tháng.
— Thế sau mười hai tháng đó thì sao? – Anh họ tôi hỏi. – Anh không thể trả lương cho cô nữa. Giấy phép lao động của cô sẽ hết hạn. Cô sẽ phải trở về Maroc. Nếu cô ở lại thì sẽ phải ở trong tình trạng cư trú bất hợp pháp.
— Em sẽ thu xếp, anh ạ, em sẽ thu xếp.
Tôi biết rõ quyền lợi của mình. Điều kiện để được cư trú hợp pháp rất đơn giản, tôi đã đọc đi đọc lại biết bao lần trong mẫu đơn in sẵn của tỉnh Bouches-du-Rhône: Ba năm hiện diện tại Pháp, có thể chứng minh 24 tháng làm việc, trong đó 8 trên 12 tháng gần nhất là làm việc liên tục.
Tôi phải trụ lại ba năm. Ba năm không để bị bắt. Ba năm vừa làm việc, vừa nộp thuế, vừa chứng minh minh có chỗ ở. Chuyện đó nghe có vẻ lố bịch, Ruben ạ, nhưng đó là luật chơi. Những người không có giấy tờ, trên thực tế, họ sưu tầm chúng, họ gom góp chúng. Như thể đó là những điểm số dành cho lòng trung thành.
Làm việc không khó, nếu ta chấp nhận những việc cực nhọc.
Ba năm chịu đựng những lời sỉ nhục, những lần rượt đuổi, những trò lừa đảo, những lời đe dọa, tình cảnh nô lệ, nhưng tôi trụ vững chừng nào tôi còn tích lũy được, tháng này sang tháng khác, các kỳ sáu tháng. Thậm chí tôi còn chấp nhận làm việc mà không được trả đồng nào, chỉ để có một mảnh giấy. Cuối cùng tôi hiểu ra rằng chính vì thế mà Nhà nước để cho chúng tôi yên, những kẻ vô hình như chúng tôi ấy. Chúng tôi đóng thuế, chúng tôi tiêu dùng, chúng tôi è cổ tuân thủ tất cả các nghĩa vụ chẳng khác nào những công dân khác; mà không đòi hỏi bất cứ quyền lợi nào.
Trong vòng ba năm.
Ba năm không được gặp các con tôi.
Tôi đánh dấu tất cả các ngày, Ruben ạ. Lẩn trốn. Tôi đếm từng tháng, cho tới con số ba mươi sáu, và thế là tôi sẽ trở thành một người nước ngoài có tình trạng cư trú hợp pháp.
Hợp pháp!
Khi đó mọi chuyện sẽ trở nên đơn giản. Tôi có thể đưa các con đến theo thủ tục đoàn tụ gia đình.
Hợp pháp!
Hợp pháp, Ruben ạ. Ông có hiểu không. Hợp pháp!
Tôi không còn bị truy đuổi nữa. Chúng tôi đã chiến thắng mà không gian lận.
Không còn điều gì, không còn người nào có thể chia rẽ chúng tôi nữa.
9h42Ngồi trên ghế cạnh cửa sổ, Bamby kéo sát chiếc áo vest của Yan vào ngực. Nó quá rộng đối với cô, và dường như không được thiết kế để cài cúc. Mặc dù cô đã cố gắng, nhưng lớp vải kaki vẫn mở phanh ra mỗi lần cô cử động. Cô kiên nhẫn khép vạt áo lại, vừa vì ngượng nghịu vừa để có chút hơi ấm. Cô run cầm cập vì lạnh, không khí điều hòa trên máy bay như kim châm chích vào da cô. Nếu không thì là do tụt huyết áp.
Cô đã thoát!
Vừa kịp, nhưng đã thoát! Cô bay chuyến sáng. Cô có một hộ chiếu giả, cô không có gì phải lo lắng về giấy tờ và vé máy bay, Chérine luôn có thể cứu nguy cho cô. Cô lẩn trốn trong một khách sạn dành riêng cho nhân viên đội bay của Royal Air Maroc, cách sân bay Beyrouth hai trăm mét. Từ phòng khách sạn của mình, cô đã đặt được vé và chờ giờ khởi hành. Nhưng lại không thể thay quần áo. Cô đã run rẩy cho đến khi máy bay cất cánh, các sân bay được nhồi đầy camera an ninh và hẳn là cô không thể đi qua các mật vụ được trả lương chỉ để săm soi hành khách mà không bị nhận ra.
