← Quay lại trang sách

4. Độ sâu của những cổ họng

Tôi đã hiểu ra từ rất sớm rằng cha tôi sẽ không bao giờ là một người Pháp thực thụ, một trong những người tin chắc rằng nước Anh vẫn luôn là một nơi sa đọa và phần còn lại của thế giới là một vùng ngoại ô xa xôi thiếu giáo dục.

Nỗi khó khăn mà ông gặp phải để có thể sống ở đất nước này, am hiểu nó, chịu đựng tất cả những thói tục của nó, khiến mẹ tôi khó chịu đến mức những cuộc trò chuyện lặp đi lặp lại của họ về chủ đề này thường làm sống dậy những mối xích mích khác. Mặc dù đã sống ở Pháp mười sáu năm, Johanes Hansen vẫn là một người Đan Mạch không lẫn vào đâu được, một người ăn smørrebrød[1], một người vùng Bắc Jutland, một người cứng nhắc về những lời đã nói ra, mắt nhìn dán vào mắt người khác nhưng lại khuyết thiếu mất cái phép biện chứng uốn éo đang rất thịnh hành ở chỗ chúng tôi, cái phép biện chứng luôn sẵn sàng phủ nhận những điều hiển nhiên cũng như chối bỏ những điều mình đã cam kết.

Ở đất nước đón nhận ông, ông yêu hơn tất thảy thứ ngôn ngữ mà ông sử dụng với một lòng tôn kính vô hạn và một thứ ngữ pháp hết sức chuẩn xác. Còn lại, có vẻ như ông gặp những khó khăn tệ hại nhất trong việc tìm ra một cuộc đời vừa vặn với mình. Ông thường nói rằng trong tất cả những quốc gia mà ông biết, Pháp là đất nước gặp khó khăn nhất trong việc áp dụng vào chính nước mình những giá trị cộng hòa và đạo đức mà nó đòi hỏi ở những nước khác. Nhất là bình đẳng và bác ái. “Với những vương miện đặc ân của họ, các tổng thống và hầu tước nhỏ của bọn em còn giống vua chúa hơn rất nhiều so với Nữ hoàng Margrethe II tội nghiệp của bọn anh.” Đó là câu nói mà ông thường thích nhắc đi nhắc lại ở bàn ăn, để khích bác mẹ tôi. Ông cũng rất khó chịu với sự ngạo mạn, khiếu nói dối và thói gian lận mà ông nói là ông thấy chảy ròng ròng ở các chính phủ của chúng tôi. Còn về các chính khách của chúng tôi, ông chỉ có thể hình dung ra họ đang bì bõm trong những bồn tắm khoáng nóng của tham nhũng và thỏa hiệp.

Anna liền cắt ngang cái tràng chỉ trích ấy. “Nhưng nếu thế, thì sao anh lại sống ở đây? Anh được tự do trở về nhà cơ mà.” Cha tôi không bao giờ đáp lại, nhưng tất cả chúng tôi đều nghe thấy âm sắc giọng nói dịu dàng của ông: “Con trai anh ở đây, và anh yêu em.”

Mặc dù được sinh ra và được dạy dỗ ở Pháp, nhưng tôi thường có chung những quan điểm và tình cảm tiêu cực về đất nước mình với cha. Tôi hoàn toàn hiểu rằng một người ở địa vị của ông, lớn lên giữa những luồng gió lốc hòa bình và đậm tính quốc tế, sẽ cảm thấy chật chội bí bách trong cái áo trói hình lục lăng[2] nơi người ta cố gắng nhét ông vào. Tuy nhiên, con trai ông ở đó, và cho dù chuyện này càng lúc càng trở nên phức tạp, thì ông vẫn tiếp tục yêu vợ mình.

Le Spargo đã tìm lại được sự yên bình nguyên thủy của nó cùng những chu kỳ lên xuống hòa theo nhịp ra mắt của các bộ phim thành công. Năm 1970, Vòng tròn đỏ, Tristana, Little Big Man, Tay đồ tể, Mash và Lời thú nhận[3] mang lại cho mẹ tôi một trong những năm tươi đẹp nhất. Ngành sản xuất điện ảnh tràn ngập những điều mới lạ xuất sắc len lỏi một cách kỳ diệu vào rạp chiếu phim nhỏ bé “nghệ thuật và thử nghiệm” của chúng tôi, khi mà lui tới đây vẫn còn là một việc làm hợp mốt. Ở trường trung học, tôi nhanh chóng trở nên nổi tiếng nhờ vị thế của mẹ tôi cùng cơn sốt điện ảnh khó tin băng ngang giới trẻ thời bấy giờ.

Về phần mình, tôi đã xem hết những phim mà Le Spargo công chiếu, hết phim này đến phim khác. Đôi khi, tùy theo từng ngày - nhưng thường là vào cuối buổi sáng - và nhân một dịp đặc biệt hay một bộ phim ghi dấu ấn nào đó, mẹ tôi tổ chức một buổi chiếu phim “gia đình”. Khi đó chỉ mình gia đình tôi bao trọn phòng chiếu. Cha, mẹ và tôi, chúng tôi ngồi cạnh nhau, cùng xem một bộ phim chiếu trên màn hình lớn. Đó là những thời khắc không thể nào quên đối với tôi, và trong lúc các hình ảnh nối tiếp nhau chạy ra từ các cuộn phim làm bằng triacetate, trong căn phòng rộng mênh mông ấy, chúng tôi có đầy đủ những nét đặc trưng của một gia đình gắn kết.

Cha tôi rất ít khi nói với chúng tôi về giáo đường và những việc ông làm ở đó. Khác xa những thành tích ở Đan Mạch được tôn vinh bằng những tràng vỗ tay bừng bừng nhiệt huyết, dường như ở đây ông chỉ phụng sự ở mức tối thiểu, trong sự hờ hững lịch sự. Ông vẫn miệt mài viết những bài thuyết giảng, nhưng dường như có thứ gì đó trong ông đã tắt lịm. Mẹ tôi chưa bao giờ lui tới nơi làm việc của ông, còn về phần mình, đã lâu rồi tôi không còn đến nghe những bài nói chuyện tầm phào của ông, chúng cũng giống như những bài nói của các đồng nghiệp và đối thủ cạnh tranh của ông, thảy đều quay cuồng, suốt nhiều thế kỷ nay, trên chiếc máy hát của các nhà tiên tri.

