3. Vị mục sư ngờ vực
Hẳn là do ảnh hưởng của bầu không khí nổi loạn năm ấy, đấy là tôi hình dung thế, vào năm 1968 cha tôi đã mua một chiếc xe hơi kỳ cục được trang bị một động cơ có thiết kế hoàn toàn “cách mạng”, được mọi người nhất loạt ngây ngất bầu chọn là “chiếc xe của năm”. Chiếc NSU Ro 80 - Ro có nghĩa là Rotationskolben - là chiếc xe gia đình được trang bị khối Comotor trứ danh, động cơ quay Wankel đầu tiên sử dụng cho một mẫu xe đại trà. Mềm lòng trước sự canh tân ấy trong ngành cơ khí, cha tôi đã mua chiếc xe bốn bánh của Đức này để chở một gia đình mà ông hoàn toàn có thể cho ngồi trong một chiếc xe có khoang lái khiêm tốn hơn và phổ biến hơn về mặt kỹ thuật. Có thể Johanes vẫn nung nấu trong đầu ý tưởng mở rộng thêm hậu duệ của mình và củng cố thêm dấu ấn của dòng họ Hansen trên vùng lãnh thổ phía Tây Nam này. Dù sao đi nữa, và mặc dù khoang xe rộng rãi đến đáng ngạc nhiên, chiếc NSU động cơ kép ấy rốt cuộc vẫn là một thảm họa thực thụ, với cả loạt những sự cố động cơ vừa bất ngờ vừa đa dạng, không lần nào giống lần nào. Được cho là biểu tượng của kỹ thuật và tư duy sáng tạo trong thế giới tương lai, Ro 80 đã phải tiết chế các tham vọng, chứng kiến doanh số sụt giảm và một thời gian sau đó đơn độc lao theo con đường dẫn đến thất bại, rồi sau đó là sự biến mất của nhãn hiệu NSU, và rốt cuộc là bị Audi mua lại. Dù thế nào, sự xuất hiện của chiếc xe được tung hô nhưng lại chết yểu ấy trong gia đình chúng tôi cũng trùng hợp với sự xuống cấp trong mối quan hệ giữa cha tôi và mẹ tôi. Và cả trong mối quan hệ giữa vị mục sư với Giáo hội của ông.
Trong suốt mùa xuân năm 1968 ấy, rạp Le Spargo, với mặt tiền vừa được làm mới sơ bộ, đã sống trong khí thế đầy phấn chấn của một bầu không khí sôi sục mới mẻ. Cũng giống như tất cả các cơ chế xã hội khác, cái thế giới nhỏ bé của điện ảnh bị cơn bão táp tự do lướt qua, cơn bão ấy đã quét qua các nhà máy, trường đại học, các đại lộ của thế giới xưa cũ nơi vẫn còn dùng gạch lát. Và khi nghe thấy Godard ở Cannes ca tụng cuộc đình công của giới phim ảnh và sự hợp nhất của các cuộc đấu tranh, mẹ tôi, Anna Margerit, đã biến thành nữ cố vấn địa phương “Nghệ thuật và Thử nghiệm”, tham gia phong trào đấu tranh do Godard khởi xướng, đảo lộn chương trình chiếu phim của rạp và mở cửa tầng hầm rạp Le Spargo cho tất cả các thể loại hội đoàn, tổ chức các cuộc thảo luận cho nhiều đối tượng tham gia chỉ có ràng buộc duy nhất là phải kết thúc muộn trong màn sương mù của những đêm ẩm ướt và ám đầy những lời phê phán mang tính khuyến khích.
Các buổi chiều, Anna lên chương trình chiếu những bộ phim trong năm, Rosemary’s Baby[1], La Party[2], 2001: A Space Odyssey[3], Những nụ hôn bị đánh cắp[4], thế rồi tối đến, Marx, Lê nin, Trotski, Mao và Bakunin lại nghễu nghện ngự trên áp phích, và những suất chiếu cứ thế nối tiếp nhau tùy theo các nhóm khán giả kích động trong phòng chiếu, oằn mình thể hiện khả năng của bản thân trong việc “nâng cao nhận thức của quần chúng”.
Thỉnh thoảng mẹ đưa tôi đến tham dự một số cuộc hội họp như thế. Ở tuổi mười ba, tôi khám phá một miền đất mới, tôi bị mê hoặc trước cái ngôn ngữ tự do mới mẻ mà bản thân chưa từng nghe thấy cho đến lúc ấy, cái ngôn ngữ gần như xa lạ được tạo bởi ngạo mạn, giận dữ, hỗn hào, hài hước, mỗi lúc lại dội xuống cuộc đời những phát ngôn khiến người chết cũng phải tỉnh lại. Đương nhiên là tôi hoàn toàn không hiểu gì về những điều mọi người nói cũng như những chuyện đang xảy ra, nhưng vẫn cảm nhận được những rung động nguyên sơ của giác quan, tần số ban đầu của nó, kiểu như “Vua Charles, Hoàng đế Magne của chúng ta, bảy năm trường sống ở Tây Ban Nha”. Và tất cả những thứ đó quay mòng trong đầu tôi, hẳn là cũng giống những câu thơ quay mòng trong đầu ông bà tôi sau khi chiếc DS 19 bị bung nóc.
