5. Thetford Mines
Thetford Mines
Sau khi cha tôi đi, Anna không có bất cứ nỗ lực nào để xích lại gần tôi, mà vẫn tiếp tục cuộc sống của bà như chưa hề có chuyện gì xảy ra, công khai không thèm đếm xỉa đến hình bóng của vị mục sư vẫn tiếp tục đi lại trong căn hộ của chúng tôi. Thời kỳ ấy, tôi vô cùng oán hận mẹ vì đã không nhượng bộ bất cứ chút gì trước Johanes, và đã để cha ra đi chẳng khác nào một khách qua đường. Vết đứt gãy ấy không bao giờ lành lại được. Và càng khó lành hơn sau khi tôi, đến lượt mình, vào mùa hè năm sau đó, đã bay đến Canada để gặp lại cha.
Thetford Mines ngày nay vẫn còn là một sai lầm về địa chất đồng thời là một điều kỳ lạ về thẩm mỹ. Ngoại trừ cái tên đưa ra cho ta một chỉ dẫn, còn lại không có gì đáng chú ý xét từ góc độ thực tế thuần túy. Thành phố (45°06’ Bắc / 71°18’ Tây) có 25.000 cư dân sống rải rác thành từng cụm, mật độ trung bình khoảng 100 người cho mỗi ki lô mét vuông, trên một tổng diện tích khiêm tốn khoảng 225,79 ki lô mét vuông. Bị cắt ngang bởi dòng sông Bécancour dè dặt, thành phố nằm chính giữa Québec, về phía Bắc, và Sherbrooke, về phía Nam. Nó được gắn vào vùng Chaudière-Appalaches. Là dấu hiệu cho thấy một sự thịnh vượng tương đối, thành phố có một bệnh viện đa khoa, một trường cao đẳng nghề, một trung tâm hội nghị và một bể bơi ngoài trời. Mỗi năm, thành phố tổ chức Festival Âm nhạc Promutuel de la Relève và một triển lãm xe hơi cổ. Assurancia và Blue Sox de Thetford lần lượt là tên đội khúc côn cầu và đội bóng chày của thành phố.
Khi ta đến nơi, bản danh mục hợp lý về những tài sản và dịch vụ này sẽ tan biến trước những hố to tướng bao bọc và khoan thủng thành phố cho đến tận khu trung tâm. Thế giới hậu Armageddon[1]. Khắp nơi toàn là mỏ, hết mỏ này đến mỏ khác, những cái mỏ lộ thiên, sâu hoắm, sục sạo vào tận trong lòng đất, những lỗ Mặt trăng khổng lồ, những hố sao Hỏa quá khổ, được gọt đẽo theo hình bậc thang, vằn vện những con đường ngoắt ngoéo, những bãi thải bụi băm, cuộn tròn, chẳng khác gì những con vật khổng lồ đang say ngủ. Đây đó có những cái hồ lớn như thể từ trên trời rơi xuống, chứa đầy thứ nước tuyệt đẹp màu ngọc bích, một biển kim hoàn nhỏ, gần như siêu nhiên và tỏa sáng rực rỡ giữa khung cảnh bị hủy hoại bởi những vết sẹo, bởi vẻ âm u và xám xịt.
Cái tên của thị trấn nhỏ cuối cùng bị Thetford Mines nuốt chửng, Amiante, đã nói lên rất nhiều điều về bản chất của những tầng ngầm ở đây. Còn thị trấn gần nhất thì được gọi là Asbestos[2].
Vậy ra, đây là nơi cha tôi đang sống, trong cái chảo đầy dây nhợ và bụi bặm này, trong cái khung cảnh vùng mỏ khó tin này, giữa cái thành phố bị đào bới, bị băm chặt, bị đánh bom này, cái thành phố phi thực, nơi a-mi-ăng trắng đã trở thành chúa tể kể từ năm 1876.
Người tìm ra vỉa mỏ ở đây, bằng cách cào móng tay xuống đất, tên là Joseph Fecteau. Đó là một trại chủ có những ngón tay bằng bạc. Tiếp theo ông ta, Roger Ward, anh em nhà Johnson và rất nhiều người canh tác đất đai theo kiểu mới khác đã ra sức cày xới, róc rỉa đất đến tận xương tủy, phá hủy các cảnh quan, đẽo gọt các tầng ngầm và dùng thuốc cho nổ tung tóe những khối núi đá chứa đầy a-mi-ăng trắng mà các nhà địa chất học ở Đại học Montréal, vốn là các chuyên gia về kỷ Đệ tứ, đã miêu tả trong ấn bản của họ về “ba lớp địa tầng cấu thành lớp thế Pleistocen của vùng Thetford Mines”.
Vậy là vị mục sư thuyết giảng ở giữa thời đồ đá cũ. Ông đã băng ngang thế giới để quay trở lại với nguồn gốc của nó, về với thời kỳ khi mới xuất hiện những con người đầu tiên, những con người tự trang bị cho mình những công cụ bằng đá đẽo. Vắt vẻo trên những chiếc máy xúc có khả năng rạch nát cả các tầng trời, hậu duệ của họ ngày nay đang sục sạo trong các dấu tích về nguồn gốc của họ, cào xới các địa tầng tích tụ từ xưa, giống như những con chó kim loại háu đói tìm kiếm một khúc xương đang bị chôn giấu.
Những miệng giếng lộ thiên thường mang tên những công ty khai thác chúng, và do hiện tượng mao dẫn, khiến những con phố xung quanh đó cũng được gọi cùng tên. Những công ty này có tên là King, Bell, Beaver, Johnson và rất nhiều tên khác. Những ngôi nhà của các cư dân đôi khi ở sát bên các khoảng trống, những vực sâu nơi những chiếc xe ben khổng lồ trở đi trở lại như một thứ guồng nước giữa nơi sâu thẳm của thế giới, những phần ruột gan đầy sợi a-mi-ăng này, với vùng bề mặt nơi thứ ánh sáng bụi bặm chưa bao giờ mang lại cảm hứng cho bất kỳ trường phái hội họa nào.
Năm 1975, Thetford Mines là một trong những vùng mỏ cung cấp a-mi-ăng trắng lớn nhất thế giới, nơi việc sản xuất được tiến hành không chút ăn năn hay ngưng nghỉ, và chẳng ai còn nghiêm túc bận tâm đến hai mươi sáu nghiên cứu về sức khỏe đã được công bố từ năm 1934 đến năm 1954 nêu ra các ca mắc bệnh bụi phổi a-mi-ăng và ung thư phổi ở các bệnh nhân làm việc trong lĩnh vực liên quan đế a-mi-ăng ở Pennsylvania, ở xứ Wales hay ở Québec.
Chính là ở Paris, vào năm 1975, cái năm cha tôi chuyển đến sống giữa lòng Thetford Mines, đã nổ ra vụ bê bối liên quan đến a-mi-ăng tại Đại học Jussieu. Người ta phát hiện ra rằng loại vật liệu này, có mặt trong các tòa nhà, và biến chất khi cũ đi, sẽ phân tán bụi và có thể khiến sinh viên bị nhiễm độc. Người ta liền đóng cửa trường đại học. Trong nhiều năm, một nhóm công nhân nai nịt như những thợ lặn được giao nhiệm vụ bóc gọt công trình đồ sộ ấy đến tận xương tủy, để khiến nó an toàn trở lại.
Cũng trong năm ấy, Thetford Mines thiết lập kỷ lục về sản lượng khai thác tại các miệng giếng, và a-mi-ăng trắng của mỏ KB3 có mặt ở khắp nơi, trong không khí, trong nước, trong đất, trong các khu vườn, trong các ngôi nhà, trong các trường học, trong lớp đá giăm rải trên đường phố, và cả trong nhà thờ của Johanes Hansen.
Thetford Mines Methodist Church, nhà thờ của cha tôi, được nhà thầu David Scott xây dựng vào năm 1956, và nằm trong khu phố Mitchell, một trong những khu phố khiêm tốn nhất và cũng tiếp xúc nhiều nhất với những sản phẩm của khu mỏ, sở hữu một phiếu thông tin xây dựng thật khiến người ta phải sáng mắt: “Về mặt ngoài: Vật liệu phủ chủ yếu: A-mi-ăng. Tường: A-mi-ăng. Mái: Tấm lợp a-mi-ăng.” Deo gratias[3].
Nhưng Chúa và Johanes Hansen làm gì ở một nơi như thế này?