Có những buổi tối, trong lúc chờ mẹ tôi, Johanes rót cho mình một cốc rượu rồi đến ngồi trước ô cửa sổ lớn trông ra sông. Mùa hè, khi trời mưa, ông mở toang cánh cửa để lắng nghe tiếng nước trút xuống và cảm nhận thứ mùi ẩm ướt của sự sống bốc lên từ các vỉa hè. Về con người của Giáo hội với đức tin u hoài và đôi khi vỡ mộng ấy, có lẽ người ta sẽ nghĩ rằng ông chọn Bach hoặc Haendel để tô điểm cho những buổi tối cô độc như thế. Trên thực tế, trong những thời khắc thất vọng ấy, cha tôi thường nghe những bản ghi dường như rơi từ trên giá xuống, trong một trật tự thất thường: Lee Konitz, Emerson Lake and Palmer, Stan Getz, Curtis Mayfield hoặc Led Zeppelin cứ thế tiếp nối nhau trên dàn hi-fi Marantz ghép cặp với bộ loa JBL do chính tay mẹ tôi lựa chọn. Vào thời cha mẹ tôi, âm thanh có tầm quan trọng cốt yếu mà ngày nay đã không còn nữa. Từng có một cuộc chạy đua về khả năng cải thiện những khuyết điểm trong kỹ thuật nén, những sản phẩm cẩu thả và những tiếng ọc ọc của loại đĩa 33 vòng bị những chuỗi vòng cổ kim cương cào xước. Đối với vị mục sư, thứ âm nhạc này hẳn là từ trên trời vọng xuống, thông qua kênh truyền bí hiểm không thể dò thấu của những chiếc loa nốt cao, loa tầm trung và loa siêu trầm do James Bullough Lansing (JBL) thiết kế, và được lắp ráp tại Northridge, California.

Nếu Johanes vẫn còn trên thế gian này và khám phá cái biên bản liệt kê những nỗi bất hạnh trong cuộc đời hèn mọn của tôi, thì có lẽ ít nhất ông cũng hài lòng khi đọc được dòng ghi chú vô dụng nhưng chính xác này về nguồn gốc những chiếc loa của chúng tôi. “Ngày nay, thế giới đã trở nên quá đổi phức tạp để có thể bằng lòng với những giá trị ước lượng, những lời giải thích mơ hồ hoặc những nhận xét mông lung. Hơn bao giờ hết, tôi tin rằng cần phải ràng buộc chúng ta vào với sự đúng đắn, sự chính xác, phải gọi tên chi tiết. Ngày xưa con có thể mua tâm hồn của một con người bằng một hình ảnh sùng kính, và anh ta sẽ chẳng đòi hỏi điều gì khác ngoài một lời ban phúc. Ngày nay, để đạt được những gì cha đến tìm kiếm ở đây, ta sẽ phải đồng hành với đạo hữu đó, trả lời những câu hỏi của anh ta, xoa dịu những lo lắng của anh ta và bao bọc anh ta bằng những cử chỉ kiên nhẫn của một nhân vật tham chiếu mệt mỏi trong Hội những người nghiện rượu vô danh.”

Cha tôi từng nói như thế. Khi uống cạn cốc rượu thứ nhất hoặc thứ hai, đối diện với màn mưa, có những khi ông tìm cách thuyết phục tôi về định kiến của ông, những giờ phút “dành để hoàn thiện đức tin” ấy. Một tối nọ, khi mãi mà mẹ tôi vẫn chưa bước chân lên cầu thang, lần ấy, có lẽ là sau cốc rượu thứ ba, và trong khi màn mưa vẫn liếm vào cửa kính của căn hộ, ông đột nhiên buông xuôi và hẫng tay ngã xuống khỏi bức tường mà ông đã phải bấu víu vào từ rất lâu rồi. “Cha không còn đức tin nữa. Dù chỉ trong một ngày. Dù chỉ một vài giờ lúc này, lúc khác. Không có chuyện hoàn thiện nữa, không còn gì nữa. Khi chúng ta về Skagen, lần trước, cha đã nói chuyện rất lâu với vị mục sư già về những điều này. Sau một lát, ông ấy bảo cha: ‘Nhưng Johanes này, cả tôi nữa, tôi cũng chẳng còn gì, tôi chẳng còn gì hết, ngoại trừ chai rượu scotch này, chai rượu mà cứ mỗi lần hết tôi lại đổ đầy. Đức tin, nó thật mong manh, nó không dựa trên bất cứ điều gì, chẳng khác nào một trò ảo thuật. Mà ta cần gì để trở thành một nhà ảo thuật giỏi? Một con thỏ và một cái mũ. Có một thời, tôi có tất cả những thứ ấy trong lòng bàn tay. Ngày nay, không còn thỏ, không còn mũ, không còn ảo thuật gì nữa.’ Chính xác là thế, con trai ạ. Chẳng còn gì hết. Mẹ con và con đã làm đúng khi không bao giờ đến nghe cha giảng đạo và không bao giờ quan tâm đến toàn bộ chuyện này. Cha thèm được như hai mẹ con. Cha ấy, để kiếm sống, cha phải tiếp tục leo lên sàn diễn để thực hiện cái trò ảo thuật cũ mèm của mình, trò duy nhất mà cha học được. Mà không cần phụ nữ, không cần thỏ, cũng không cần mũ.”

Cho bữa tối hôm đó, cha tôi đã nấu cho cả nhà món cà tím rắc vụn bánh mì bỏ lò. Nó vẫn đang chờ, nguội ngắt đi trong lò. Mẹ tôi về, cố gắng không làm cho cánh cửa nhà đóng sập lại. Johanes đã ngủ thiếp đi.