Trong sảnh vào của rạp phim, Anna đã cho treo những tấm áp phích lớn công bố lịch chiếu, các chủ đề thảo luận sắp tới, một loạt những khẩu hiệu có nội dung như muốn nuốt chửng lẫn nhau cùng những thông điệp có tính chất cung cấp thông tin: “Làm thế nào để chế tạo bom xăng: một chai chứa xăng đến khoảng 2/3 dung tích, 1/3 cát, xà phòng bột, và một miếng giẻ tẩm xăng nhét vào cổ chai.” Còn có cả những câu thần chú quen thuộc đến không thể giải thích nổi, chúng chui vào đầu ta và lập tức tìm được chỗ đứng ở đó: “Hãy nép sát vào cửa kính, hòa mình với lũ côn trùng.” Tôi chưa bao giờ quên câu đó. Và cả câu này nữa: “Chúng tôi không muốn một thế giới nơi ta phải đánh đổi lời đảm bảo không bị chết đói với sự chắc chắn sẽ chết vì buồn chán.” Và rồi, trên cái bảng tin khổ lớn ấy, ta có thể đọc được những lời cảnh báo nhắm đến những mục tiêu rõ ràng hơn, những đại tự báo kiểu như “Godard, gã Thụy Sĩ phò Tàu ngu ngốc nhất”, gây ra những trận đụng độ khủng khiếp, trong sảnh chờ và trên vỉa hè, giữa những kẻ ưa xét lại và những cá nhân thần tượng Mao theo kiểu tự phát, đám con nhà tông. Và cuối cùng, có một tờ giấy khổ 21x297, chắc hẳn là tờ kín đáo nhất, được ghim trên góc trái của tấm áp phích ít phô trương nhất, nhưng một tối, khi đến đón mẹ con tôi, cha tôi đã đứng sững lại trước tờ giấy ấy chẳng khác nào một chú chó Vizsla khi được lệnh dừng: “Làm thế nào để suy nghĩ tự do dưới bóng một nhà thờ?”
Trước lời nhục mạ ngấm ngầm ấy, người chồng và người cha lập tức bốc hơi biến mất, chỉ còn lại con người của Giáo hội đầy giận dữ, bị sỉ nhục và cho rằng bị chính người thân của mình phản bội, rồi khi ngồi sau tay lái chiếc Ro 80 được trang bị động cơ quay tinh tế do Felix Heinrich Wankel (1902-1988) phát minh ra, con người ấy đưa cả cái bầy đàn nhỏ bé vô trách nhiệm của ông về căn hộ nằm bên bờ sông.
Tôi còn nhớ tất cả những gì xảy ra đêm đó, những lời lẽ mà mỗi người họ sử dụng để xô đổ những niềm tin chắc chắn của người kia, âm lượng lời nói mà họ sử dụng để nhắm đến mục đích ấy, và cả bầu không khí ẩm ướt ngột ngạt, mùi đất bùn bốc lên từ dòng sông cùng âm thanh lạnh lẽo phát ra từ cánh cửa ra vào khi cha tôi đóng sầm nó lại. Tối đó, người đàn ông Skagen ấy đã rời khỏi căn hộ lúc nửa đêm, để trốn vào đâu đó giữa vùng cát giận dữ của ông.
Nhưng trước đó, vị mục sư đã tự nướng mình trong cơn giận dữ của Chúa. Bằng thứ tiếng Pháp được dạy ở trường học bị rán vàng trong một xó nhỏ của Jutland. “Cô có ý thức được rằng mình vẫn đang kết hôn với một mục sư không? Dù cô có muốn hay không, thì sự thật vẫn là thế. Tôi cũng nhắc để cô nhớ rằng với danh nghĩa ấy, cô có nghĩa vụ giữ gìn ý tứ tối thiểu là không sỉ nhục công việc của tôi. Tôi đã kiên định chấp nhận việc cô không bao giờ đặt chân đến giáo đường, thậm chí đa số giáo dân trong xứ đều nghĩ rằng tôi là người độc thân. Tôi đã không nói gì khi cô tuyên bố rằng tối nào cô cũng mở cửa phòng chiếu để tổ chức những buổi mít tinh chính trị và một số buổi đã kết thúc bằng những trận ẩu đả mà chỉ có cảnh binh mới chấm dứt nổi. Tôi cũng không nói lời nào khi một bài viết trên báo địa phương giới thiệu cô như một nhà hoạt động chính trị của phong trào, còn rạp chiếu phim của cô thì giống như ‘một trong những lò luyện nghệ thuật của tiền quân cách mạng’. Nhưng tối nay, khi nhìn thấy cái câu ‘làm thế nào để suy nghĩ một cách tự do dưới bóng một nhà thờ’ được trưng lên như thế, giữa mớ áp phích của cô, trong rạp chiếu phim của cô, thì tôi thực sự cảm thấy xấu hổ và nhục nhã. Tôi không thể hiểu điều đó, tôi không thể hiểu nổi. Và làm sao cô có thể đưa đứa con trai mười ba tuổi của mình đến tham dự những buổi như vậy, đến cái nơi trút bầu tâm sự của đám sinh viên nổi loạn ăn nói văng mạng chẳng coi ai ra gì và thi nhau la hét ấy. Một đứa bé vị thành niên ở tuổi ấy làm gì vào ban đêm ở một nơi như thế? Chuyện đó có bình thường không? Tôi không biết cô muốn gì nữa, Anna ạ, tôi không thể hiểu nổi bất cứ chuyện gì nữa.”