Tôi đến Canada năm 1976, trên một chuyến bay đầy những người đi nghỉ hè theo chủ nghĩa vui vẻ, mang theo một túi du lịch bằng vải kaki, sáu học phần thảm hại do khoa Địa lý của trường Đại học Toulouse cấp, thậm chí còn không đủ để xác nhận mức độ tương đương với năm học đầu tiên, và chút tiền do thắng cược, lần đầu tiên, vào một ngày may mắn, trên sự khốn khổ của lũ ngựa đua.
Những con chó hít ngửi tôi ở sân bay để chắc chắn rằng tôi không mang theo các loại bột, hạt giống hoặc các thực phẩm khác có thể xung đột với những luật lệ chặt chẽ để bảo vệ nền nông nghiệp Canada do bộ Nông nghiệp nước này ban hành. Không có hạt giống nào, cả xấu lẫn tốt, không có thứ gì có khả năng nảy mầm, và thế là tôi leo lên xe khách, ghế số D1, cạnh cửa sổ. Đi hết đường 112, sau chuyến đi kéo dài gần ba tiếng bốn mươi lăm phút, tôi đến vùng cổ họng sâu của con quái vật vào lúc xế chiều.
Vị mục sư chờ tôi ở trạm dừng. Trông ông trẻ ra và có dáng dấp của một người Đan Mạch mãn nguyện đang đi nghỉ mát.
Tôi choàng tay ôm siết lấy người đàn ông ấy, một việc mà dường như tôi chưa từng làm cho đến tận lúc đó. Cha chở tôi bằng xe của ông, một chiếc break Ford Bronco 1966 dường như cũng được lôi ra từ những địa tầng của thế Pleistocen, và thiết kế cơ khí rõ ràng là chưa bao giờ được giao phó cho tiến sĩ Felix Heinrich Wankel[4]. Tuy nhiên, nó vẫn chở chúng tôi đến tận nhà thờ Methodist Church tại Thetford Mines nơi cha tôi đang ở. Nơi này được trồng lác đác vài cây thông tỏa bóng trước mặt tiền và mang lại cho tòa nhà, vốn có dáng dấp của một công trình thiết dụng, chút hình ảnh liên quan đến hình dung quen thuộc của chúng ta về một nơi thờ tự linh thiêng.
Cha tôi không hỏi chuyến đi của tôi có thuận lợi không, cũng không hỏi vợ cũ của ông có còn sống không và rạp phim của bà có còn kiên trì với xu hướng đáy họng hay không. Không. Những lời đầu tiên của ông là: “Con có nhìn thấy những cái hố kia không? Cha vẫn chưa thể nào quen được với chúng.” Muộn hơn một chút, sau bữa tối, khi nhớ lại những lời mào đầu ấy, tôi đặt ra cho ông câu hỏi duy nhất đáng giá, câu hỏi mà lẽ ra tôi đã phải đặt ra cho ông vào cái buổi tối khi ông thông báo với chúng tôi về chuyến lưu đày của mình đến Canada. Thay vì tìm một vị trí mới ở những nơi xa xôi đến thế, tại sao ông không quay về quê hương bản quán, tức là bán đảo Jutland của ông? “Cha đã nghĩ đến chuyện đó, tất nhiên. Nhưng cha nhận ra rằng mình không còn đủ chất Đan Mạch cho việc ấy. Cha đã dành quá nhiều thời gian ở Pháp, quá nhiều thời gian sống với mẹ con. Quá nhiều thời gian để học cách viết sao cho đúng, để phân biệt tất cả những từ đôi khi giống nhau đến khủng khiếp, để ghi nhớ tất cả các quy tắc ngữ pháp để rồi không còn thực hành nữa và rốt cuộc quên mất rằng ‘khi hai động từ đi cùng nhau thì động từ thứ hai sẽ ở dạng nguyên thể’ hoặc ‘phân từ quá khứ sẽ phải hợp giống hợp số với bổ ngữ trực tiếp khi bổ ngữ này đứng trước’. Ở đây, cha gần như gặp lại hai thế giới, một bên là ngôn ngữ của đất nước con, một bên là khí hậu của đất nước cha cùng tính cách thân thiện của những người đàn ông và đàn bà sống ở đó. Trong buổi tối đầu tiên con ở đây, cha đã thực sự nghĩ rằng lẽ ra chúng ta có thể nói về những chuyện khác. Đặc biệt là con sẽ kể chi tiết với cha một chút xem con ruồi nào đã chích con mà khiến con đi xem đua ngựa và lại còn thắng một khoản lớn nữa chứ.”
Chính thức thì Johanes không thích trò cờ bạc, nhưng tôi vẫn cảm nhận được rằng ông vô cùng phấn khích khi nghĩ rằng con trai ông, bằng việc trông cậy hoàn toàn vào thiện chí của thần may mắn, lại có thể thắng được, chỉ trong vài giây, một khoản tiền tương đương với ba tháng lương của ông. Nhưng khi tôi rủ ông cùng đi xem một vòng đua ngựa, cha tôi lập tức đóng kín như một khung cửa hai cánh. “Không có đầy tớ nào làm tôi hai chủ được. Luke 16:13-14.” Đó chính là khía cạnh cứng nhắc, chính xác trong các quan điểm, nếu không muốn nói là khía cạnh khó chịu và khiến người khác mất hứng ở vị mục sư.
Tối qua, trong nhà tù có người chết. Một tù nhân đã đâm một tù nhân khác ở cùng xà lim. Một lính gác đã kể lại sự việc với chúng tôi. Kẻ giết người, một gã Dusan nào đó, đã chẹn chiếc gối lên mặt tù nhân cùng phòng rồi cắt cổ anh ta, chờ đến khi anh ta thôi giãy giụa và chảy hết máu. Khi yên ắng trở lại, gã gõ cửa phòng giam để báo cho lính gác. Gã không gây khó dễ gì mà để mặc cho lính gác khống chế mình. Gã giải trình rằng gã chế tạo con dao bằng cách mài một cái cán dĩa xuống nền nhà trong nhiều ngày. Nạn nhân tên là Sylvestre Aurèle. “Tôi rất quý hắn, thật đấy, tôi rất quý hắn, nhưng dù sao tôi vẫn phải làm thế. Hắn là người Haiti, và thời gian gần đây hắn đã thay đổi rất nhiều. Ban đêm, hắn cứ nói lảm nhảm và làm phép rồi dọa sẽ yểm bùa tôi. Hắn nói rằng vị thần chiến đấu với những kẻ trộm cắp và tội phạm, Xêvioso, sẽ sớm đến giáng sấm sét giết chết tôi. Tôi đã cảnh cáo hắn nhiều lần, tôi bảo hắn: ‘Sylvestre, mày thôi ngay đi, nếu không tao sẽ buộc phải giết mày đấy.’ Nhưng hắn không tin tôi.”
Tôi ghét những chuyện thế này. Khi xảy ra, chúng nhắc tôi nhớ ra chúng tôi đang sống ở nơi nào, nhắc tôi nhớ đến bản chất của những người đang ngày ngày cùng ăn uống với chúng tôi, và đôi khi còn chia sẻ cùng chúng tôi những khoảnh khắc đồng điệu, trong sân nhà tù hoặc trong những khu vực chung. Và những ngày sau đó, khi gặp đồng loại trong thời gian đi dạo, tôi thường tự hỏi họ thực sự nghĩ gì trong đầu, hoặc có thứ gì dưới đáy túi.
“Cái gã Dusan ấy thì tao biết rõ lắm. Không phải gã tồi đâu, nhưng ở đây ai cũng biết rằng thần kinh gã có vấn đề. Khi đến lượt tao phát thuốc, tối nào tao cũng cho gã cả một nắm tướng. Sở dĩ đám bác sĩ tống cho gã cả đống thuốc như thế, là vì họ biết thừa đầu óc gã không bình thường. Nhưng cũng giống như lũ nha sĩ, họ không quan tâm, họ chẳng làm gì hết. Thế rồi ngày mai, thay vì giải thích tất cả những chuyện đó với cảnh sát, rằng đó là một tay thực sự hạn chế về đầu óc, họ sẽ im như thóc. Còn Dusan, tin tao đi, họ sẽ đổ hết tội cho gã. Dù sao thì cái câu chuyện Sylvestre muốn bỏ bùa gã và tất cả những chuyện kiểu đó cũng chẳng ý nghĩa gì. Sylvestre là một trong những gã tốt bụng nhất nhà tù này, chẳng bao giờ gây gổ mà lúc nào cũng chỉ biết có xin lỗi. Chắc chắn rồi, gã là người Haiti, thế thì sao? Dù thế nào, họ cũng đâu có đi thổi đít lũ gà suốt cả ngày, đám người Haiti ấy. Dù sao, ngày mai, tao cũng sẽ đi nói với ông sếp nhà tù rằng tất cả những gì mà Dusan đang ngốn vào người ấy là không bình thường. Có nói thì cũng chẳng thay đổi được gì, nhưng dù sao tao cũng vẫn đi nói với ông sếp.”