Buổi sáng sớm, như thể chẳng hề có việc gì xảy ra trong đêm, nhưng dù sao cũng vẫn nhón chân đi thật khẽ, Patrick Horton đã quay trở lại xà lim của chúng tôi. Sau đó, khi chúng tôi đi ăn sáng về, một lính gác thò đầu qua chỗ cửa hé mở. “Tôi đã nói chuyện của anh với sếp rồi. Đã giải quyết xong. Một giờ nữa sẽ có người bên bảo trì ghé qua.” Quả thực, khoảng giữa trưa, một nhân viên nhà tù bước vào condo với một chiếc bay hình lưỡi mèo, mấy miếng kim loại và một thứ bột bả nhanh kết dính. Để thực hiện công việc gắn trát của mình, anh ta hòa thứ bột đó với một chút nước, thêm vào đó ít phoi thép rồi bắt đầu bít kín tất cả những khe nứt chạy ngoằn ngoèo trên tường. Trong lúc anh ta làm việc, Horton đi theo như một cái bóng khúm núm, lần lượt kiểm tra hiệu quả của những chỗ bít. “Anh chắc chắn là đã cho đủ phoi thép vào hỗn hợp rồi chứ? Có sắc không? Phải cắt được chân chúng, nếu không thì chẳng ích gì đâu. Mất bao lâu thì nó mới thực sự rắn lại? Hai mươi tư giờ cơ á? Mẹ kiếp, không có cách nào nhanh hơn được sao?” Anh chàng nhân viên của nhà tù mất một giờ để cạo và bít kín mọi chỗ trong condo. Anh ta phải đi lấy thêm một túi bột bả và một mớ mảnh kim loại nữa. Khi xong việc, anh ta rửa tay trong bồn rửa của chúng tôi, nhìn chiếc khăn trải trên nắp bồn cầu, rồi dò xét chúng tôi một lát. “Ai trong hai anh là người sợ chuột?” Phải mất một lúc Horton mới tự thú. Anh chàng nhân viên cất dọn đồ đạc và mỉm cười. “Mẹ kiếp, tôi đã biết chắc là như thế.”

Tháng Một, ở Montréal, là tháng lạnh nhất trong năm. Tuần này, nhiệt độ tụt xuống tận âm 32 độ. Trong các phòng giam, mặc dù đã có hệ thống sưởi, nhiệt độ cũng chỉ lên được suýt soát 14 độ. Người ta đã phát thêm chăn cho chúng tôi. Loại chăn này làm bằng vải acrylic và tỏa ra thứ mùi kỳ cục khiến ta nhớ đến một số loại cao su có nguồn gốc từ Trung Quốc được tái chế từ lốp xe cũ. Ban đêm, chúng tôi mặc nguyên quần áo đi ngủ. Ban ngày, chúng tôi mặc chồng hai, ba cái áo thun lên nhau để chống chọi với cái lạnh.

Hẳn là chúng đã bị ướp lạnh trong ruột gan của nhà tù và bị tước mất những lối ra vào quen thuộc, nên lũ chuột cống chuột nhắt không quay trở lại thăm viếng chúng tôi thêm lần nào nữa. Đương nhiên là Horton đã phấn chấn trở lại rõ rệt. Gã đã hồi phục hoàn toàn thái độ kiêu ngạo cùng mong muốn được chẻ làm đôi một phần đáng kể của nhân loại. “Tao quen một trong những gã đến đây hôm nay. Một kẻ cắp nhà nghề. Ở Montréal này không có thằng nào tân trang xe đạp ăn cắp nhanh hơn hắn. Chỉ trong một buổi chiều là đâu vào đấy hết. Nhưng mày phải nhớ điều này. Khi thấy số tiền hắn đòi, mày sẽ hiểu ra ngay là hắn không làm việc cho đội từ thiện. Ngoài vụ đó ra, hắn là kẻ lang bạt kỳ hồ lúc nào cũng sẵn dao trong người. Tao cho là hắn sẽ tự chế được một con dao sau chưa đầy hai mươi bốn tiếng ở trong này. Mày thấy đấy, về gã này, tao thậm chí còn chả cần phải băn khoăn, tao biết là hắn sẽ có một kết cục tồi tệ. Một ngày nào đó, tao xin nói với mày, hắn sẽ gặp phải một tay kiếm sĩ Nhật thượng thừa, tay đó sẽ chặt hắn thành hai mảnh. Giống như trong Kinh Thánh có nói ấy, kẻ nào đe dọa ngươi bằng dao, kẻ đó sẽ bị băm nát bét.” Nói đến đây, nhà chú giải Kinh Thánh ưa thích của tôi quấn kín người trong chăn rồi bắt đầu đi tuần một lượt, kiểm tra để chắc chắn rằng các lối ra vào của lũ động vật gây hại kia vẫn được bịt kín, với cả mớ mảnh kim loại giấu bên trong.

Cho dù nhiệt độ là bao nhiêu, đồ ăn mà người ta mang đến cho chúng tôi vẫn thảm hại như thế. Hôm nay, chúng tôi được ăn món lườn gà nâu kèm với thứ đậu hạt nhỏ mà lò vi sóng mới chỉ rã đông được một phần. Thông thường, trong những thời khắc vị giác suy sụp này - ở nhà tù, bữa ăn là một trong những thời khắc quan trọng trong ngày -, tôi không nghĩ đến những món ăn mẹ tôi nấu, những món ăn mà tôi nhớ là chưa từng thấy bà nấu bằng thực phẩm tươi sống, mà nghĩ đến món cá bơn Skagen ngon lành ông nội Sven của tôi thường nấu, ăn kèm với xốt việt quất, sự kết hợp hài hòa của những dòng nhựa ngọt và mặn bên trong khoang miệng.

Tối hôm đó, trời lạnh đến mức tôi không tài nào ngủ nổi. Tôi lắng nghe tiếng những đường ống kêu răng rắc, tiếng người ho đây đó. Thỉnh thoảng, những tràng ho dài vẳng lên từ những phòng giam ở một tầng khác. Những âm thanh bị khoảng cách bóp méo và giảm nhẹ ấy khiến ta nghĩ đến tiếng kêu hay tiếng rền rĩ của những con thú hoang.

Cha tôi vừa ghé qua. Chúng tôi đã nói chuyện nọ chuyện kia, rồi ông khéo léo lồng chiếc Ro 80 vào dòng trò chuyện của hai cha con. Đặc biệt, ông băn khoăn không biết chiếc xe đó đã ra sao kể từ khi ông rời khỏi Toulouse vào cuối năm 1975. Tôi biết câu trả lời, nhưng vẫn muốn giữ nó cho riêng mình. Tôi biết rằng có thể nó sẽ khiến cha đau đớn. Một lát sau, Winona và Nouk cũng đến nhập bọn. Đó là một khoảnh khắc yên bình. Tất cả chúng tôi, người chết cũng như người sống, ở cùng nhau, người nọ ôm siết lấy người kia, những mong mang lại cho nhau thứ mà chúng tôi đang thiếu khủng khiếp, là chút hơi ấm cùng chút an ủi.