Dữ dội như một dàn đàn organ của Stalin[5], phản công của mẹ tôi nhanh chóng dội xuống đầu vị mục sư. Lập luận của Anna ít nhiều lặp lại lý lẽ của những tân chiến binh chỉ mong muốn giành lại quyền kiểm soát cuộc đời mình, thoát khỏi những thánh thần và chủ nhân của họ, trao lại quyền lực cho những người đang hiện diện trong các nhà máy, và thoải mái hưởng thụ mà không bị kiềm tỏa, vào cái thời điểm cuối cùng của tận cùng này, sao lại không chứ.
Đối với một mục sư hồi ấy, cho dù có là người Skagen ở Đan Mạch đi nữa, lại còn là con cái ngư dân, được nuôi lớn bằng cá bơn và chả cá chình, được nuôi dạy trong sự tôn trọng và bao dung, phải thừa nhận rằng thứ độc dược đó quả là hung bạo, tàn nhẫn và khó mà nuốt trôi chỉ bằng một ngụm.
Chính vì thế, tối đó, Johanes Hansen đã bỏ ngang cuộc tranh luận, đóng sầm cánh cửa nhà, lao xuống cầu thang bằng đá, leo lên chiếc xe hơi và khiến động cơ xe rít lên âm thanh đặc trưng của nó rồi rời xa gia đình mình bằng cách lái xe chạy dọc theo hàng tiêu huyền trên kè Lombard.
Xét cho cùng, ông không thể tách bạch những sợi dây thiện và ác đang rối rắm thành một mớ tơ vò, không tài nào biết được đâu sẽ là tín ngưỡng của thế giới trong tương lai, và cũng không tài nào tìm thấy trong chính ông, vào đêm đó, chút dấu vết nào của lòng tin dù là nhỏ nhất.
Chiều hôm nay, chuyến đi dạo diễn ra ngắn ngủi. Trong cái lạnh âm 20 độ, không mấy người trong số chúng tôi chấp nhận ra sân hít thở không khí bên ngoài. Patrick và tôi thuộc thành phần ngoại lệ, mặc dù tôi cảm thấy khá khó khăn khi phải chịu đựng thứ thời tiết khiến hai lá phổi ta bỏng rát còn tứ chi thì tê cóng này. Còn Horton, dường như gã được cấu tạo bằng một thứ vật liệu đẳng nhiệt, giúp gã tách khỏi thế giới của mùa đông. Trong những ngày nhiệt độ tụt xuống thấp hơn nữa, tôi từng nhìn thấy gã nằm thực hiện các động tác trên bàn tập cơ bắp, trong khoảnh sân nhà tù, hai cánh tay để trần, chẳng khác nào gã đang tập tạ vào mùa xuân. Gã rất thích đánh dấu lãnh địa của một con đực thống trị bằng cách đó, phô diễn cái thể chất đầy tiềm năng của mình để gây ấn tượng đồng thời tạo khoảng cách với cả đám lính gác lẫn các tù nhân khác, mà phần lớn trong số đó, ở vào hoàn cảnh mặt đối mặt này, chỉ còn hiểu được hệ chữ cái sơ đẳng cùng thứ ngôn ngữ này của sự hăm dọa.
Hôm nay, lần đầu tiên gã kể với tôi về bố của gã, một giảng viên bộ môn kỹ thuật cơ khí dạy ở một trường cao đẳng. Một người đàn ông mà gã chưa bao giờ thấy đi nghỉ hè hay dành thời gian nghỉ ngơi, lúc nào cũng như một con ngựa bị thắng vào sợi dây cương là công việc giảng dạy, say sưa chuẩn bị cho hàng trăm thanh thiếu niên có được nghề nghiệp trong tương lai, và theo Patrick, bố gã say sưa với công việc đó đến mức quên bẵng cả người vợ lẫn ba đứa con mà ông ta có thói quen làm lơ khi gặp họ trong nhà. “Lúc đầu, khi tao, em trai và em gái tao còn nhỏ, bọn tao thường tự hỏi không biết mình đã làm chuyện xấu xa gì khiến ông ta đối xử với bọn tao như thế. Một hôm, bọn tao đã đi hỏi mẹ câu ấy. Và bà đưa ra câu trả lời ngu ngốc nhất trong tất cả những câu trả lời ngu ngốc: ‘Ông ấy nhiều việc lắm.’ Bọn tao hiểu ra rằng mẹ không muốn nói đến tất cả những chuyện đó. Thế nên bọn tao cũng làm như bà, bọn tao sống với nhau như thể ông ta không có ở đó. Thế nhưng dù sao cũng có một hôm tao đến cắm chốt ở ngay gần trường cao đẳng, để xem bố tao xử sự thế nào với những đứa khác. Và mẹ kiếp, giữa hai tiết học, tao chứng kiến một điều mà tao chưa từng nhìn thấy ở bố tao, ông ta trẻ trung khủng khiếp, ông ta nói chuyện với mọi người, mỉm cười đùa giỡn với đám học sinh chết tiệt ấy, ngắm nhìn chúng như thể chúng chính là con cái của mình. Và điều tệ hại nhất, đó là ông ta có vẻ yêu quý chúng, thật sự là thế, và trong cái giờ giải lao ấy ông ta nói chuyện với chúng còn nhiều hơn tất cả những gì ông ta nói với bọn tao trong suốt cuộc đời. Ngày hôm đó tao đã khóc vì chuyện ấy, tao thề với mày. Tao chẳng nói gì với hai đứa em. Chúng tao tiếp tục sống trong cái thứ quái gở ấy, và ngay khi có thể, tao đã biến khỏi nhà. Bây giờ thì lão ngốc ấy nghỉ hưu rồi. Mẹ tao vẫn sống cùng lão. Thỉnh thoảng tao gọi điện thoại cho bà. Chúng tao không bao giờ nói đến lão. Như thể lão đã chết rồi.”