Bamby áp mặt vào cửa sổ máy bay. Chiếc Airbus bay qua một quần đảo mà cô không thể nhận ra. Hẳn là những hòn đảo Hy Lạp. Trên ghế bên cạnh, một đứa bé chừng tuổi rưỡi đứng trên đầu gối ông bố, thích thú nhún nhảy liên tục như điên đồng thời ra sức liếc mắt nhìn Bamby. Người mẹ ngủ trên ghế thứ ba cùng hàng.
Bamby nhắm mắt một lát. Cô đã tranh thủ được thời gian. Chỉ một chút thời gian. Nếu Yan Segalen báo cảnh sát, họ sẽ dễ dàng nhận ra cô trên camera, bám sát cô, và sẽ phát hiện ra cô ngồi trên chiếc máy bay nào, dù cô đã làm thủ tục bằng một danh tính khác. Cảnh sát sẽ chỉ việc chờ cô ở sân bay đến, và có nhiều giờ đồng hồ để bình thản dệt tấm lưới bắt cô.
Đúng thế, Bamby càng nghĩ lại càng thấy chuyện đó là đương nhiên: kết cục khả dĩ nhất cho chuyến chạy trốn của cô là mọi chuyện sẽ chấm dứt ngay khi cô xuống đất. Giam mình trong máy bay là quyết định nực cười nhất trong tất cả các quyết định cô có thể đưa ra! Nhưng cô còn có thể lựa chọn cách nào khác đây? Chẳng có cách nào, ngoài việc sử dụng triệt để những phút tự do cuối cùng mà cô đang có.
Cô mở chiếc bàn nhỏ bằng nhựa trước mặt và lấy máy tính xách tay từ cặp da đặt dưới chân ra. Chiếc máy tính của Yan Segalen mà cô đã lấy cắp trước khi trốn khỏi căn phòng hạng sang của khách sạn Gordon’s Café.
Khi bật máy tính lên, cô ngạc nhiên thấy nó không được bảo vệ bởi bất cứ mật mã nào. Nền màn hình hỗn độn hiện ra: vài chục biểu tượng rải rác khắp nơi, những shorcut dẫn vào các thư mục. Trước tiên Bamby nhấp chuột vào các tệp tin Excel. Cô lướt qua vô số bảng biểu, các tên họ được xếp theo dòng, những đích đến xếp theo cột, những con số trong các ô. Mỗi bảng biểu chứa nhiều trang giống hệt nhau, chỉ khác biệt ở số chỉ tháng. Một luồng hơi ấm sưởi ấm trái tim Bamby, trái ngược với làn da đang nổi gai ốc. Nếu bị cảnh sát bắt, cô sẽ có một thứ để đánh đổi: những tài khoản bí mật của Vogelzug… mặc dù đây không phải là cách trả thù mà cô mơ ước.
Bên ngoài cửa sổ máy bay, những bến cảng nhỏ xíu và những ngọn núi nhọn hoắt của một hòn đảo lớn hơn những hòn đảo khác đang chơi trò trốn tìm với những đám mây. Đảo Crete, Bamby suy đoán. Nhìn từ bầu trời, hòn đảo trông giống nước Úc. Bên cạnh cô, đứa bé thích thú nhét chiếc vú giả đầy dãi dớt vào miệng người bố.
Cô còn vài phút nữa để phân tích tình hình. Tim cô đã lạnh giá trở lại. Cô tiếp tục lướt qua các bảng biểu chứa đầy tên họ và các con số, lần này chỉ như một cái máy, thậm chí không còn nhìn vào chúng. Yan Segalen lang thang khắp nơi với chiếc máy tính này đeo chéo trên người, không hề có mật mã truy cập. Cô đang tưởng tượng ra điều gì vậy? Rằng cô sẽ khiến Vogelzug sụp đổ chỉ bằng cách mở một tập tin? Những gã này là dân chuyên nghiệp! Yan Segalen còn cảnh giác hơn cả linh cẩu. Đương nhiên là chiếc máy tính này không chứa đựng bất cứ điều gì có thể gây hại. Ít ra là không có bất cứ thứ gì cô có thể một mình tìm ra.
Mà cô thì chỉ có một mình. Bị cắt đứt khỏi thế giới, ở độ cao mười ngàn mét, không có Internet. Cô sẽ chỉ có vài phút, từ khi máy bay hạ cánh xuống mặt đường băng trải nhựa cho đến lúc cảnh sát tóm cổ cô, để nhờ giúp đỡ.
Gọi cho ai bây giờ? Chérine? Alpha? Hay mẹ?