Vừa đóng vai trò kinh niên của một bác sĩ tâm lý trong nhà tù, Patrick Horton vừa lật giở một tạp chí khiêu dâm cũ đã sờn trơ cả chỉ khâu ở gáy hẳn là được xuất bản từ khi gã còn là một đứa trẻ vị thành niên. Tôi không biết làm cách nào mà loại tạp chí bị cấm tiệt theo quy định nhà tù này lại có thể lọt qua những lần lục soát xà lim, nếu không phải nhờ sự đồng lõa ân cần của đám lính gác ngượng ngùng nhắm mắt khi nhìn thấy tàn tích của một thời kỳ đã qua. Sau khi ngần ngừ một lát không biết lựa chọn gì, Patrick tập trung vào bức ảnh chụp một mỹ nữ cổ đại, người hẳn đã có một mối quan hệ lâu dài với gã. Sau đó, gã kéo khóa quần, ngẫu hứng một màn “No Pants Day”, rồi bằng giọng khẽ khàng của một tên sát nhân bối rối, gã nói: “Phiền mày quay mặt đi hai phút nhé, tao sắp tự sướng đây.”
Cảnh giam cầm làm dài ban ngày, kéo giãn ban đêm, vuốt căng các giờ, mang lại cho thời gian một tính chất đặc quánh sền sệt, có chút khiến người ta muốn lộn mửa. Mỗi người đều cảm thấy như mình đang di chuyển trong một lớp bùn dày, nơi ta phải nhấc từng chân, vật lộn từng bước để không bị sa lầy vào nỗi chán ngán của chính mình. Nhà tù chôn sống chúng tôi. Những người chịu án ngắn còn có thể hy vọng một điều gì đó. Những người khác coi như đã rơi vào hố chôn chung. Và nếu bỗng nhiên được giảm án, họ sẽ đi hít thở không khí bên ngoài một lát, nhưng rồi sẽ quay trở lại đây, trong căn nhà của những kẻ bị ruồng bỏ này, nơi người ta không gọi họ bằng tên, nơi người ta đối xử với họ như với lũ gia súc trong trang trại.
Tôi nhớ nhung cuộc sống trước đây đến mức đôi khi bắt quả tang chính mình, vào ban đêm, đang nghiến chặt hai hàm răng để chúng kêu lên ken két. Cuộc sống trước đây của tôi, cuộc sống mà tôi từng sống khi còn là người chèo lái cho L’Excelsior, khi mà Winona, trong bộ trang phục nai nịt như một lính tiên phong của ngành hàng không, đậu chiếc Beaver một động cơ của nàng trên các mặt hồ ở Laurentides, khi mà Nouk, cô chó vĩnh cửu của tôi, cô chó ưa bơi trong hồ và chạy trên đồng cỏ, cùng tôi trò chuyện trong những cuộc hội thoại dài mà chỉ mình nó mới biết được nội dung. Cuộc sống đó không còn tồn tại nữa, và khi các cánh cửa của nhà tù mở ra lần nữa với tôi, tôi sẽ thấy mình trên vỉa hè, đằng trước số nhà 800 trên đại lộ Gouin, tôi sẽ phải chọn lựa một phương hướng, và tiếp tục hình phạt không thể giảm nhẹ của mình dưới một hình thức khác. Và lần này, thậm chí tôi còn không có những tạp chí con nít và những cục phân sau bữa tối của Patrick Horton để giải khuây cho tôi khỏi chính tôi nữa.
Ngày Chủ nhật, tôi đi dự lễ mixa do cha tuyên úy của nhà tù tổ chức. Trong một căn phòng được chiếu sáng bằng đèn nê ông và nồng nặc mùi chất tẩy rửa cresyl, khoảng chục tù nhân, ngồi trên những chiếc ghế tựa của nhà ăn, nhìn một anh chàng thừa cân tội nghiệp cứ mỗi cử chỉ lại khiến người ta có cảm tưởng anh ta muốn nhanh chóng thoát khỏi bộ trang phục linh mục bó chặt đang hạn chế cử động của anh ta. Suốt buổi, theo nghi lễ, người chủ lễ phải giơ cao bình bánh thánh và giữ nó ở đầu chót cánh tay như thế, trong lúc miệng niệm thần chú. Nhưng trong trường hợp mà chúng ta đang quan tâm, cha xứ của nhà thờ, bị cầm tù trong thân hìng béo phì và những đường khâu chắc chắn ở chỗ khoét nách của bộ đồ cải trang, không thể nào giơ được chiếc bình lên cao quá cằm. Cử chỉ này đương nhiên là trông không hề duyên dáng và gần giống như một khách hàng đang khẩn thiết lắc lắc chiếc ly rỗng của mình ngay trước mặt nhân viên phục vụ quầy bar.
Tôi vẫn luôn cảm thấy những nghi thức Công giáo dường như xuất hiện từ một thời đại khác, từ một thế giới khác, từ một thời kỳ tăm tối. Ăn mặc như những hoàng đế Inca, những người chủ lễ lẩm bẩm đọc những câu thần chú gượng gạo trong một thứ ngôn ngữ chết, pha nước với rượu vang, ban phép cho một khúc bánh mì, và trong một màn được gọi là “hóa thể”, khẳng định là đã biến khúc bánh cũ không men ấy thành một con bồ câu thần thánh. Ngay cả khi không bao giờ có con chim nào bay ra từ màn diễn ấy, tất nhiên, thì mọi tù nhân xem màn trình diễn ấy cũng sẽ nói với bạn rằng họ đã nhìn thấy chú chim bay lên. Bởi vì họ không muốn tranh cãi về tất cả những chuyện đó, bởi vì chỉ cần mở mắt đúng lúc, bởi vì họ cần phải tin vào cái câu chuyện xưa cũ này, cũng giống như, trước họ, cha mẹ ông bà họ đã bấu víu vào đấy, và hơn thế nữa, người ta đã làm cho họ một cái hộp rất tiện lợi để cất vào đó tất cả những ngờ vực, cái hộp được gọi là đức tin.
Đức tin, thứ phụ kiện làm nghề mà một hôm cha đã thú nhận với tôi rằng ông đã đánh mất, thứ mà ông đã lải nhải bên tai mẹ tôi suốt một thời gian dài, và ở bên trong thứ đó, ông thường nói, các bạn có nhớ không, là ta sẽ chỉ muốn ở một thời gian, đúng thế, chỉ “vài giờ trong sự hoàn hảo của đức tin.”
“Mày vào trong ấy làm cái chết tiệt gì hả? Mày ấy, từ khi nào mà mày lại đi dự lễ mixa thế? Nói đùa chứ, mày hỏng rồi, anh bạn ạ, hỏng hẳn rồi. Lại còn ở một cái nơi như thế nữa, vừa thảm hại vừa nồng nặc mùi nước tiểu. Vào nhà thờ, chỉ một lần, thì tao không nói, để xem quang cảnh ra sao, ngắm nghía những đồ trang hoàng, hít hà mùi hoa cỏ, nghe nhạc, một lần thôi, thì ok, sao lại không chứ. Nhưng ở đây, với cái dàn đồng ca toàn lũ thất bại ấy thì không. Mày đã nhìn thấy gã cha xứ chưa? Mẹ kiếp, tao không thể ngửi nổi gã. Trông mặt gã chả khác gì loại người chuyên đóng đinh vào chân lũ mèo. Sở dĩ họ cử gã đến đây, không phải lo đâu, thì là vì chẳng có ai ở đâu khác muốn gã nữa. Không đâu, tin tao đi, thứ đó không dành cho chúng ta đâu, anh bạn ạ. Cái gã Moïse ấy, gã đã nói về chuyện gì?”