Sự giam hãm có một thứ mùi rất khó chịu. Mùi hấp hơi do đắm chìm trong những ý nghĩ tồi tệ, mùi vướng vất của những ý nghĩ xấu xa đã lê lết gần như khắp nơi, mùi chua gắt của những hối tiếc xưa cũ. Không khí tự do, theo đúng định nghĩa của nó, không bao giờ vào đến tận đây. Chúng tôi hô hấp hơi thở của chính mình trong bình kín, những hơi thở chung nồng nặc mùi gà nâu và những toan tính tăm tối. Ngay cả quần áo, chăn ga, da thịt rốt cuộc cũng thấm đẫm thứ chướng khí mà ta không bao giờ có thể quen nổi đó. Sau những lần đi dạo, khi không khí bên ngoài dừng lại trên các ngưỡng cửa quay, bước chuyển tiếp lần nào cũng rất dữ dội, và một cơn buồn nôn lập tức đảm đương việc nhắc nhở chúng tôi rằng chúng tôi đang sống và hít thở trong một cái bụng liên tục cuốn chúng tôi đi, tiêu hóa chúng tôi lâu dài, trước khi, khi thời điểm đến, đào thải chúng tôi để tự giải thoát chính nó thì đúng hơn là trả tự do cho chúng tôi.

Việc tôi lấy bằng tú tài vào năm mười tám tuổi diễn ra không phải không có chút chật vật. Tôi đỗ nhờ một cuộc thi vớt, trong đó người ta kê ra rất đông những thí sinh “chết đuối” trong kỳ thi chính thức. Khác xa với sự hào phóng hồi tháng Năm năm 1968, khi ai nấy chỉ cần trình thẻ cư trú là nhận được bằng, trong những năm sau đó, Đại học Toulouse đã nâng cao đáng kể các đòi hỏi cũng như tiêu chuẩn tiếp nhận. Năng lực của tôi trong thể thao và địa lý, cũng như chút khả năng xoay xở trong vài bộ môn lân cận cho phép tôi trình “giấy chứng nhận” học đường cuối cùng lên người cha mục sư, và tự tai mình nghe thấy, bằng ngôn ngữ của Hans Christian Andersen, với một sự trang trọng nhất định: “Min søn, jeg er stolt af dig”, mà ta luôn có thể dịch thành: “Con trai, ta tự hào về con.”

Trên thực tế, tôi chưa bao giờ thực sự biết rằng liệu đứa con lai, đứa con da màu mà đôi khi tôi có cảm giác đó là hóa thân của mình trong mắt cha tôi, có khiến ông hối tiếc vì đã không cưới một cô gái Skagen chính hiệu, người có lẽ sẽ suy nghĩ theo kiểu Đan Mạch, yêu theo kiểu Đan Mạch, ăn theo kiểu Đan Mạch, bơi theo kiểu Đan Mạch, làm tình theo kiểu Đan Mạch và sinh ra một đứa con vạm vỡ kiểu Đan Mạch có sức mạnh và vẻ đẹp mà ai nấy đều phải ngợi ca, nhưng cũng là đứa con ngay khi vừa mở mắt đã thì thầm với những người thân đang chiêm ngưỡng nó “Smiger er som en skygge: den gør dig hverken større eller mindre” - Nịnh nọt giống như một cái bóng: nó không khiến ta cao lớn hay nhỏ bé đi - hay không.

Có lẽ tôi hoàn toàn hiểu rằng Johanes, vị mục sư vẫn thường nói rằng không có đức tin nhưng có pháp luật[4], đôi khi, vào buổi tối, trong lúc ngắm cảnh mưa rào, vẫn mơ đến đứa con mà ông không bao giờ có được ấy.

Trường đại học đón nhận tôi giống như một kẻ nhập cư dư thừa, và khoa Địa lý tin tưởng là sẽ thật tốt khi dạy tôi rằng Đan Mạch, với diện tích 42.924 ki lô mét vuông, là đất nước Scandinavia nhỏ bé nhất, trừ khi người ta quên gắn cho quốc gia ấy các vệ tinh thuộc về nó, chính là Greenland và quần đảo Faroe, biến nó thành một con voi răng mấu khổng lồ với diện tích 2.210.579 ki lô mét vuông.

Tôi thích địa lý du lịch, thứ địa lý mà chúng ta đi bộ băng qua, ở độ cao của một con người, được tôi luyện qua những đoạn gập ghềnh, sự rã rời của đôi chân và thói đỏng đảnh của thời tiết. Chứ không mấy thích thú thứ địa lý của những cuốn sách hào nhoáng đầy biểu đồ và dữ liệu. Do đó, thời gian học đại học của tôi chỉ tóm gọn lại bằng một chuỗi những lần tới lui thong dong, những bài kiểm tra đo độ ngu dốt, những buổi đọc giáo trình in sao xen kẽ với những buổi chiếu phim dài dằng dặc khiến tối đến, khi được trả về nhà với cha mẹ, tôi thành một kẻ cuồng tưởng mệt lử.

Ở nhà, mọi thứ vẫn theo nhịp điệu cũ, mỗi ngày lại bào mòn đi một chút sự kiên nhẫn của người này và tình yêu của người kia. Căn hộ trên kè Lombard chất chứa một bầu không khí nơi dấu vết của sự hờ hững rốt cuộc cũng hòa lẫn vào những lớp bụi. Vị mục sư tiếp tục nấu các bữa ăn, còn mẹ tôi tiếp tục về muộn. Rất thường xuyên, hai người họ ăn tối theo kiểu mạnh ai nấy ăn, vào các giờ khác nhau.

Anna đảm nhiệm việc cân đối thu chi, lên chương trình chiếu phim từ trước, và nghiễm nhiên tận dụng thế giới đúng như nó diễn ra. Còn Johanes, ông cố gắng giữ gìn vị thế của mình, lặng lẽ viết theo lời Chúa, vá víu bề ngoài của những ảo tưởng, ngẫu hứng một màn ảo thuật nho nhỏ với những gì ông sở hữu trong tay, nhưng vẫn chẳng bao giờ có được cái mũ hay con thỏ nào cả.