Bamby nhấp chuột một cách ngẫu nhiên vào các biểu tượng, chủ yếu tập trung vào các tệp PDF và JPEG. Cô đã rời khỏi màn hình nền để lang thang trong những thư mục nhỏ, lựa chọn những thư mục cũ nhất, thử mở những thư mục bị bỏ quên từ nhiều năm nay. Cô dừng lại trước một bức ảnh của Yan Segalen, vào tháng Mười năm 2011, đang tạo dáng với ly cocktail trên tay, ở một hàng hiên đầy nắng, bên cạnh một người đàn ông mảnh dẻ, kiểu người càng già càng đẹp lão và mái tóc bạc càng khiến ông ta quyến rũ hơn.
Bamby rùng mình. Cô lại áp trán vào cửa sổ máy bay, lạnh đến tận não.
Jourdain Blanc-Martin.
Trẻ hơn vài năm so với bây giờ.
Bamby chưa bao giờ gặp viên chủ tịch của Vogelzug, nhưng chỉ cần gõ tên ông ta trên trang Google tìm kiếm hình ảnh là thấy mặt ông ta dưới tất cả các góc độ. Chérine thấy ông ta nam tính. Cô nàng Chérine tội nghiệp… Mồ hôi rịn trên trán Bamby để lại những vết ẩm trên ô kính tròn. Những ý nghĩ mờ mịt của cô lúc này đang dồn về Alpha. Cậu em trai đang lênh đênh đâu đó bên dưới cô, trên mặt biển xanh mà cô đang bay qua. Vùng biển không thể vượt qua mà một chiếc máy bay sẽ bay qua trong chưa đầy hai giờ đồng hồ. Cách cô hai ghế, đứa bé đã thiếp ngủ trong tấm chăn đặt trên đùi người mẹ. Người bố thì cầm tay cô ta.
Bamby tiếp tục tìm sâu trong các tư liệu của Segalen, chỉ vì tò mò, vì bây giờ cô đã tin chắc rằng Yan không lưu ở đây bất kỳ bí mật nào. Gã khốn này là kẻ quá có đầu óc tổ chức. Lần theo những album ảnh đã mở, 2007, 2003, cô nhiều lần nhận ra François Valioni, mặc com-lê và tạo dáng đằng trước logo Vogelzug, com-lê cà vạt chỉnh tề ngồi trong các cuộc hội thảo bàn tròn, hoặc mặc quần ống rộng đang thị sát những căn lều trong các ngôi làng ở châu Phi. Jean-Lou không hề xuất hiện. Đã bị xóa rồi chăng?
Cô ngược lên thời gian trước đó nữa. 1994. Một cái tên, chỉ một cái tên duy nhất của một tập tin IMG đột nhiên khiến gáy cô như bị điện giật, trước khi toàn thân cô cảm nhận cú sốc. Ngón tay trỏ của cô đờ ra trên phím Enter.
Adil Zairi.
Cô cúi người về phía trước, vạt áo vest mở phanh, không quan tâm đến cái liếc xéo của ông bố ngồi bên cạnh, anh ta đang vừa dịu dàng vuốt ve bàn tay người vợ ngủ say, vừa nhìn chằm chằm vào lớp đăng ten che phủ trên bầu vú tròn trĩnh của cô với sự chăm chú của một vận động viên trượt tuyết mùa xuân thèm muốn những lớp tuyết vĩnh cửu.
Adil Zairi.
Cô đã đọc thấy cái tên họ này thường xuyên biết chừng nào. Nhất là cái tên riêng. Bốn chữ cái được viết ra bằng nét chữ tròn trịa của Nadia. Cái tên của một tạo vật ác độc trong truyền thuyết, một ác thần trong truyện cổ tích, một con quái vật không có khuôn mặt. Tuy nhiên, Adil Zairi có tồn tại. Ông ta đã làm việc cho Vogelzug cách đây hai mươi năm. Yan Segalen, cũng giống như Jourdain Blanc-Martin, François Valioni, Jean-Lou Courtois và tất cả những người từng làm việc trong tổ chức này vào năm 1996, đều biết ông ta. Những giọt mồ hôi ấm rịn ra lấm tấm trên thái dương Bamby, lăn xuống cổ rồi xuống đến ngực, trước khi khí lạnh điều hòa khiến chúng đông lại thành những giọt lệ giá băng. Bamby run lẩy bẩy, ngón tay vẫn giơ lên cách bàn phím vài centimet. Một con quái vật không có khuôn mặt, cô thầm nhắc lại trong đầu. Cả cô lẫn mẹ cô đều chưa bao giờ biết Adil trông như thế nào.