Chúng tôi đến ngồi một lát trên băng ghế lớn bắt vít xuống mặt sân. Và không nói thêm lời nào nữa. Làn gió lạnh buốt táp vào mặt người rát rạt, rồi luồn lách giữa những mũi đan của chiếc mũ len. Bóng tối chậm rãi buông xuống, và chẳng bao lâu nữa, nơi này sẽ tối tăm như một nấm mồ. Một tù nhân mà tôi không quen biết tiến lại gần rồi ngồi xuống đầu kia ghế băng. Trước cả khi anh ta kịp để ý, Horton đã nói mà không nhìn anh ta: “Biến ngay.” Và người kia, chẳng khác nào bị điện giật, vội đứng bật dậy rồi nhanh chóng rời khỏi chỗ chúng tôi, giống như một người vừa nhìn thấy miệng vực há ra dưới chân mình.
Khi tôi và Horton quay trở về phòng giam, hai lính gác đã ở bên trong và lục lọi từng ngóc ngách, đồ đạc của chúng tôi bị vứt lộn tùng phèo. Tấm khăn trải trên nắp bồn cầu bị ném trên một chiếc nệm, một mớ áo thun bị vứt dưới chân bồn cầu, những tuýp kem đánh răng và bàn chải nằm lăn lóc trên sàn nhà. “Mẹ kiếp, cái quái gì thế này, chúng mày đang giở trò gì vậy, bọn Xiêm kia.” Lục soát đến từng chi tiết. Người ta đã tìm thấy ma túy trong một xà lim thuộc khu chúng tôi. Khi hai lính gác sắp sửa rời khỏi phòng, Horton ra hiệu cho họ lại gần. “Mẹ kiếp, chúng mày làm sao mà tìm thấy thứ gì cơ chứ, tao cất hết vào đây rồi.” Miệng nói tay làm, Patrick nắm lấy cả dương vật lẫn hai hòn cà nằm trong quần rồi lắc lư chúng một lát ngay trước mũi hai lính gác. Không ai trong số hai gã “Xiêm” đó cảm thấy mong muốn tự mình kiểm chứng lời tuyên bố của Horton. Thấy mình đã thắng thế, gã lại càng được đà lấn tới. “Ở đây có một gói to tướng, mà là loại ngon lành đấy.”
Khi cánh cửa đóng lại, phải sắp xếp mọi thứ về chỗ cũ, gấp lại quần áo và lau chùi những thứ bị vấy bẩn. Patrick không ngừng càu nhàu giận dữ, chẳng khác nào một con khỉ đột bị nhốt giam cách xa đồng loại và bị đám lính canh vườn thú đối xử tàn tệ. Sau đó, khi mọi thứ đã sạch sẽ trở lại, gã giở cuốn sổ vẽ, lấy ra mớ bút chì rồi lướt tay vạch vài đường thẳng, vài đường gấp khúc thanh thoát, rồi những đường cong đều đặn, những đường viền ước chừng, và giống như một môn đệ của trường phái Skagen, gã lặng lẽ chìm đắm vào vũ trụ của những ánh sáng hoàn hảo, cái bán đảo nơi những người cha chưa bao giờ tồn tại, cái địa điểm mà chỉ riêng mình gã biết đến, ở đó, vì không thể tái tạo thế giới, gã ra sức vẽ lại nó, ngay từ thời thơ ấu.
Phải mất rất nhiều thời gian mới thu hẹp được cái đường đứt gãy mà tháng Năm năm 1968 đã để lại trong cuộc sống của cha mẹ tôi. Ở tuổi ba mươi tám, mẹ lao ngay đầu vào cái lồng xoay của chiếc máy giặt Lịch sử trong khi ở phía bên ngoài ô kính máy giặt, cha tôi, hai tay chắp sau lưng, không có lựa chọn nào khác ngoài nhìn bà quay cuồng.
Trong suốt cái năm tiếp theo những sự kiện ấy, cha mẹ tôi đã cố gắng khắc phục những thiệt hại mà đợt giội bom vào ngày lễ kia đã gây ra cho cuộc sống lứa đôi của họ. Mùa hè năm 1969, cả gia đình tôi, được sắp xếp tỉ mỉ trên lớp nệm nhung màu xám của chiếc NSU Ro 80, quyết định vượt 2.420 ki lô mét ngăn cách hai hành tinh thuộc về hai hệ mặt trời hoàn toàn khác biệt ấy. Trái ngược với tất cả những gì chúng tôi đã chuẩn bị tinh thần để đón nhận, chiếc xe “động cơ kép” ấy lại tỏ ra vô cùng hữu ích và ngốn hết chặng đường chỉ trong có hơn hai ngày, Anna và Johanes thay phiên nhau cầm lái. Đó là kỳ nghỉ đầu tiên của tôi ở Jutland. Vừa đến nơi, choáng váng trước những trận gió thổi bạt cả các đụn cát, tắm mình giữa thứ ánh sáng trong suốt trải lên mặt nước một lớp màng màu bạc lấp lánh, được bao bọc trong sự ân cần của một gia đình đông đảo chẳng khác nào một đội quân nho nhỏ, tôi có cảm giác kỳ lạ của một người đột nhiên được sống giữa những người ruột thịt của mình. Cũng giống họ, chẳng bao lâu tôi sẽ nói chuyện với lũ cá trích, giải mã những cơn bão, và giữa hai người khác cùng mang họ Hansen, đứng bên những tháp xi lô ở nhà kho, tôi cũng sẽ đóng vào bao thứ bột cá được dùng để nuôi những con cá khác.