Moïse đã quay mặt về phía cử tọa thưa thớt rồi rời khỏi đó với một bài thánh vịnh thích hợp. “Trong nỗi kinh hoàng, những kẻ bị cầm tù đã hét lên với Đấng Tối cao và Người đã kéo họ ra khỏi cảnh nguy khốn. Người giải thoát họ khỏi những bóng tối chết chóc, Người khiến xiềng xích trên thân thể họ rơi xuống, Amen.” Bài thánh vịnh ấy không khích lệ được cử tọa bao nhiêu, nhưng ít nhất nó cũng có một phẩm chất là súc tích. Chúng tôi rất đỗi xa xôi với những bài thuyết giảng lớn lao ân cần về Chúa, trong đó cứ sau mỗi chương người ta lại nhận thấy cảm giác châm chích của mùa xuân, tiếng thì thầm thường trực của thiên nhiên, âm thanh tì rào của gió trong những khóm cỏ cao, nhiệt tình rỉa lông của lũ chim hét vắt vẻo trên những cành cây sà thấp. Nền tảng những bài thuyết giảng của cha tôi, cũng giống như tất cả những lời ba hoa về Kinh Thánh, chìm ngập trong những xi phông của lý trí, nhưng phong cách của ông là độc nhất vô nhị, cái cách thức vô cùng giản dị và thấm đẫm phong vị phương Bắc của ông khi giúp ta cảm nhận rằng tất cả những gì đang vây bọc chúng ta đều chỉ là cuộc sống, rằng mọi thứ đều có ý nghĩa và giá trị của nó, và rằng chỉ cần để ý quan tâm và nhìn ngắm là có thể hiểu ra được, tất cả chúng ta đều thuộc về một bản giao hưởng vĩ đại, bản giao hưởng ấy sáng nào cũng tiếp tục cuộc sinh tồn của nó một cách ngẫu hứng, trong một mớ âm thanh chói tai rực rỡ.
Tôi không thường xuyên nhắc đến mẹ mình. Có thể bởi vì tôi chưa bao giờ biết tại sao bà lại rời bỏ dàn nhạc sớm đến thế. Trên chiếc bàn đầu giường của bà, một bản dàn bè dài của những loại thuốc điều trị, một bản cantana của những dược chất được khéo léo sắp đặt để làm câm nín những nhịp đập của trái tim, ngoài ra không còn thứ gì khác, thậm chí không có lấy một lời nhắn chân trang nào dành cho bạn tình người Thụy Sĩ, ông chồng cũ người Đan Mạch hay đứa con người Pháp của bà. Anna đã tự sát ở tuổi sáu mươi mốt, vào ngày 14 tháng Năm năm 1991, đúng vào ngày Giang Thanh, vợ góa của Mao Trạch Đông, chấm dứt cuộc đời mình bằng cách treo cổ.
Tôi băn khoăn tự hỏi liệu có phải mẹ tôi bị điên, liệu bà có buồn, có quá cô đơn, liệu bà có sai lầm khi chung đường với người đàn ông Thụy Sĩ kia không, liệu bà có tiếc nhớ điện ảnh, liệu bà có thường xuyên nghĩ đến chiếc DS của cha mẹ bà, liệu bà có cảm thấy hổ thẹn vì tôi, liệu bà có yêu cha tôi, liệu bà có thường xuyên lừa dối ông, liệu bà có cảm thấy sợ hãi hay hối tiếc sau khi đã nuốt hết những viên thuốc ấy, liệu bà có nhớ những miếng ván gỗ lát sàn kêu cọt kẹt trong căn hộ của chúng tôi, liệu ban đêm bà có đến hôn tôi khi tôi còn là một đứa trẻ, liệu bà có ôm siết lấy tôi để trấn an tôi, liệu bà có biết rằng tôi thấy bà rất xinh đẹp, tôi thấy bà xuất sắc hơn cha tôi và rằng tôi yêu thích tất cả các bộ phim của bà, liệu bà có còn nhớ chuyến đi của chúng tôi đến Đan Mạch, liệu bà có còn hiểu Jeg elsker dig min søn có nghĩa là gì, liệu bà còn có thể dịch câu đó thành “Mẹ yêu con, con trai của mẹ”, liệu có bao giờ hai chúng tôi, tôi và bà, có chung thứ gì đó kết nối chúng tôi mãi mãi, liệu bà có biết rằng vào tháng Năm năm 1968, tôi đã cắt và giữ lại bài đại tự báo hẳn có lẽ sẽ khiến Giang Thanh phải mỉm cười ở đầu sợi dây thừng thắt cổ: “Godard, gã Thụy Sĩ phò Tàu ngu ngốc nhất” hay không.
Dần dà, khi nghĩ lại tất cả những chuyện này, đã có lúc tôi tự nhủ rằng có lẽ mẹ tôi sẽ là một người cha tuyệt vời. Có lẽ bà sẽ gặt hái được thành công vang đội trong việc lôi kéo chúng tôi theo hướng đi của bà, mang theo chúng tôi trên con thuyền nhỏ có khả nắng gieo rắc nỗi buổn chán của bà mà lao hết tốc lực, len lỏi giữa những cạm bẫy, đương đầu với những kẻ quấy rầy. Ngược với cha tôi vốn lúc nào cũng chỉ có thể xử lý duy nhất một việc mỗi lần, tôi vẫn luôn nghĩ rằng Anna có hai bộ não. Một bộ não điềm tĩnh, chín chắn, dành cho việc phân tích, tìm kiếm, đưa ra ý tưởng, bộ não còn lại lúc nào cũng hoạt động, hết cỡ, không ngừng xử lý vô số dữ liệu, đương đầu với nhiều nhiệm vụ khác nhau, chuyển từ chân nọ sang chân kia để lái cả đoàn tàu lao đi vun vút. Trái ngược với mẹ của Patrick Horton, có lẽ mẹ tôi sẽ không bao giờ nhét một cuốn Kinh Thánh vào túi xách của tôi trước khi tôi lên đường đi tù. Thay vì thế, tôi cho rằng trên ngưỡng cửa bà sẽ nói với tôi điều gì đó có tính chất khích lệ và châm chọc sâu cay, kiểu như: “Những người làm việc cảm thấy chán khi họ không làm việc. Những người không làm việc thì không bao giờ thấy chán cả.”
Nhà thờ nhỏ của cha tôi, ở Thetford Mines, có cấu trúc khiêm tốn, thuần túy theo dòng giám lý. Nằm sát bên căn nhà mục sư nơi ông ở, nhà thờ được xây dựng vào năm 1957 theo thiết kế của kiến trúc sư Ludwig Hatschek. Theo thuật ngữ chuyên ngành, nhà thờ có lòng nhà hình con thuyền, nền móng hình chữ nhật, gác đàn nhô cao, tường hậu vuông vức, và mái vòm hình góc. Để miêu tả một cách rõ ràng hơn, với những vì kèo đều đặn rạch trên trần, thật lạ lùng, nhà thờ này khiến ta nghĩ đến bên trong lòng của một con thuyền bị lật. Với ô kính ghép màu sáng rực yên ả, những cửa sổ vòm cuốn nhọn, lối đi chính trải thảm màu tím êm ái, hai dãy ghế dài bằng gỗ màu vàng, những bức tường sơn phủ màu kem, những chiếc đèn chùm giống như những chiếc bình lớn đựng đầy mật ong, Methodist Church của cha tôi giống như hình ảnh ông, ân cần, hòa nhã, dịu dàng mà lại hết sức mạnh mẽ. Nhà thờ nằm trong khu phố Mitchell, nơi mọi người chủ yếu nói tiếng Anh, nhưng những bài thuyết giảng bằng thứ “tiếng Pháp của nước Pháp” dường như không gây ra vấn đề gì cho bất cứ ai. Trong vài tháng, Johanes đã hoàn thành kỳ tích nho nhỏ của mình: thích nghi với cộng đồng mới mẻ này và khiến nó chấp nhận mình. Chủ nhật hằng tuần, ông kéo giáo dân đến đông kín con thuyền của mình, còn trong tuần, ở thành phố, ông tham gia tất cả các thể loại hoạt động đôi khi vượt cả ra ngoài khuôn khổ chức trách của mục sư. Cứ như thể ông sinh ra cách đây chỉ vài cái hố, chỉ vài cái miệng núi lửa. Mỗi tháng một lần, vào Chủ nhật, ông thực hiện một buổi lễ bổ sung mà ông gọi là “lễ thợ mỏ”. Và giống như trong một bộ phim sản xuất vào những năm 1940, người ta nhìn thấy những người đàn ông, xám xịt vì a-mi-ăng, vẫn mặc nguyên quần áo lao động, chui lên từ các miệng giếng, đi vào con thuyền rồi thả mình theo cơn sóng ngôn từ êm ả của con người không hứa hẹn gì với họ ngoài một chút nghỉ ngơi và yên tĩnh trên mặt đất.