Năm 1975, năm tôi hai mươi tuổi, đánh dấu hồi kết của một thế giới, là thế giới của chúng tôi, thế giới của nhà Hansen, thế giới của những người miền Bắc và miền Nam, những người đã vượt qua biết bao ki lô mét và hy sinh biết bao điều riêng tư để hợp nhất với nhau, những người đã học những ngôn ngữ xa la, đã mua những phương tiện giao thông kỳ cục đến khó tin, đã bất chấp tất cả để yêu nhau, theo cách riêng của họ, một người thì nhắm mắt còn người kia thì mở mắt, đã tạo ra một đứa con mà không biết rõ là để cho ai và tại sao, ca tụng công trình của Chúa, lên chương trình cho công trình của quỷ, và, đúng như người ta đã bắt họ phải hứa, ngày nào cũng quét dọn những hạt cát chất đống trước cửa nhà, họ làm tất cả những chuyện đó, rạp người tưởng đến gãy xương, để rồi rốt cuộc chia tay nhau, tách lìa nhau, tách rời ra, chia xé và cắt đứt.

Ngày 24 tháng Tư năm ấy, vào tầm gần trưa, là nạn nhân của thị hiếu tầm thường, nhưng cũng là nạn nhân của thời cuộc và nhất là nạn nhân của việc đột ngột điều chỉnh giá dầu, chiếc DS cuối cùng rời xưởng sản xuất của Citroën trên kè Javel. Đó là một lễ mai táng trong ngành công nghiệp, một buổi lễ thường là làm rơi rất ít nước mắt. Có mặt ở đó, hoặc được ủy quyền đại diện ở đó, là đại diện nhãn hàng, các quan chức Nhà nước, các nhân vật trong giới báo chí, và chắc chắn là còn có ông bà tôi, đứng đâu đó trong cái xưởng nơi người ta sản xuất ra chiếc xe, và trước đấy là lượng vô kể nước tẩy. Ông bà Margerit tha thiết muốn có mặt tại lễ tang này để chứng kiến sự biến mất của kẻ đại diện cuối cùng của cái mà họ coi là một dòng họ sát nhân dài dằng dặc. Họ không quên bất cứ chi tiết nào trong vụ tai nạn ở Naurouze, lại càng không tha thứ cho bất cứ điều gì.

Sau này, khi nhớ lại quá trình giải thể của gia đình Hansen mà không thể nào khoanh vùng căn nguyên của nó, tôi luôn gắn nó với sự phá sản của Citroën. Việc họ bán nhãn hiệu này. Cuộc lưu đày khỏi kè Javel của họ.

Ấy thế nhưng, nếu như chúng tôi có biến mất khỏi kè Lombard và danh mục các gia đình ở đó, thì phần lớn là do một người có tên Gérard Damiano. Con người gốc Bronx này, là tín đồ Công giáo toàn tòng, cựu phụ tá của phòng X-quang, sau đó trở thành thợ cắt tóc trong khu phố, với 25.000 đô la gặt hái được từ các ân nhân thuộc các giáo xứ nơi diễn ra tội ác có tổ chức này, một ngày nọ đã nảy ra ý tưởng làm đạo diễn cho bộ phim khiêu dâm thực thụ thứ hai, do nền điện ảnh Mỹ chuyên nghiệp sản xuất. Toàn bộ kịch bản và lời thoại chỉ viết hết trong một tờ bướm, câu chuyện hoàn toàn dựa trên những khả năng kỳ diệu thuộc về miệng-họng của nữ chính, Linda Lovelace, vây quanh là những diễn viên không chuyên sẵn sàng dâng hiến thân thể mình một cách hào phóng. Việc quay phim, được thực hiện theo kiểu tạp nham với một ê kíp nhân viên mà người ta sắp xếp vào trong một chiếc xe Coccinelle, đóng máy sau sáu ngày trong một mùa đông ấm áp ở Miami. Khi phim được công chiếu ở Mỹ vào mùa xuân năm 1972, một trong số các diễn viên, Harry Reems, người cho đến tận lúc ấy vẫn chỉ sắm vai trong các vở kịch Shakespeare, được thuê làm việc trong đoàn Deep Throat với vai trò diễn viên kiêm nhân viên ánh sáng, bị truy tố vì đã “truyền bá hình ảnh đồi trụy”. Bộ phim này, bị cấm chiếu ở hai mươi bảy tiểu bang, bị bang New York đánh giá là “hoàn toàn tục tĩu”, đã gây ra những trận cuồng phong bê bối, những loạt bài phê bình, những đợt bàng hoàng của đức hạnh. Nhưng các phòng chiếu có thể tiếp cận được ở những nơi bộ phim được phép chiếu thì lại đông nghịt khán giả. Trong suốt sự nghiệp của mình, Deep Throat hay Cổ họng sâu, một bộ phim nhỏ bé, đã thu về hơn 600 triệu đô la. Nhưng phải lưu ý điều này: hồi ấy, Damiano, thợ cắt tóc-đạo diễn, cũng như những diễn viên học việc trong đoàn phim, đổi lại sáu ngày làm việc của họ, chỉ nhận được vài viên sỏi nhỏ trong cả núi vàng này. Quả thực, phần lớn tiền vé đã bị thu hồi, bằng tiền mặt, ngày nào tính ngày ấy, ngay tại quầy bán vé của các rạp, trên cả nước, bởi một đội thu tiền cắm chốt sẵn được giới xã hội đen giao nhiệm vụ bóc lột các diễn viên cùng người thợ cắt tóc kia.

Tuy nhiên, năm sau đó, Gérard Damiano tái phạm, tiếp tục quay The Devil in Miss Jones, bộ phim mang lại 7,7 triệu tiền bán vé, và là thành công lớn nhất trong năm 1973. Trong suốt sự nghiệp ba mươi hai năm của mình, danh mục phim của nhân vật kỳ lạ này dừng lại ở con số chừng 48 phim mà những cái tên lộ liễu huy hoàng như Splendor in the Ass (1989) khiến người ta không thể nghi ngờ chút nào về văn phong, bản chất cũng như nội dung của kịch bản.

Sở dĩ tôi còn nhớ những chi tiết này, đó là bởi, do những hàng rào thép gai của chế độ kiểm duyệt, nên Deep Throat chỉ được công chiếu tại Pháp vào ngày 27 tháng Tám năm 1975. Và trong suốt thời gian chờ đợi dài đằng đẵng đó, ở chỗ chúng tôi, những tranh luận giữa Cải cách với Nghệ thuật và Trải nghiệm diễn ra rất sôi nổi.