Mọi người đều nói rất to, và những tiếng cười chẳng khác nào chừng ấy ngọn roi quất vang lên trong mỗi góc của căn phòng lớn nơi chúng tôi tụ họp. Có đủ loại thức ăn để trong những chiếc đĩa nhỏ không cầm cự được bao lâu trước thói háu ăn của những gã khổng lồ. Tôi và mẹ không hiểu rõ lắm về những chuyện mà mọi người nói với nhau, nhưng chúng tôi vẫn kiên quyết cầm chắc ly rượu trong một tay và cố gắng giữ nguyên nụ cười đúng mực trên môi, giống hệt hai du khách người Anh đang đi nghỉ, những người xa lạ nhút nhát muốn nhập hội. Thỉnh thoảng, cha đi đến bên chúng tôi, siết chặt eo chúng tôi rồi giới thiệu chúng tôi với một người nhà Hansen còn cao lớn hơn người trước đó, người này sẽ phá lên cười khi nghe Johanes kể một giai thoại về chúng tôi mà chính chúng tôi lại hoàn toàn mù tịt không biết gì về nó. Thế rồi, người trong phòng thưa dần, các thực khách cả đàn ông lẫn đàn bà lần lượt tụ tập với nhau ngoài sân. Giống như ở vào một thế kỷ khác, họ sẽ quây xung quanh một buổi đóng yên cương cho đoàn ngựa Frisian, ngày nay họ xúm xít vòng trong vòng ngoài quanh chiếc Ro 80. Cha tôi đã nhấc nắp ca pô lên và tiết lộ với các thành viên của dòng họ những bí mật của động cơ có pít tông quay Wankel hoạt động theo chu kỳ Beau de Rochas[6]. Cả gia tộc Hansen lắng nghe những lời giải thích của cha tôi trong bầu không khí im lặng đầy tôn kính thảng hoặc mới bị xáo trộn đôi chút bởi vài cơn gió khẽ rít trên phần mái nhấp nhô của ngôi nhà. Chẳng khác nào một cử tọa toàn những tín đồ bị cuốn vào bài thuyết giáo của một tay thợ máy đang kể về công cuộc lao động kiên trì và thần thánh để xây dựng một thế giới hoàn hảo.
Tôi hiểu ra khá sớm rằng tín ngưỡng Tin lành là một bộ môn thể thao không mấy khắt khe, với những quy định khá linh hoạt, được giải thoát khỏi cái khuôn khổ cứng nhắc và những nghi thức trói buộc của các tín đồ Công giáo. Mỗi giáo xứ được tự do tổ chức lễ khóa theo ý mình, không có gì được tập trung hóa và các mục sư không có bất cứ quyền lực thực sự nào. Công việc của họ chủ yếu là bình giảng các văn bản tôn giáo hoặc mời diễn giả đến khuấy động những cuộc gặp gỡ hằng tuần của họ. Chính vì thế mà vào Chủ nhật sau ngày chúng tôi đến, cha tôi được Henrik Glass, mục sư ở Skagen, mời lên đứng trước micro để dẫn dắt buổi lễ theo ý ông. Theo những gì ông tóm tắt lại với chúng tôi sau đó, Johanes bắt đầu bằng việc nói về vũ điệu của những hạt cát bị cuốn theo những làn gió từ khắp bốn phương trời thổi đến đây, những trận cuồng phong của những điều mới mẻ và những cám dỗ xói mòn cuộc sống của chúng ta, ngấm ngầm chôn vùi các nhà thờ cùng đức tin của chúng ta. Ông nhắc đến những biến động vừa cắt ngang thời đại, những nghi ngờ và những băn khoăn chính đáng mà chúng có thể khơi lên trong mỗi chúng ta, ông còn ba hoa thêm về vài hình ảnh ẩn dụ khác mà tôi đã quên mất, trước khi đưa ra kết luận với hình ảnh quen thuộc mà ông ưa thích, ngôi nhà thờ bị chôn vùi, và nghĩa vụ của chúng ta, trong suốt cuộc đời mình, cái nghĩa vụ đào bới, gạt bỏ lớp cát để có thể tiếp tục gặp nhau, mỗi Chủ nhật, đông đủ, bên trong đức tin của chính mình.
Bài thuyết giảng của ông có vẻ đã gây ấn tượng mạnh mẽ cho các cư dân địa phương. Trên sân nhà thờ, họ quây xung quanh cha tôi để cảm ơn và khen ngợi ông về bài thuyết giáo xuất sắc. Sự đón nhận nồng nhiệt ấy khiến mặt cha tôi hồng lên vì hạnh phúc, bởi vì những bài giảng mà ông còng lưng viết ra vẫn thường xuyên tan biến trong sự hờ hững của cử tọa ở Toulouse.
Mẹ và tôi, vốn đã thuộc lòng cái giai điệu nhàm tai về những hạt cát, giữ thái độ khiêm nhường ở xứ sở của người Đan Mạch, kiên nhẫn chờ cho cơn nhiệt tình của mọi người lắng xuống, để ngồi vào bàn ăn trưa, giữa những kẻ phàm ăn.