Trước khi nhấp chuột vào tệp ảnh, Bamby quay đầu nhìn về phía cửa sổ máy bay lần cuối. Họ đang bay phía trên bờ biển Tunisia. Một sợi chỉ mảnh mai tạo bởi những ngôi nhà màu trắng và đen như khâu vùng sa mạc vào với biển.
Rồi cô mở tệp ảnh.
9h44Leyli đứng dậy và tiếp tục nhặt những chiếc kính sặc sỡ và những con chim cú bằng nhựa, bằng vải, bằng gỗ, bằng len, bằng thủy tinh vương vãi khắp nơi trên sàn nhà. Chị bắt đầu sắp xếp chúng theo trật tự lên một tầng giá. Chuyện này thật ngu ngốc, chị biết điều đó. Căn hộ đã trở thành một bãi chiến trường. Phải lau dọn mọi chỗ, sàng lọc, vứt bỏ, sửa chữa.
Ruben vẫn ngồi trên sofa giường.
— Hãy đến đây ngồi đi, Leyli. Đến đây kể cho tôi nghe đoạn tiếp theo của câu chuyện.
— Không có đoạn tiếp theo, Ruben ạ. Câu chuyện kết thúc rồi.
Tuy nhiên chị vẫn đồng ý quay trở lại ngồi cạnh ông. Viên quản lý khách sạn Ibis đặt một tay lên vai chị. Ông đã bỏ cặp kính mát vào túi. Đôi mắt ông biểu lộ nỗi buồn vô hạn, nỗi buồn mà ông thường che giấu hàng ngày đằng sau những câu chuyện phi thường. Sáng nay, ông không còn muốn đóng vai nữa. Hoặc đang đóng một vai khác, vai diễn khi ta cởi bỏ mặt nạ. Đôi khi là cả những lớp vỏ bảo vệ. Những tấm áo giáp bằng vải.
Ruben khẽ ép tay để Leyli nép sát vào ông hơn nữa. Chị cảm thấy khuôn mặt ông quay sang phía chị. Hơi thở của một người hút thuốc. Mùi nước hoa không thể nhận biết rõ của ông.
Đôi mắt ông biểu lộ sự dịu dàng vô hạn.
— Không, Ruben.
Leyli nhẹ nhàng đẩy ông ra.
— Không, Ruben ạ. – Chị nhắc lại.
Chị đọc thấy trong đôi mắt mệt mỏi của ông chủ rằng ông sẽ không nài ép, rằng ông là kiểu đàn ông biết yêu thầm lặng.
— Tôi đã làm tình với một người đàn ông, Ruben ạ. Vài giờ trước. Ngay tại đây.
— Em có yêu anh ta không?
Đây là lần đầu tiên ông xưng hô thân mật với chị. Lúc này chị thấy dường như điều đó là hoàn toàn tự nhiên.
— Em không biết… Ông có ghen không?
Ruben không trả lời. Hoặc trả lời theo cách của ông, bằng một câu hỏi khác.
— Em đã bao giờ yêu một người đàn ông chưa?
— Em không biết.
Viên quản lý khách sạn ôm chị sát vào vai mình thêm chút nữa.
— Tất nhiên là có, Leyli ạ, em đã yêu một người đàn ông. Tôi không nói về Virgile, bố của Alpha, đó chỉ là sự quyến rũ về thể xác, được nuôi dưỡng bởi adrenalin trước cái chết đang lượn lờ xung quanh. Tôi đang nói với em về Adil… Người cứu rỗi em. Em đã yêu anh ta, yêu rất nhiều, thậm chí em đã chấp nhận tất cả vì tình yêu dành cho anh ta.
— Trước khi giết anh ta.
Ruben mỉm cười.
— Bằng chứng tối cao cho việc em từng yêu anh ta.
Ông lưỡng lự một lát trước khi nói tiếp, ánh mắt nhìn bao quát căn hộ bị tàn phá tan hoang, những cuốn sách rời khỏi giá, những cái bìa nhàu nát, những trang sách quăn queo, chẳng khác nào những con chim bị cắt cánh.
— Em có nhớ không, Leyli. Em thú nhận với tôi là em đã cất giấu cuốn sổ đi, cuốn sổ mà em đã đọc cho Nadia, người mẹ đơn thân đó, ghi lại. Em đã thú nhận với tôi rằng em cất giấu nó ở đây. Bên dưới tấm đệm này.
Leyli thấy suy nghĩ này của ông thật lạ lùng. Hẳn là Ruben đã nhận ra, ông liền giải thích.
— Em đã không kiểm tra. Phải chăng cuốn sổ đó chính là thứ những người đàn ông phá hủy căn hộ của em