Ba năm đã trôi qua kể từ khi bộ phim được công chiếu tại Mỹ. Trong ba năm ấy, khoa Tai-Mũi-Họng và các nhà phê bình đua nhau bàn luận về những điều đặc biệt của cái cổ họng sâu này, về tiểu sử tác giả của nó, về Công giáo linh hoạt của ông ta cũng như về những khoản thu mất hút chẳng khác gì lũ thỏ trong chiếc mũ của đám mafia. Tất cả những giai thoại này như những đợt sóng liên tiếp từ bên kia Đại Tây Dương dội tới, đến nỗi mà, khi Cổ họng sâu được công chiếu trong các rạp ở Pháp, mọi người đều có cảm giác mình đã xem bộ phim ấy rồi.

Do đó, ngày 27 tháng Tám năm 1975 với tôi là một ngày không thể nào quên, cái ngày tiền định khi cuộc đời chúng tôi đảo lộn, khi những gì tôi đã cảm nhận được từ trước đó khá lâu trở thành chính thức.

Ngay từ tháng Sáu, bộ trưởng bộ Văn hóa, Michel Guy, đã hủy bỏ lệnh cấm đối với bộ phim này ở Pháp. Mẹ tôi, với tư cách là một chủ rạp độc lập, đã tiếp cận với nhà phân phối Alpha France để có thể công chiếu bộ phim hiện tượng này ở Le Spargo. Tin này, khi lan đến tận kè Lombard, đã khiến vị mục sư giận điên người, làm bộc lộ nét tính cách hay sợ sệt và bảo thủ ở cha tôi đồng thời giải phóng ngôn từ của ông: “Cô nghĩ tôi phải quan tâm tới cái bộ phim khốn nạn của cô, tới cái âm vật nực cười của cô và những gã để cho người ta bú mút mình suốt cả tiếng đồng hồ? Cô nghĩ rằng chuyện đó sẽ khiến tôi sốc chăng? Cô thật sự nghĩ thế chăng? Không đâu, Anna ạ, thứ khiến tôi muốn thăng thiên, đấy là vợ ông mục sư ở một giáo đường lâu đời lại không hề suy nghĩ dù chỉ một giây đến những hệ lụy mà những lựa chọn phim ảnh ngu ngốc của cô ta sẽ gây ra cho tôi. Nếu cô công chiếu bộ phim này trong rạp của cô, tôi sẽ tiêu đời, tôi không thể xuất hiện tại giáo đường được nữa. Mọi người, báo chí, các giáo dân ngoan đạo của tôi đương nhiên sẽ thiết lập mối liên hệ giữa người đưa thứ bê bối kia về đây với người Chủ nhật nào cũng ca ngợi những công trạng của người Corinth: ‘Thân thể không phải để thỏa mãn nhục dục mà để phụng sự Đấng Tối cao.’ Cô có nhận thức được cô đang vùi tôi vào đống phân thối không? Mà thậm chí còn không bàn luận gì với tôi, không thèm hỏi ý kiến tôi. Chỉ nhờ ngẫu nhiên mà tôi biết được việc này, khi nhấc điện thoại lên. Một gã từ cái nơi gọi là Alpha France bảo tôi: ‘Bà Hansen không có nhà sao? Ông là ông Hansen phải không? Vậy thì tôi có một tin vui cho ông bà đây. Cổ họng sâu OK rồi nhé. Ông bà có thể khai thác bộ phim khi nó được phép công chiếu. Chúng tôi sẽ thông báo cho ông bà ngày chiếu và ngày các cuộn phim đến. Tôi xin báo trước, nó sẽ làm ông bà phải thay đổi lịch chiếu thông thường đấy.’ Cô mà cho chiếu phim này, thì cả cuộc đời tôi sẽ thay đổi, Anna ạ, cuộc đời của tất cả chúng ta.”

Mẹ tôi đứng bật dậy rồi đập mạnh hai bàn tay xuống mặt bàn. “Anh chỉ là một mục sư tỉnh lẻ vớ vẩn, một tín đồ Tin lành mắc kẹt, bảo thủ và mù quáng trước những đổi thay. Anh chẳng nhìn thấy gì, anh chẳng hiểu gì, anh làm ra vẻ rồi anh phán xét, trưng cái cuốn Kinh Thánh ra cứ như thể nó là bộ luật Hình sự không bằng. Anh vẫn còn sống ở thế kỷ 19 với những câu chuyện về bột cá và cái bán đảo bị vùi cát của anh. Anh làm tôi phát ngán, Johanes Hansen ạ. Mọi người, ở khắp mọi nơi, đều sẽ xem bộ phim này, chắc chắn nó là một thứ vớ vẩn nhưng lại đánh dấu một bước ngoặt trong cái lĩnh vực mà tôi đang hoạt động. Tôi không biết rõ lắm, nhưng tôi tin chắc đó sẽ là một sự kiện. Thế nên tôi nói cho anh biết, tôi sẽ không từ bỏ tất cả những chuyện này chỉ để xoa dịu những lo âu nghề nghiệp của một ông chồng không hề chấp nhận công việc của vợ mình. Tôi giới thiệu những bộ phim, Johanes ạ, anh hiểu điều đó mà, đấy là công việc của tôi. Khi tôi nhận được một phim của Bergman, một phim của Tarkovski, tôi sẽ giới thiệu chủ nghĩa siêu hình, chủ nghĩa thần bí. Còn khi đó là một phim của Damiano, tôi cho người ta thấy những con cu, những con cu và những hột le. Và tôi thực sự lấy làm tiếc nếu những thứ nhỏ bé đến thế ở sâu trong một cái cổ họng lại có thể khiến anh rơi vào trạng thái như thế này.”

Nói xong, Anna rời khỏi phòng và đóng sầm cánh cửa thông ra bậc thềm lúc ra khỏi nhà.

Tối đó, tôi hiểu rằng cha tôi và tôi, theo một cách nào đó, chính là chiếc DS cuối cùng ra khỏi dây chuyền lắp ráp, và cả đằng trước lẫn đằng sau chúng tôi đều là miệng vực cô đơn và bấp bênh. Trong cuộc xung đột gia đình này, cho dù đương nhiên là tôi chia sẻ quan điểm tự do, thực dụng và hiện đại của mẹ, nhưng tôi vẫn lập tức đứng về cùng phe với Johanes. Hẳn là vì một thứ tình đoàn kết thầm kín của dòng máu Đan Mạch, nhưng cũng còn vì khi nhìn thấy người cha bối rối, không còn đức tin, người đã quên hết tất cả những trò ảo thuật của mình, người đã bị tước mất ngôn ngữ của mình, người vẫn thường ngắm nhìn những cơn mưa rào giội xuống trong lúc chờ đợi mẹ tôi, tôi cảm thấy tâm can mình đảo lộn. Cuộc sống của cha tôi diễn tiến theo hướng trái ngược với tất cả những bộ phim mà tôi đã xem và cũng trái ngược với cái thế giới đang bao bọc chúng tôi. Giống như động cơ Wankel trong chiếc NSU của ông, cha tôi cứ quay mòng mòng tại chỗ mà không thực sự tiến lên, không thể mắc nối đủ để thoát khỏi vết xe đổ.