Vào thời điểm khởi hành, khi chúng tôi đã ngồi trong chiếc Ro 80, một người đàn ông vội vã bước về phía ô kính để mở chỗ cha tôi ngồi. Hai người nói với nhau vài câu, và tôi nhìn thấy Johanes nở nụ cười tươi rói nhất của mình. Ông xuống khỏi xe rồi mở chiếc nắp ca pô to rộng. Tiếp theo đó là một cuộc trò chuyện dài dằng dặc về những giá trị so sánh của động cơ Wankel. Người đối thoại của cha tôi, mà sau này chúng tôi biết được rằng khi đó ông ta sắp sửa mua chính cái mẫu xe khốn khổ ấy, thành kính lắng nghe những phát ngôn của vị mục sư, người không bỏ lỡ dịp để thể hiện đức tin của mình đối với những hành động táo bạo thuộc lĩnh vực cơ khí này. Ngày hôm ấy, chúng còn khiến ông phấn khích hơn cả những hành động ngông cuồng liên quan đến thánh thần.
Trong suốt kỳ nghỉ ấy ở Jutland, dù ở độ tuổi còn hay xấu hổ, tôi cũng cảm nhận được rằng người Đan Mạch ưa thích mẹ tôi. Dù chúng tôi đi đến đâu, tôi thấy rằng phong cách, thân hình và nét mặt xinh đẹp của bà cũng thu hút sự chú ý của đám đàn ông. Không dễ dàng để một thiếu niên mười bốn tuổi nhận ra rằng cậu ta có một người mẹ quyến rũ, người mà chỉ bằng hai từ này, đã trở thành một phụ nữ thoát ra khỏi thời thơ ấu của cậu ta, thoát ra khỏi những ký ức của cậu ta, để hóa thân thành một ai đó khác biệt mà cậu ta không còn nhận ra, một ai đó nắm giữ cái quyền năng kỳ lạ mặc dù vẫn là vợ của một mục sư, là khơi dậy nỗi khao khát của cánh đàn ông, bởi vì người đó sở hữu cái túi bùa thần thánh, những thuộc tính ấy, cái tổng hòa kỳ diệu ấy, những hình dạng bí ẩn mà tất cả đàn ông trên thế giới đều mơ ước ấy. Bà ba mươi chín tuổi, bà là mẹ tôi, nhưng tôi sắp phải học cách nhìn nhận người phụ nữ mới mẻ ấy, người từ nay ngày nào cũng sẽ sống chung nhà cùng chúng tôi.
Kỳ nghỉ ở Đan Mạch đã tiếp thêm một nguồn sinh lực tuyệt vời cho mỗi chúng tôi. Cha tôi tìm lại được mùi vị của đất đai quê nhà, âm thanh ầm ĩ của hai vùng biển cùng tình cảm ấm áp của người thân. Mẹ tôi để mặc cho vẻ đẹp rực sáng của phong cảnh xâm chiếm con người bà. Về phần mình, tôi đã học được vài câu cơ bản như Mange tak / “Cảm ơn nhiều”, Jeg er ikke sulten lengere / “Cháu no rồi”, Jeg er søvnig / “Cháu buồn ngủ”, Hvor er min far / “Bố cháu đâu” và Det er en smuk båd / “Đấy là một con tàu đẹp”. Tôi cũng học được rằng bất chấp nền giáo dục Pháp quốc, những bài học của các thầy cô giáo và ngôn ngữ mẹ đẻ của mình, trước hết tôi vẫn là một người nhà Hansen. Trong tôi có một thứ gì đó không thể định nghĩa, nó đến từ nơi ấy và luôn dẫn tôi quay về đó. Chẳng biết vì sao, nhưng ở tuổi mười bốn, tôi đã đinh ninh trong đầu rằng, khi thời điểm tới, tôi sẽ quay trở lại đây để chết giữa những người khổng lồ.
Chuyến trở về không giống chút nào với chuyến dạo chơi vô tư lự ban đầu, chuyến đi đã đưa chúng tôi đến tận mũi chót cùng của bán đảo. Sự cố xe hơi đầu tiên xảy ra ở Aarhus. Một tiếng rít dài, mấy cú giật nhẹ rồi động cơ tự cho phép mình ngủ trưa một giấc ngắn trong vòng ba giờ đồng hồ. Một rơ le điều khiển hộp số bán tự động. Một thợ máy địa phương đặt lại mọi thứ vào đúng trật tự vận hành cho đến khi một trục trặc ở bơm xăng giữ chân chúng tôi tại Hamburg suốt một đêm. Ngày hôm sau, với một thiết bị mới tinh, chúng tôi xuôi xuống phía Dortmund nơi đại lý đặc quyền của NSU tại địa phương nhìn thấy chúng tôi đi vào xưởng sửa chữa của ông ta trên một chiếc xe kéo. Từ địa điểm này, chúng tôi tiếp tục lên đường vào giữa chiều ngày hôm sau mà không bao giờ biết được nguyên nhân nào đã gây ra sự cố vừa rồi. Kỹ thuật viên người Đức cố sức giải thích bằng tiếng Anh về nguồn gốc trục trặc của một bộ phận hình như đang ẩn đâu đó bên dưới nắp xi lanh. Mặc dù anh chàng trung hậu đó đã nhắc đi nhắc lại chatter marks thậm chí cả rotor housing đồng thời kiên quyết giơ ngón trỏ chỉ vào phần trên của động cơ, nhưng cả cha lẫn mẹ tôi đều không hiểu nổi thứ gì đang ẩn chứa đằng sau những lời càu nhàu và thứ ngôn ngữ cử chỉ ấy. Không còn cách nào khác, anh chàng thợ máy liền sử dụng một từ phổ biến khắp thế giới, hơn nữa lại còn giống nhau trong cả tiếng Đức, tiếng Đan Mạch lẫn tiếng Pháp: “Garantie[7]”. Rồi bổ sung thêm nhiều lần: Keine Geld, nein, keine Geld. Câu đó, trong một thứ ngôn ngữ tinh tế hơn, có nghĩa là: “Các vị đã mua một cái xe khốn kiếp, NSU hoàn toàn nhận thức được điều đó nên đã đảm trách việc bảo hành và chịu trách nhiệm về những lần sửa chữa của các vị. Các vị không phải trả gì hết. Nein.”