Sau vài tháng ở cùng ông, tôi thấy có lẽ việc vị mục sư đã tìm thấy chỗ đứng của mình ở đây là một điều đương nhiên. Một thế giới tạo bởi những con người xét cho cùng cũng không khác biệt lắm với những cư dân trên bán đảo của ông, những con người chia sẻ cùng nhau một sự ân cần có đi có lại. Vũ trụ của ông tóm gọn trong danh mục ngắn ngủi của một cuộc sống đời thường, một chiếc Ford Bronco 66 ngoan ngoãn, những ngọn núi phía xa xa, những miệng hố sâu hoắm cách nhà chỉ vài bước chân, và toàn bộ thời gian để ghi chép những công việc nhỏ nhặt của ông, giữ gìn nhà thờ hình con thuyền, ca tụng những gì phải ca tụng, và có thể là thỉnh thoảng nghĩ đến một người phụ nữ trong vùng, dưới bóng mát của những cây thông.
Đó là cuộc sống của mục sư Johanes Hansen vào đầu năm 1977.
Về phần mình, tôi đã thuê một căn hộ trên phố Notre-Dame và tìm được việc làm trong một công ty xây dựng nhỏ, trở thành nhân viên đa di năng trong vòng vài tháng. Tôi đã học hỏi cấp tốc phần lớn các ngón nghề trong ngành xây dựng, và những công trình đa dạng mà công ty phải thực hiện đã cho phép tôi, dưới sự giám sát của người khác, vừa học hỏi vừa cống hiến được những gì là tốt đẹp nhất trong chính con người mình. Toàn bộ công ty DuLaurier chỉ nằm gọn trong chiếc xe tải nhỏ công vụ Ford Econoline. Cầm lái là Pierre DuLaurier, người cha; bên cạnh ông là Zac và Joseph, hai người con trai; và ở đằng sau, chia sẻ không gian với đám máy móc và công cụ, là Joe Schmidt thợ tập sự chính và tôi, anh chàng học nghề ẻo lả.
Trong những ngày đẹp trời, trước khi có tuyết và băng giá, chúng tôi dành toàn bộ thời gian cho những công việc ngoài trời và những phần xây dựng thô. Mùa đông đến, chúng tôi quay về nơi trú ngụ và làm sàn gỗ, đồng thời chỉnh sửa các tấm gỗ ép ba lớp, những mảng thạch cao, lớp ốp lò sưởi, và chỉnh đốn hệ thống đường ống tạp nham chỉ chực rời ra mỗi nơi một chiếc. Hai bàn tay tôi chảy máu, hai đầu gối tôi sưng vù, lưng tôi đau điếng, nhưng tôi rất thích công việc này. Ngay sau khi hoàn tất một phòng tắm, chúng tôi nhảy sang một nhà khác để dựng một ga ra bằng ván ghép, hoặc đi lại đường điện bị một băng đảng sóc phá hỏng. Zac và Joseph vô cùng kính trọng cha, ông không bao giờ lên giọng để ra lệnh cho Joe mà lúc nào cũng huýt sáo theo những giai điệu mà chỉ riêng mình ông biết. Về phần tôi, đầu giờ sáng mỗi ngày, mọi người chỉ cho tôi những gì tôi phải làm, cách thức để làm được những việc đó mà không khiến cho cả khu phải chịu cảnh mất điện. Không băn khoăn quá nhiều, ngày này qua ngày khác, tôi đã bắt nhịp được vào với những nhiệm vụ đa dạng ấy.
Ý nghĩ về việc sống trong một thành phố thấm đẫm a-mi-ăng, rắc đầy chất độc, luôn bị bệnh bụi phổi a-mi-ăng rình rập, cũng không khiến tôi bận tâm nhiều hơn những cư dân khác ở Thetford Mines, những người sinh ra, lớn lên, học hành, tán tỉnh, làm tình, kết hôn, mua bảo hiểm, làm việc, ly hôn, giao lưu, tiếp tục làm tình, già đi, ho sù sụ, rồi chết giữa những ngọn núi và miệng núi lửa, những bãi thải và những cái hố.
Tùy theo mùa, vị mục sư và tôi thường đi dạo đến tận hồ Memphrémagog, cái hồ chung giữa Canada và Mỹ, hoặc đi về hướng North Hatley cùng những ngôi nhà trung thành[5] ở đó. Chúng tôi cũng luôn dừng chân tại Sherbrooke, nơi ở của Gérard LeBlond, người chơi đàn organ cho nhà thờ Methodist Church. Tất cả các Chủ nhật, ông đi đến tận Thetford Mines để tô điểm sắc màu cho những buổi lễ bằng thứ âm nhạc ít nhiều thiêng liêng của mình. Nhưng người đàn ông có khuôn mặt nhìn nghiêng như một tài tử quyến rũ của Hollywood những năm 1940 này, người hẳn là niềm mơ ước thầm kín của tất cả các nữ giáo dân ở độ tuổi còn có thể phạm tội lỗi của các giác quan, là một tay chơi đàn organ ngoại hạng, một nhạc công hiện tượng có những ngón tay của loài nhện dệt nên vô số những tấm mạng âm thanh trên những phím đàn xếp chồng của cây đàn organ Hammond B3 với chân pê đan bằng gỗ, những phím chỉnh âm, những bánh xe nắn tiếng, chín mươi mốt bánh răng và tủ loa quay Leslie. Cha tôi đã tìm thấy, được chuyển giao kèm với nhà thờ, món nhạc cụ khó tin và dứt khoát là phàm tục ấy, món nhạc cụ thường được Procol Harum, The Doors, The Animals, Percy Sledge hoặc James Brown[6] sử dụng. Nhưng khi Gérard LeBlond ngồi vào trước phím đàn, ngay trước buổi lễ, ta có thể nói rằng Jimmy Smith, Rhoda Scott và Errol Parker[7] đã hẹn gặp nhau để khiến Chúa, nếu Người có tồn tại, phải tiếc nuối vì đã không đích thân phong thánh cho Laurens Hammond, người sáng tạo ra món nhạc cụ kỳ diệu này. Trong nhà thờ trống trải, khi LeBlond ngồi vào bàn làm việc của mình, khi các ngón tay ông triệu tập toàn bộ những yêu ma quỷ quái của nhạc jazz, nhạc blue và nhạc swing, con thuyền cũ kỹ đột nhiên nổi bềnh lên, mây trời chuyển ngát xanh, hạnh phúc ùa vào các gian nhà thờ cũng như màng nhĩ của mỗi người, Jesus quay trở vào trong mồ, còn Gérard, vị giáo sĩ của Sherbrooke, là ông chủ duy nhất ngự trị ở tầng trời trên cùng.
Tiếp đó, sau những đoạn luyến láy và những tràng âm thanh dồn dập, từng thứ một lại chậm rãi hạ xuống mặt đất, quay trở về vị trí đã được định sẵn. Như chưa hề có chuyện gì xảy ra, những giáo dân đầu tiên bước vào nhà thờ theo giờ quy định, trong âm thanh một khúc dạo đầu ôn hòa của Bach, dường như chính ông cũng ngồi giữa các tín đồ vào mỗi Chủ nhật để lắng nghe đoạn nhạc tiếp theo.