Và chuyện phải đến đã đến. Một ấn bản miễn phí chuyên thông báo những vở diễn và những phim sắp ra rạp nhắc tên Le Spargo trong danh sách các rạp chiếu phim được trao quyền giới thiệu Deep Throat. Rất nhiều bài bút chiến được đăng trên báo chí khi gần đến ngày công chiếu bộ phim, và một số hội đoàn đạo đức hăng hái chỉ trích việc sử dụng cái cổ họng mở rộng theo cách thức trái tự nhiên như thế. Trong giới tín đồ Tin lành, nơi rốt cuộc mỗi người đều thiết lập được mối liên hệ giữa bà chủ đang gây ầm ĩ của rạp chiếu phim này với mục sư Hansen, mọi người ngày càng bối rối trong việc tìm ra một câu trả lời thỏa đáng cho những băn khoăn dai dẳng của bộ phận kém cấp tiến nhất trong cộng đồng.

Ngày 22 tháng Tám năm 1975 - hôm ấy là thứ Sáu -, cha tôi bị hội đồng giáo sĩ triệu tập và giải thích với ông rằng do một tình huỗng khá đặc biệt có thể đẩy mỗi người vào một vị thế khó xử, họ đã quyết định tạm đình chỉ chức vụ của ông, biện pháp này có hiệu lực ngay lập tức.

Người đàn ông tôi gặp lại trong căn hộ là một người câm lặng, lơ đãng như thể đã lạc mất chính mình.

Sáng Chủ nhật ngày 24 tháng Tám, Johanes ở nhà. Ông xuống tầng, đi bộ trên kè dọc bờ sông Garonne, rồi gọi vài cuộc điện thoại, trong đó có một cuộc bằng tiếng Anh. Ông không gọi đến số nào ở Đan Mạch, hẳn là vì muốn để gia đình ông ở ngoài toàn bộ chuyện náo động này, và tránh phải nhắc đến mẹ tôi để giải thích cho nỗi bất hạnh của mình. Ngay từ hôm thứ Sáu, sau khi kết thúc cuộc nói chuyện, cha tôi đã biết rằng lệnh đình chỉ công việc của ông là vĩnh viễn, và ông sẽ không bao giờ gặp lại giáo đường của mình nữa. Vả lại, làm sao ông có thể biện bạch cho việc quay lại đó, và sau này là việc duy trì công việc ấy, nếu sau đó chủ nghĩa hiện đại của Anna tiếp tục thôi thúc bà lên lịch chiếu, vào năm sau đó, cho The Devil in Miss Jones, và năm sau đó nữa, cho Splendor in the Ass?

Những suất chiếu ngày 25 tháng Tám đương nhiên là kín rạp, cũng giống như những suất chiếu trong những ngày và những tuần tiếp theo đó. Tất nhiên, bộ phim tệ đến múc cần phải xóa đi làm lại, và một nhà phê bình địa phương, sau khi xem phim, đã đánh giá nó là một phim dành cho “những kẻ thị dâm”.

Cha tôi rất hiếm khi ra khỏi kè Lombard. Dường như ông đã chấp nhận thất bại của mình. Tôi nhận thấy ông dành không ít thời gian bên máy điện thoại và trò chuyện với những người đối thoại ở đầu dây đằng kia khi thì bằng tiếng Pháp, lúc thì bằng tiếng Anh. Với mẹ tôi, ông đã đóng kín những tranh luận và chỉ còn giao tiếp với bà để giải quyết vài việc lặt vặt thường ngày, những việc có thể gây cản trở cho cuộc sống trong gia đình. Không thêm một lời nào nhắc đến Damiano hay Linda Lovelace. Dần dần, vụ ầm ĩ cũng lắng xuống. Sau một thời gian bối rối vì sự ruồng rẫy đột ngột của ông chồng, Anna nhanh chóng lấy lại vẻ oai vệ của bà, thoải mái cưỡi lên một thành công cùng những khoản thu mà không bao giờ có một kẻ thu tiền ám muội nào đến đòi lại cả.

Đến giữa tháng Chín, vào giờ ăn tối, trong lúc bên ngoài một cơn cuồng phong ập đến với những luồng gió dữ dội như cắt xẻ không gian, giọng nói điềm tĩnh và khoan thai của cha tôi vẫn át hẳn tiếng sấm đùng đùng mà không gặp chút khó khăn nào. “Thế này, anh chỉ muốn nói với em và con hai chuyện thôi: trước hết là hội đồng giáo sĩ đã tiếp chuyện anh cách đây một tuần để khẳng định rằng anh sẽ không được tái bổ nhiệm vào vị trí cũ, mà không nói thêm gì về nguyên nhân của việc thải hồi này. Tin thứ hai, đó là anh đã tìm được một công việc mới. Anh sẽ được bổ làm mục sư chính cho Methodist Church ở Thetford Mines. Đó là một thành phố nhỏ ở Canada, trong vùng Québec. Anh sẽ tiếp nhận công việc mới vào ngày 1 tháng Mười một. Khoảng giữa tháng Mười anh sẽ chuyển đến đó. Từ giờ đến lúc ấy, anh sẽ cố gắng xóa bỏ, về mặt hành chính - anh biết rằng người Pháp bọn em vốn rất chuộng môn thể thao này - toàn bộ dấu vết về thời gian anh lưu lại thành phố này cũng như trong gia đình này. Trong điều kiện như vậy, thì việc chúng ta ly hôn, Anna ạ, có vẻ là một bước quá độ bắt buộc. Anh để em tùy ý lựa chọn thời hạn tiến hành, và đương nhiên, trước khi lên đường, anh sẽ ký tất cả những giấy tờ mà em cần đến. Không nói thì cả em và con cũng đều biết rằng hai người sẽ luôn được chào đón ở cái thành phố nhỏ xíu mà hiện giờ anh vẫn chưa biết được điều gì về nó, ngoại trừ việc của cải ở đó đều đến từ các mỏ a-mi-ăng.”