Một nghìn ki lô mét còn lại được băng qua liền một mạch, như thể chúng tôi đã nuốt một liều thuốc tiên. Paris vào ban đêm, quốc lộ 20, Étampes, Orléans, Châteauroux, Limoges, Brive, Cahors và khi rạng sáng, trong những tia nắng đầu tiên của buổi bình minh ửng hồng, chúng tôi chầm chậm xuôi về phía bình nguyên sông Garonne.
Khi tắt động cơ để chiếc xe dừng lại ngay gần kè Lombard, cha tôi đưa tay lên vuốt mặt và nói: “Quả là một chuyến đi kỳ lạ.” Mẹ tôi hạ cửa kính bên ghế cạnh lái rồi nhìn về phía dòng sông. Thật lạ lùng, bất chấp giờ giấc và những trở ngại trong chuyến đi đầy mệt nhọc ấy, cả cha lẫn mẹ tôi đều không có vẻ gì là muốn vội vàng rời khỏi chiếc xe này để tìm lại nhịp sống thường nhật, mà vẫn muốn kéo dài thêm một chút cái cảm giác đồng điệu đã kết hợp họ với nhau trong suốt hành trình tưởng như bất tận đó, khi hai người thay phiên nhau ngồi sau tay lái để cùng hoàn tất một công trình chung, quay trở lại dưới chân tòa nhà nơi có căn hộ của họ, căn hộ nơi mỗi người đều thầm ngờ rằng một ngày nào đó, cánh cửa thông ra bậc thềm sẽ lại bị đóng sầm một lần nữa.
“Chatter marks”, cha tôi nói. “Rotor housing”, mẹ tôi vừa đáp lại vừa mỉm cười. Rồi họ bước xuống khỏi chiếc Ro 80.
Sáng nay, tôi nhận được một bức thư từ gã giám sát viên. Anh ta hỏi xem tôi có đồng ý tham gia một khóa học diễn đạt do một chuyên gia tâm lý chủ trì hay không, trong khóa học đó mỗi thành viên tham dự sẽ trình bày với những người khác về “đường đời” của mình và những lý do đưa đẩy thành viên đó vào nhà tù Bordeaux. Nếu tôi hiểu đúng toàn bộ, thì khóa học này được thực hiện theo mô hình những cuộc họp của Hội những người nghiện rượu vô danh. “Xin chào, tôi tên là John, tôi ở đây vì hành vi bạo lực có tình tiết tăng nặng, và từ tám tháng nay tôi không đánh ai.” Mọi người đồng thanh: “Hoan hô John.” Rồi vỗ tay.
Thẩm phán hoàn toàn nắm rõ những hành vi của tôi. Ông ta đã lắng nghe tất cả các nhân chứng, và đã xét hỏi tôi hồi lâu. Ông ta đã kết án tôi hai năm tù giam. Mọi chuyện đã được nói hết rồi. Nếu họ muốn thả tôi trước hạn, thì chính họ phải tự chịu trách nhiệm về việc đó. Tôi sẽ không làm như một con chim bay đến mổ vài hạt ăn năn trên tay họ để ăn mày một vài tháng tự do.
Tôi sẽ không trả lời Viggo Mortensen. Tôi đã có một hình dung khác về anh ta. Tôi thấy anh ta thật đáng thất vọng.
“Mẹ kiếp, khi mày vớ được những thứ như thế, đáng sợ thật đấy. Mày đã đọc Kinh Thánh chưa? Ồ! Tao xin nói với mày, Kinh Thánh đấy, mẹ kiếp.” Đó chính là câu hỏi cuối cùng mà tôi có thể hình dung ra rằng một ngày nào đó Patrick sẽ hỏi tôi. Không, tôi ấy, là con trai của một mục sư thật đấy, nhưng tôi chưa từng đọc Kinh Thánh. Nhưng còn gã, gã lấy đâu ra cuốn sách đó? “Chính mẹ tao đã dúi nó vào túi tao khi tao chui vào tù. Bà bảo tao: ‘Nó sẽ chẳng gây hại gì cho con đâu’. Mẹ kiếp, tao đã mở thứ này ra được mười phút rồi, và tin tao đi, đám huynh đệ ấy toàn là những kẻ ra trò cả, và khi họ mà đã ra tay thì sẽ là thứ khác chứ không phải như bọn ta đâu, tao đảm bảo với mày. Đám thẩm phán sẽ mềm mỏng với những con chim như thế. Nghe tao đọc này. Trước hết tao sẽ cho mày biết tên của cái gã đã viết đoạn này, và một con số gắn với nó, trông chẳng giống thứ gì hết. ‘Isaiah 65:12. Nên ta định cho các ngươi phải gươm dao, các ngươi thảy đều quỳ xuống và bị cắt cổ; vì ta đã kêu, các ngươi không đáp lại, ta đã nói và các ngươi không lắng nghe; nhưng các ngươi đã làm điều ta ghét, và đã chọn điều ta chẳng đẹp lòng.’ Này, không hiểu làm sao tay này có thể huênh hoang như thế. Nóng quá, mẹ kiếp, nóng thật đấy. Chờ đã, còn tay này nữa. ‘Matthew 25:30. Còn tên đầy tớ vô dụng đó, hãy quăng nó ra ngoài là chỗ tối tăm, ở đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng.’ Blablabla. Đoạn cuối cùng: ‘Leviticus 20:15. Người ta sẽ ném đá hoặc bắn tên vào hắn. Nếu người đàn ông ngủ với thú vật, hắn sẽ bị xử tội chết, và các người phải giết chết con vật.’ Khỉ thật, mấy tay này bệnh hoạn đến chết mất. Giết chết con vật. Nhưng chờ đã, con vật ấy, nó có liên quan gì đến chuyện của mấy tay ấy đâu.”