Cha tôi đã đánh giá được đầy đủ tác động mà tài điêu luyện ngoại hạng của nhạc công này có thể gây ra đối với cử tọa trong các buổi lễ của ông; đến mức mà sau vài năm, khó có thể nói được rằng liệu lời Chúa hay những sắc điệu của quỷ dữ là thứ khiến người ta đến đây để lắng nghe. Rằng người ta còn đến để nhìn nữa, bởi vì bây giờ các tín đồ đến ngày càng sớm để chiếm được những chỗ ngồi tốt nhất, những chỗ ngồi ở các dãy ghế trên cùng, từ đó họ có thể chiêm ngưỡng cái cảnh tượng mê hoặc khi ngón tay của người nghệ sĩ lướt đi đầy chính xác còn đôi chân ông thực hiện một vũ điệu khó tin, uốn lượn, nhảy nhót, bật lên sau mỗi nốt trên hai quãng tám của pê đan. Nhìn từ sau lưng, vũ điệu của đôi chân ông giống như hành trình của một người bị lạc đang ngập ngừng không biết phải đi theo hướng nào, vung một chân sang bên phải, lựa chọn lại, ngả sang bên trái, để rồi lao mình theo con đường ở giữa trước khi lặp lại vũ đạo thất thường dường như chẳng dẫn đến đâu, thế nhưng lại bám sát những hành trình khắc nghiệt của bản chuyển soạn. Kỹ thuật điêu luyện của những ngón chân LeBlond đã trở thành huyền thoại, không kém gì sự điêu luyện của những ngón tay ông. Trong cộng đồng này, mọi người đặt cho ông cái biệt danh là “Gérard bốn tay”.
Cha tôi tự hào không ít về đối tác đầy mê hoặc đã dần dần trở thành bạn ông cũng như sức hút chính của những buổi lễ ở nhà thờ của ông. Để biết chắc điều đó, vào khoảng giữa trưa, chỉ cần nhìn đám đông đổ xô đến vây quanh Gérard trên sân nhà thờ trong khi Johanes, lùi ra sau một chút, chỉ bắt tay vài người thô kệch chưa bao giờ nghe bất cứ loại âm nhạc nào ngoại trừ loại nhạc trong các cửa hàng lớn, phòng chờ và buồng thang máy.
Khi chúng tôi gặp nhau để uống chút rượu, lần nào Gérard cũng không thể kìm nén mong muốn chỉ bảo hai cha con tôi về những bí mật trong việc làm ra một cây đàn B3 Hammond. “Đấy là một thứ điên rồ. Một cỗ máy quỷ quái. Anh thử hình dung xem, chín mươi mốt bánh răng, mỗi bánh răng lại có số lượng răng riêng. Sau đó, anh cho chúng quay trong từ trường của một nam châm. Ở đó, một cuộn cảm gắn trên mỗi nam châm lại trở thành một cảm biến cho từ trường biến đổi do các bánh xe gây ngược lại, bản thân các bánh xe được sản xuất bằng một loại vật liệu sắt từ. Đó chính là bí mật của Laurens Hammond, một thuật giả kim với các bánh răng, từ trường và cảm biến. Chính nhờ những kết hợp điện cơ học này và việc điều chỉnh các ‘drawbar[8]’ mà anh có thể chơi cả nhạc của Patterson, Haendel, Earland lẫn Bach. Bằng cách điều chỉnh các phím chỉnh âm hoặc tránh những cú click. Laurens quả là một gã lạ lùng. Tôi từng đọc thấy rằng ông ấy sống một phần tuổi trẻ ở Pháp, và ở đó, mới mười lăm tuổi ông ấy đã đề xuất với Renault một hệ thống hộp số tự động cho xe hơi. Rồi ở Mỹ, năm 1922, ông ấy phát minh ra hệ thống thị giác 3D, chế tạo ra những chiếc đồng hồ kỳ quặc, và mua một cây đàn dương cầm chỉ để tháo tung nó ra, rồi với sự trợ giúp của viên kế toán phụ trách đánh đàn trong các nhà thờ, chế tạo một cây đàn organ bằng những sợi chỉ, những bánh lăn khía nấc, những nam châm, những cuộn cảm gắn vào tất cả những gì ông ấy nghĩ ra. Chính bằng cách đó mà nhãn hiệu đàn này ra đời. Tiện đà, vào năm 1932, ông ấy còn sản xuất ra bộ tổng hợp phức điệu đầu tiên, Novachord. Quả là một người lạ thường. Ông ấy dành toàn bộ thời gian để sáng tạo ra những hệ thống. Sau âm nhạc, ông ấy nộp đơn xin cấp bằng sáng chế cho các con quay hồi chuyển kiểu mới, và nhất là, trước khi chết, ông ấy đã xây dựng cho quân đội một hệ thống dẫn đường mới cho tên lửa.”
Có mối liên hệ nào giữa tiếng dội bom theo lệnh McNamara với tiếng sáo của một chiếc B3 trên nền bản Te Deum của Bruckner không? Không gì hết, ngoại trừ việc cả hai bản dàn bè nghịch tai và tương phản này cùng xuất hiện đồng thời trong đầu óc của một con người duy nhất, giống như dòng chảy thất thường của trí tuệ không ý thức lại ngẫu nhiên dựa trên bộ bàn đạp rộng rãi là kiến thức.
Không ồn ào cũng không hứng khởi, cuộc đời tôi dần dần đi vào quy củ trong cái thành phố nhỏ bé kỳ lạ này. Những ngày mùa xuân đẹp trời có thể mang lại cho trung tâm thành phố Thetford một bầu không khí tươi tắn và làm tăng thêm nét duyên dáng của những ngôi nhà xinh xắn theo phong cách Anh. Tôi làm việc, tôi gặp gỡ những phụ nữ trạc tuổi mình, tôi lái ca nô trên hồ, thậm chí tôi còn mua của Joseph, con trai ông chủ tôi, một chiếc Honda Civic nhỏ đời 1974 nặng gần 600 kí lô và có đặc thù là được trang bị một động cơ quay theo chiều ngược với chiều kim đồng hồ, đây cũng là nét đặc trưng chung của tất cả các mẫu xe dòng này.
Sau khi suôn sẻ hoàn tất một công trình quan trọng, Pierre DuLaurier đưa tất cả chúng tôi đi ăn tối tại nhà hàng. Vào mùa đông, thực đơn chỉ có một món pa tê kiểu Tàu, giống như vụn bánh mì nấu với thịt băm, ngô hạt phủ một lớp khoai tây nghiền trộn phô mai. Vào mùa hè, trên bàn sẽ có bắp cải trộn, gà nướng mật ong và khoai tây chiên. Trong những cuộc hội họp công ty kiểu này, DuLaurier thường lập lại trật tự của giới cần lao, “giáng một cái tát” vào một hoặc hai chính khách, hứa hẹn rằng năm tới, công ty sẽ lớn mạnh và tuyển thêm người, rồi để cho hai con trai ông vui vẻ chế giễu chiếc Honda nhỏ mà họ đã nhường lại cho tôi: “Cái xe vừa ấm cúng lại vừa rộng rãi, với điều kiện là ta không đeo đồng hồ.”
Năm tháng trôi qua, tôi nhận thấy tinh thần nhiệt thành của vị mục sư có sự sụt giảm, ông mệt mỏi, khó nhọc khi phải giảng lại những lời lẽ trong sách, không còn khả năng cầu nguyện và truyền đạt lại những gì mà ông được trả lương để truyền đạt. Nhưng ông vẫn tiếp tục sống nghiêm ngắn, giữ gìn ngôi nhà mục sư cùng con thuyền lớn mà người ta đã giao phó cho ông. Chủ nhật hằng tuần, Gérard tự cho là mình có nghĩa vụ phải duy trì buổi diễn, và cho dù toàn bộ cái đám đông cử tọa này không còn nhiều ý nghĩa với ông, cha tôi vẫn tiếp tục viết, thậm chí có lẽ còn cẩn thận hơn từ trước đến giờ, tiếp tục kể câu chuyện bất diệt về con người, về thế giới xung quanh họ và về những động vật trong thế giới ấy, thường xuyên trích dẫn kinh Phúc Âm theo Konrad Lorenz hoặc Maurice Maeterlinck, lần nào cũng nhắc lại toàn bộ, từ đầu, tất cả, kể từ cái ngày trời và đất phải chia nhau các linh hồn, cũng là cái ngày mỗi con người sống trên đời phải lựa chọn giữa cái thiện và cái ác.