Với sự quyết đoán như một phụ nữ Đan Mạch chính hiệu sống ở vùng bán đảo, mẹ tôi đứng bật dậy bên bàn và chiếu thẳng ánh mắt vừa ngạo mạn vừa giận dữ vào đôi mắt xanh của Johanes Hansen, hẳn là vào thời khắc ấy trong mắt mẹ tôi, cha tôi chỉ là một mục sư nhỏ bé. “Giấy tờ ly hôn đã sẵn sàng hết rồi. Anh sẽ thấy nó trong ngăn kéo tủ com mốt, cạnh cửa ra vào.”

“Mày đang nghĩ gì thế, hả twit?” Tôi không thể hình dung Horton có thể hỏi tôi một câu như thế, lại còn thân mật gọi tôi là “twit”, mà “đồ ngốc” là cụm từ gần nghĩa nhất trong tiếng Pháp. Lẽ ra tôi có thể nói với gã rằng tôi đang nấn ná trong một thế giới đã bị chôn vùi, giấu kín từ rất nhiều năm nay, một thế giới xưa cũ nơi người ta có thể chia tay nhau chỉ vì một bộ phim tồi, một thế giới nơi tôi từng sống cách đây gần hai chục năm, nơi hiện giờ tôi vẫn còn một chỗ cho riêng mình, ngồi bên bàn, giữa cha tôi và mẹ tôi, hai con người mà tối đó, tôi đã nhìn thấy ở bên nhau lần cuối cùng trong đời. Và ngày nay, chẳng còn lại gì từ cái thế giới ấy nữa. Vị mục sư đã chết trước mắt tôi. Anna, sau khi sống một thời gian dài theo kiểu cặp kè tự do với một nhà sản xuất phim nhỏ người Thụy Sĩ, đã qua đời năm năm trước vì một lần cố tình dùng thuốc quá liều. Còn chiếc NSU, sau khi bị lấy cắp và bị phá hủy hoàn toàn trong một tai nạn đường bộ, ít lâu sau khi cha tôi ra đi, đã kết thúc hành trình của nó tại một cửa hàng buôn đồng nát. Còn về rạp Le Spargo, số phận của nó tuân theo xu hướng của thị trường, tàn lụi dần dần, rồi bị mẹ tôi bán cho một ông chủ trẻ tuổi người Marseille, anh chàng tự cho rằng mình có nghĩa vụ từ bỏ cái nhãn hiệu “nghệ thuật và thử nghiệm” để biến nơi này thành một rạp phim xinh xắn chuyên chiếu phim khiêu dâm, Le Prado, sau đó được đặt lại tên là Zig-Zag trước khi bị thay thế hoàn toàn bởi một cửa hàng nhượng quyền chuyên bán kính mắt có vẻ không mấy quan tâm đến quá khứ của địa điểm ấy.

Vậy đấy, đó chính là những gì gã “twit” đang nghĩ trong cái buổi tối tháng Một khi mà nhiệt độ không ngừng sụt giảm. Chẳng bao lâu nữa, những chiếc chăn bổ sung sẽ không còn đủ đảm bảo cho chúng tôi chút hơi ấm tối thiểu. Các lò sưởi, dù đã vặn hết công suất, đều quá cũ kỹ để có thể đương đầu với những biểu hiện cực đoan của mùa đông.

“Mày có biết chuyện gì đã xảy ra hôm qua ở New York và cả rất nhiều thành phố khác trên thế giới không? 3.000 đứa cùng cởi quần một lúc. 3.000 đứa cùng lúc, mày có tin được không? Hình như đấy là ngày hội ‘No Pants Day’ thì phải. Tay dẫn chương trình giải thích gì đó kiểu như ‘các thành viên của câu lạc bộ này làm thế để cảm thấy tự do hơn khi không mặc quần, đồng thời, trong ngày này, họ vẫn tiếp tục nhịp sống bình thường ở chỗ làm và trên đường phố, nhưng chỉ mặc sịp’... Khỉ thật, cứ như đang mơ ấy nhỉ. Mày thử hình dung một tay lính gác mò mặt đến condo này mà chỉ mặc quần lọt khe rồi gào vào mặt mày: ‘Hansen ra phòng thăm thân!’ Hoặc lão thẩm phán ở tòa án, lão ta chỉ mặc quần đùi mà cho mày bóc hai chục cuốn lịch. Mẹ kiếp, nếu thế thì ‘No Pants Day’ sẽ vui phải biết. Tao xin nói với mày, ông bạn ạ, chúng ta đang sống trong thế giới của một lũ điên rồ. Mặt khác, tao ấy à, tao chẳng thấy phiền hà gì nếu chúng muốn vứt quần của mình đi. Nhưng vào tháng Một, với nhiệt độ như thế này, thì món đó lại thành cái của nợ thể thao mạo hiểm rồi.”

Một thứ gì đó tăm tối và vướng víu, một tấm khăn san dày cộp u buồn, chợt như trùm lấy hai vai tôi. Horton vẫn tiếp tục phổ biến những tin tức sốt dẻo nhất trong mớ văn hóa mà gã thu thập được từ đài truyền thanh, nhưng những thông điệp của gã nhòe nhoẹt đi trước cả khi kịp truyền đến tai tôi.

Tôi thường xuyên nhận thấy cái cảm giác trống vắng ấy, cái cơn khó ở ấy. Nhất là ở thời điểm, sau khi khai quật hết từng ấy người đã khuất, tôi ý thức được đầy đủ về nỗi cô độc của bản thân. Từ giờ trở đi, tôi là người cuối cùng trong gia đình Hansen ở miền Nam.

***Line Note Zone***

Chú thích:

[1]Một món bánh đặc trưng của người Đan Mạch.

[2]Pháp còn được gọi là đất nước hình lục lăng, do hình dạng của lãnh thổ nước này.

[3]Phim của các đạo diễn Jean-Pierre Melville, Alfred Hitchcock, Arthur Penn, Claude Chabrol, Robert Altman và Costa-Gavras.

[4]Tác giả chơi chữ với cụm từ “sans foi ni loi” trong tiếng Pháp, nghĩa là không có đức tin cũng không có đạo đức, chỉ một người vô đạo đức, biến nó thành “sans foi la loi”, ở đây chúng tôi tạm dịch là “không có đức tin nhưng có pháp luật”, hẳn là thể hiện sự bất lực của một mục sư trong việc duy trì đức tin của bản thân và của các giáo dân.