Cuốn Kinh Thánh lượn một đường oai vệ trong xà lim, rồi giống như một chú chim bị trúng đạn ghém, nó rơi bộp xuống chân tường lốm đốm mốc xanh, đằng sau đó chúng tôi nghe thấy tiếng chân lũ gặm nhấm đang cào sồn sột.
Nửa đêm, Patrick Horton hét lên một tiếng to và thảm thiết đến nỗi tôi phải bật ra khỏi giường, đồng thời khiến hai lính canh, hai gã người Xiêm, phải xông đến, với trang bị là súng Taser và dùi cui, để chấm dứt thứ mà họ nghĩ là một vụ tấn công bạo lực. “Tôi đã nhìn thấy nó, nó ở đấy, nó leo lên bụng tôi rồi nó nhìn tôi. Tôi không biết nó là chuột nhắt to hay chuột cống, nhưng mẹ kiếp, đồ súc vật ấy nó bò trên người tôi. Tôi đã nhìn thấy nó, sếp ạ, tôi đã nhìn thấy nó. Phải đổi cho tôi sang xà lim khác, tôi không thể ở lại đây được. Tôi không chịu nổi lũ gặm nhấm, thật đấy, chúng khiến tôi phát ốm. Các ông phải làm gì đi chứ, mẹ kiếp, gọi cho ông giám thị đi, gọi cho ai cũng được, nhưng làm gì đó đi.” Như bị mê hoặc trước cảnh tượng một huyền thoại sụp đổ, trước sự suy sụp của một tay anh chị, hai lính gác cố gắng giải thích rằng không thể đánh thức ông giám thị chỉ vì một con chuột nhắt được. Nhà tù là một cái bẫy chuột mênh mông, bấy lâu nay ở đây vẫn nhung nhúc đủ loại động vật có hại. Mọi người đều biết điều đó. Thế nên, mặc dù họ rất thông cảm với sự việc này, quả có thế thực, thì cũng không có chuyện gọi ông sếp đến đây đâu.
Kinh Thánh đã báo thù. Hai gã người Xiêm đã dành thời gian để giải thích cặn kẽ tình hình thực tế với Patrick, kẻ đáng gờm đã giết chết các Thiên thần[8]. Vào lúc 2 giờ sáng, họ vẫn nói chuyện với gã bằng giọng điệu dịu dàng ấy, với sự thấu cảm đầy lý trí vốn thường xuất hiện ở những người mẹ khi họ phải vỗ về xoa dịu đứa con đang kinh hoàng vì một cơn ác mộng giữa đêm. “Tôi không thể. Tôi không quan tâm, tôi không thể chịu nổi nữa. Cho tôi ra khỏi đây. Nếu các ông không có xà lim nào khác, thì hãy giam tôi ở trạm xá. Thật sự là tôi sắp phát điên rồi. Lũ chuột ấy, mẹ kiếp, tôi không thể chịu nổi chúng. Thôi nào, hãy lôi tôi đến trạm xá.”
Mặc dù chuyện có vẻ vô cùng khó tin, nhưng hai viên lính gác vẫn thực hiện một cuộc nói chuyện qua bộ đàm với nhân viên trực trạm xá, rồi gật đầu ra hiệu cho Horton. Giống y như đứa trẻ được người ta miễn cho một hình phạt kinh khủng, gã vội vàng tròng vào người chiếc áo thun cùng cái quần dài, rồi, chẳng thèm nhìn cả Isaiah, Matthew lẫn tôi lấy một lần, gã lao vọt ra khỏi phòng giam chẳng khác nào một kẻ tin chắc rằng thần chết đang bám sát gót mình.
***Line Note Zone***
Chú thích:
[1] Phim của đạo diễn Roman Polanski.
[2] Phim hài của đạo diễn Blake Edwards.
[3] Phim của đạo diễn Stanley Kubrick.
[4] Phim của đạo diễn François Truffaut.
[5] Biệt hiệu do quân đội Đức Quốc xã đặt cho tên lửa Katyusha (nguyên văn tiếng Đức: Stalinorgel) sau khi Stalin ví dàn hoa tiễn như ống hơi của những chiếc đàn organ khổng lồ trong nhà thờ.
[6] Kỹ sư người Pháp, ông Alphonse Beau de Rochas, đã đệ đơn xin cấp bằng sáng chế động cơ bốn kỳ số 52593 ngày 16 tháng Giêng năm 1862, nhưng không đưa vào sản xuất.
[7] Nghĩa là bảo hành.
[8] Trong tiếng Anh, Angel có nghĩa là thiên thần. Đây cũng là tên băng đảng mô tô có thành viên bị Patrick giết.