Khi muốn vượt qua nỗi khó chịu về vị thế và hoàn cảnh bản thân, cha tôi thường khoác lên người bộ trang phục thị dân và đến tham quan những công trình huy hoàng tráng lệ của nhánh tôn giáo cạnh tranh, nhà thờ Saint-Alphonse ở số 34 phố Notre-Dame, cách bưu điện và ga đường bộ hai dãy phố. Ông sắp xếp để đến đó vào những thời điểm vắng người, rồi hai tay chắp sau lưng, bắt đầu công cuộc khám phá giống như những du khách nhàn tản tham quan viện bảo tàng. Công trình này - cùng toàn bộ phần bên trong của nó - được xếp hạng Di tích văn hóa của Québec, nổi tiếng là một trong những nơi giàu có và đẹp đẽ nhất đất nước. Ở đây, đương nhiên, không có chút dấu vết nào của a-mi-ăng, mà chỉ toàn những loại vật liệu cao quý. Những chùm đèn trần một trăm nến, những ban thờ đầy đặn, những bức tượng sơn màu, những đồ gỗ tinh xảo, những pho tượng đá, những bức tranh cảm hóa, những chữ cái trang trí, khắp nơi, đều minh chứng cho sự giàu có sang trọng của giới giáo sĩ Công giáo đã trị vì suốt một thời gian dài trên cả phần xác lẫn phần hồn của người dân xứ này, với những phụ nữ, thường là đã làm mẹ đến cả chục lần, nuôi dưỡng cho cái nồi hơi tham lam vô độ của một Giáo hội mỗi ngày một đòi hỏi cao hơn. Tất cả những gì ta nhìn thấy, từ mặt đất lên đến trần nhà, thảy đều kêu leng keng hoặc sáng lấp lánh, không được xây dựng để vinh danh Chúa, mà chủ yếu là để phô trương công lao của giới tăng lữ, thể hiện sự thống trị, niềm kiêu hãnh và sức mạnh của Rome.
Và phải thừa nhận một điều rằng đó là một công trình cầu kỳ. Mái vòm tròn, vô số những ô lõm, cánh ngang ba gian, khắp nơi đều là đá và gỗ nguyên khối, những băng ghế dày như những cây cổ thụ, được đẽo gọt đều tăm tắp, phong cách trang trí thuần Ba rốc. Và nghệ thuật, khắp nơi, dưới đủ mọi diện mạo, những búc tranh và những tấm vải thêu, những ban thờ lấp lánh dát vàng, những đồ gỗ sơn màu xanh lá dịu mát, rồi mùi thơm, thứ mùi thơm của những ngôi nhà được giữ gìn cẩn thận. Ngoài tất cả những thứ đó, còn phải kể thêm tám trạm khử độc, tám buồng xưng tội, tám tòa giải tội đầy hăm dọa mà kích thước và số lượng khiến ta nghĩ rằng tối nào Satan cũng vào thành phố để ăn tối. Và cuối cùng, vắt vẻo trên ban công cao nhất của nhà thờ, với những phím đồng đô sộ thống trị toàn bộ không gian dành cho các tín đồ, là một cây đàn organ Casavant, opus 150, lắp ráp năm 1902, với hai mươi mốt dàn ống, hai mươi bảy hàng, cộng thêm một dàn ống ở pê đan, và có nhiều ống hơn mức cần thiết.
Trong cái vũ trụ bị mắc kẹt này, mọi thứ đều quay cuồng trong đầu cha tôi, con thuyền bị lật, cây đàn B3 nhiều pê đan, những bánh xe chỉnh âm bằng sắt từ, đôi chân của Gérard, những băng ghế bằng gỗ thông, những bức tường tróc lở, James Brown và Jimmy Smith[9] trèo lên trần, và toàn bộ những thứ chết tiệt bắt đầu lung lay trong khi chiếc tủ loa quay Leslie như khiến người ta muốn lên cơn hưng phấn, còn bên ngoài, ngay cả những cây thông nhũ hương cũng đung đưa thân mình theo nhịp gió. Khí thế của vở nhạc kịch hài hước này chỉ trả lại cho ông một chút tin tưởng vào chính mình, cũng như mong muốn thử tìm lại con thỏ, chiếc mũ cùng một chút phép mầu, biết đâu đấy. Tin chắc rằng chỗ của ông là ở giữa những cư dân người Anh trong khu phố Mitchell, cha tôi vừa huýt sáo vừa quay về căn nhà mục sư của mình, căn nhà nằm rất xa Rome cùng vẻ bề ngoài tráng lệ và những tác phẩm nghệ thuật của nó.
Trên đường về, lần này thì bằng bước chân của một người hành hương, ông nghĩ đến những nhà thờ của các chủ ngân hàng được xây dựng chẳng khác nào những tòa trụ sở, vô tội vạ, không ý tứ, những cái tủ kính nhằm phô bày toàn bộ những vàng, những thủy tinh màu mà ngày xưa người ta vẫn dùng để mua đất đai và ký ức của người Anh điêng.
Tháng Một mãi không kết thúc, và cái lạnh vẫn tiếp tục không nương nhẹ vòng kiềm tỏa của nó đối với chúng tôi. Ban đêm, nhiệt độ càng xuống thấp hơn, nhưng trong các xà lim, nhiệt kế ổn định ở mức 15-16 độ. Tất cả các dòng sông đều đóng băng, và thác Niagara bị đông cứng thành một dòng tinh thể băng trong suốt. Patrick cho tôi xem những bức ảnh đăng trên một tờ báo. “Có vẻ như đây là một kỷ lục, băng đá chưa bao giờ dày đến thế. Khổng lồ thật. Trông như những thạch nhũ to tướng. Mày thấy không, tao không nói là măng đá nhé. Một thầy giáo đã dạy chúng tao cách phân biệt hai thứ đó với nhau: thạch nhũ thì rơi từ trên xuống, còn măng đá thì mọc từ dưới lên. Đỉnh thật, đúng không? Nhìn xa, hình ảnh này khiến tao nghĩ đến cái đài phun nước trong công viên nhỏ chỗ nhà tao, nhưng to hơn. Trong công viên có tượng một ả gần như trần truồng, vác trên vai một cái bình, và nước từ đó chảy ra. Khi bị đóng băng, trông nó chả còn ra hình thù gì nữa, chắc chỉ còn giống với thác Niagara, nhưng thực sự là nhỏ hơn nhiều. Khi thấy kích thước của thác nước, trọng lượng của nó, mày sẽ tự hỏi sao nó có thể trụ được. Theo mày, khi thứ này tan ra, liệu băng đá sẽ đổ sập xuống một lần hay rơi thành từng cục nhỏ?”
Đó chính là những nếp cuộn điển hình trong đầu óc Patrick, bất luận thế nào chúng cũng kết thúc bằng một câu hỏi đột ngột như trời giáng đậm chất Horton. Khiến ta mất phương hướng chẳng khác nào một mảng váng băng trên mặt đường. Biết nói gì bây giờ? Trả lời thế nào đây?
Hôm qua, ở phòng thăm thân, tôi đã có một khoảng thời gian đẹp đẽ. Một lần thăm gặp mới, lần thăm thứ tám của Kieran Read, người duy nhất quan tâm đến tôi từ hơn một năm nay, người duy nhất, trong vụ việc của tôi, đã bảo vệ tôi suốt từ đầu đến cuối, kiên quyết chống lại việc sa thải tôi, bảo vệ vị thế mong manh của tôi trước ông chủ, lúc nào cũng với một niềm tin chắc chắn mà sau đó ông đã thể hiện trước thẩm phán ở tòa án. Sự kiên cường của ông sẽ chẳng mang lại lợi ích gì, ngoại trừ việc cầm chắc những mối thù ghét bền bỉ của mọi người trong tòa nhà dành cho ông.
Kieran Read là một trong số sáu mươi ba người đồng chủ sở hữu nắm trong tay, tại Montréal, ở khu phố Ahuntsic, một căn hộ trong tòa condo L’Excelsior, nơi mà suốt hai mươi sáu năm, tôi làm quản gia, gác cổng, quản lý, y tá, người nghe xưng tội, người làm vườn, nhà tâm lý, kỹ sư điện tử, thợ sửa ống nước, thợ điện, thợ sửa bếp, chuyên gia hóa học, thợ cơ khí, tóm lại là vị thần bản mệnh đáng kính gìn giữ cho cái đền thờ nhỏ bé mà tôi nắm giữ gần như tất cả các chìa khóa, và biết rõ mọi bí mật bên trong.
Căn hộ 605 là căn hộ của ông Read. Nó nằm ở tầng bảy, cũng là tầng trên cùng, nhìn ra bể bơi, khu vườn, và vào những giờ khắc cuối chiều, dâng tặng cho ta thứ ánh sáng dịu mắt cùng tầm nhìn khoáng đạt về phía một khóm phong lớn có tán lá sum sê. Kieran Read, vốn là người Québec gốc Anh, trong một phần đáng kể sự nghiệp cá nhân ở Mỹ, nơi ông làm việc trước khi nghỉ hưu, đã thực hiện một công việc kỳ lạ: định giá người chết. Trong ngôn ngữ mẹ đẻ của Read, ông làm công việc của một casualties adjuster. Read chủ yếu làm việc độc lập, theo yêu cầu khách hàng, chẳng khác nào một chiếc taxi chở điều bất hạnh, ông được thuê bởi các hãng bảo hiểm chỉ chăm chăm lo bảo vệ lợi ích của mình và đàm phán để hạ giá trị của người quá cố, mỗi khi xảy ra một thảm kịch và họ phải đền bù cho gia đình nạn nhân.
Kieran Read, một trong những cư dân lâu đời nhất, vẫn luôn duy trì một cuộc sống kín đáo. Bí hiểm, những kẻ gièm pha ông sẽ nói như thế. Ông không duy trì mối liên hệ liên tục với hàng xóm, và rất hiếm khi giao lưu trong các không gian chung hoặc bên bể bơi. Ông cũng không mấy chăm chỉ góp mặt trong các hội nghị cư dân, bằng lòng với việc thanh toán các loại phí ngay khi nhận được thông báo. Đã quen thấy ông len lỏi trong cuộc sống lặng lẽ và kín đáo ấy, các cư dân lại càng thêm ngạc nhiên khi phát hiện ra nhân vật này, người mà hóa ra họ gần như không hề hiểu chút nào, biến thành người quyết liệt bảo vệ cho gã đầy tớ hèn mọn của L’Excelsior.
Sau mỗi lần công tác vê, thường là vào tối muộn, ông Read thường bấm chuông căn phòng công vụ của tôi, chỉ để trò chuyện một lát và uống chút rượu cùng tôi. Tôi biết ông không muốn lên ngay tầng bảy để rồi ở một mình với tập hồ sơ, trong đó có kẹp bức ảnh của một thi thể mất đầu hoặc một đứa trẻ bị xe tải cán nát. Thế nên ông bấm chuông phòng tôi, ngồi vào tràng kỷ, kể cho tôi nghe về chuyến đi của ông, về chuyến tàu hành xác, về chuyến bay hỗn loạn, về những chiếc ghế kém tiện nghi của hãng United, rồi sau khi trì hoãn một lát bằng những rủi ro trong việc vận chuyển hàng không, và bởi vì vẫn cần phải vượt qua nó, ông tiết lộ với tôi về nội dung buồn thảm trong hợp đồng mới của ông, lại một lần đột nhập vào nỗi u buồn, đau đớn và ngây dại. Mỗi lần đều là những chuyện kinh khủng đến khó tin mà ông phải xử lý và tiêu hóa, bằng cách lục lọi các loại túi quần túi áo và ký ức của người chết. Đôi khi, người quá cố đã nói dối, lừa lọc, phản bội, che giấu. Và công việc của Read, chính là làm thế nào để khiến người chết phải cất tiếng nói. Mặc dù việc hành nghề này từng là một vấn đề với ông trong một thời gian rất dài, nhưng Kieran nói với tôi rằng theo năm tháng, rốt cuộc ông đã quen sống trong cái vũ trụ nơi sự thật thường nằm ở khoảng giữa con đường nối người sống với người chết, trong vòng bao phủ mơ hồ của một công tác kế toán rùng rợn. Dù thế nào, khi vị adjuster trở về sau chuyến đi, những lời đầu tiên ông nói với tôi khi bước vào căn hộ của tôi gần như giống hệt nhau: “Hôm nay, Paul ạ, anh thấy đấy, tôi tin chắc một điều: tôi chẳng khiến ai hạnh phúc cả.”
Cũng giống mọi lần, chuyến viếng thăm của ông mang lại cho tôi những điều tốt đẹp. Nó hòa giải tôi với thế giới bên ngoài. Lòng tin mà người đàn ông này dành cho tôi xoa dịu tôi, trấn an tôi, vỗ về tôi. Hôm qua chúng tôi đã nói về L’Excelsior, cái tòa trước đây, thời mới bắt đầu, cái tòa ngày nay không còn mấy quen thuộc với chúng tôi nữa. Tòa nhà với những cái cây còi cọc, những khối giả sơn thu nhỏ, những khóm cây mới trồng, thảm cỏ rụt rè như người mắc chứng rụng tóc từng mảng, khu vườn mới chỉ là một khoảnh vườn ươm đòi hỏi rất nhiều quan tâm chăm chút cùng lượng nước tưới phù hợp để sự sống có thể được thiết lập một cách bền vững. “Khu vườn, Paul ạ, chúng tôi nợ anh khu vườn ấy. Khi thấy dáng vẻ lộng lẫy vững vàng của nó bây giờ sau ba mươi năm chăm sóc, là người đã nhìn thấy nó ngay từ những ngày đầu, tôi vẫn không thể tin nổi. Cha anh là mục sư, có đúng không? Ông ấy đã truyền lại cho anh những ngón tay của Chúa. Nhưng cái gã thay thế anh ấy, gã chẳng biết gì về cây cối hết. Cứ thứ gì mọc lên là gã xén, thứ gì thò ra là gã cắt cụt. Hết chuyện. Gã không biết gì về tất cả những căn bệnh mà cây trồng có thể mắc phải, về nhu cầu nước của từng loài, những loài nào phải quấn kín vào mùa đông. Gã khác anh lắm. Rất khác. Gã chẳng có gu về thứ gì, và đối xử với chúng không chút kiêng dè. Thời điểm duy nhất có thể nói rằng gã tỏ ra hoạt bát, khi con người gã có chút nhạy bén, đó là khi gã xuống ga ra kiểm tra mức dầu nhờn ở chiếc Chevrolet của gã. Tôi không đưa chuyện với anh đâu, Paul ạ. Gã đó bị ám ảnh với cái thời khắc gần như tôn nghiêm đó, khi gã rút que đo ra khỏi ống dẫn dầu để chắc chắn rằng mức dầu thế là phù hợp. Một hôm, tôi đã quan sát gã trong lúc gã thực hiện cái thao tác đó, và rõ ràng là thế: ấy là lúc gã đạt đến điểm thỏa mãn. Một điểm đặc biệt khác, tôi đã nhận thấy gã có xu hướng nghiện mấy cái lốp xe. Gã bỏ ra không biết bao nhiêu thời gian, không chỉ để cọ rửa lốp xe bằng bàn chải, mà sau đó gã còn bôi lên đó một thứ xi bóng khiến chúng trông chẳng khác gì một “bộ trang phục dạ hội” vô cùng nực cười. Gã này thực sự yêu thích mấy cái lốp xe, tôi không còn nghi ngờ gì nữa. Anh thử hình dung xem, làm sao tôi có thể bấm chuông cửa phòng gã để nói chuyện phiếm, như chúng ta vẫn làm trước đây, nhưng lần này là để so sánh những phẩm chất của một chiếc lốp Goodyear bốn mùa và những chiếc Firestone dòng “chuyên dụng mùa đông” đời mới nhất? Anh thấy đấy, tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho tay trưởng ban quản trị tòa nhà vì đã tống anh ra đường. Lại càng không tha thứ cho lão ta vì đã thay thế anh bằng một gã bị ám ảnh với những thứ như dầu nhờn và săm lốp.”
Lại được nghe giọng của Read, cái giọng chế nhạo đặc sệt âm sắc Anh, những lời khen ngợi cây cối kèm lẫn vài đoạn ác ý dành cho người thay thế tôi, đã khiến tôi vui vẻ đến mức cảm thấy mình có thể chịu đựng được nhịp sinh hoạt hằng ngày trong nhà tù, cái lạnh chưa từng thấy, và những màn rặn ỉa của Horton hầu như trở nên có tính giải trí. Vừa mới đây thôi, sau khi ngồi vào vị trí, Patrick đã thực hiện một nỗ lực dài thành công rực rỡ. Trong suốt quá trình tác nghiệp đó, gã chăm chú nhìn tôi, trưng ra cái vẻ ngượng ngùng và phân vân mà lũ chó thường thể hiện trong trường hợp bị bắt quả tang đang làm việc ấy.
***Line Note Zone***
Chú thích:
[1]Theo Kinh Thánh, đây là nơi diễn ra trận chiến quyết liệt cuối cùng giữa thiện và ác.[2]