← Quay lại trang sách

6. Và cây đàn organ ngừng chơi

Năm tháng trôi đi và, nhờ tuân thủ nghiêm ngặt các quy định trong nhiệm kỳ của mình, vị mục sư trở nên gắn bó với những giáo dân người Anh của ông, những người mà về phần họ, chủ yếu lui tới nhà thờ để ngắm nghía đôi mắt cá chân của LeBlond nhảy điệu twist trên pê đan. Về phần mình, tôi lên được nấc thang mới trong phường thợ xây, bởi vì lúc này Pierre DuLaurier đã giao cho tôi những công trình nhỏ cũng như việc đào tạo cơ bản cho một thợ học việc mới, Bob Woodward, người khăng khăng không chịu nói bất cứ thứ tiếng nào khác ngoài tiếng Anh. Suốt cả ngày, những “fuck” cùng “shit” tuôn ra rào rào, và là dấu hiệu chẳng lấy gì làm tốt đẹp. Nhưng Bobby, theo cách ông chủ gọi cậu ta, dù vô cùng thiếu trách nhiệm nhưng lại tỏ ra hết sức tự mãn, có vẻ thích thú với việc ít bị trừng phạt.

Ở tuổi hai mươi sáu, tôi phải thừa nhận rằng phụ nữ Thetford không chen lấn nhau ngoài cửa nhà tôi, và tôi bù đắp cho sự thiếu hụt ấy bằng việc ra sức đi ca nô ngay khi thời tiết cho phép. Tôi hạ thủy từ sáng và chỉ lên khỏi ca nô khi trời đã tối, suốt ngày dài chèo lái trên mặt nước sẫm màu như bề mặt sơn mài của hồ Magog, Massawippi, Aylmer hay Saint-François. Mỗi hồ lại có nét khác biệt, với những mùi vị, những luồng gió và những dòng chảy vô hình riêng biệt. Tuy nhiên, tất cả đều mang trong mình thứ sức mạnh cốt tử, niềm hạnh phúc nguyên sơ mang lại cho tôi mong muốn không thể phủ nhận là được đi tới tận đầu kia, được đạt tới đích, bằng bất cứ giá nào, cho dù nó nằm ở đâu đi nữa.

Trong lúc tôi chèo thuyền, cha tôi câu cá còn Gérard guồng chân trên pê đan, trong khi lớp màn a-mi-ăng bị sờn rách, thì có thứ gì đó đang hình thành trong tỉnh bang này, một phong trào liên quan đến đất đai làm rung chuyển Liên bang và khiến ngai vàng nước Anh hoảng sợ. Québec đã tiến hành một quy trình trưng cầu dân ý nhằm đạt được sự độc lập của mình, cho Ottawa nghỉ việc, chấm dứt sự tôn kính dành cho Luân Đôn, và sống phần đời còn lại của mình giữa những người thân. Được chính khách René Lévesque và Đảng Québec đóng gói rồi thắt nơ cẩn thận, hộp quà trưng cầu dân ý liên quan đến độc lập của tỉnh bang này được đặt dưới gốc cây thông của Liên bang ngày 20 tháng Mười hai năm 1979 và cả dưới chân chính phủ của Pierre Elliott Trudeau, nhân vật này, mặc dù cũng là người Québec, lại điên cuồng chống đối ý tưởng ly khai được ngụy trang thành “độc lập-liên kết” này. Dù thế nào, từ đó trở đi mỗi người đều đã biết rõ cách thức sử dụng của một tương lai mà người đó sẽ phải chọn bằng cách quyết định dựa trên một văn bản do các thấy tu dòng Tên[1] thần thánh trong Đảng Québec soạn thảo, sau này một người trong số họ đã bị nghi ngờ là nội gián của Nhà nước Liên bang. “Chính quyền Québec đã cho biết đề xuất của mình trong việc, cùng với phần còn lại của Canada, đi đến một thỏa thuận mới dựa trên nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc; thỏa thuận này sẽ cho phép Québec đạt được quyền lực tuyệt đối trong việc ban hành luật pháp, thu thuế và thiết lập các mối quan hệ đối ngoại của vùng, điều này đồng nghĩa với độc lập, và đồng thời, vẫn duy trì sự liên kết kinh tế với toàn Canada, trong đó bao gồm việc sử dụng một đồng tiền chung; sẽ không có sự thay đổi vị thế chính trị nào xuất phát từ những đàm phán này nếu không có sự đồng thuận của người dân thông qua một lần trưng cầu dân ý khác; như vậy, bạn có ủy quyền cho chính quyền Québec đứng ra đàm phán thỏa thuận giữa Québec và Canada không?”

Ngay cả nhà DuLaurier có lẽ cũng từ chối xây dựng bất cứ thứ gì dựa trên một kế hoạch vụng về đến thế, nhất là khi kiến trúc sư của sự chồng đống này, ở đỉnh điểm của sự bất tài, chỉ bằng một văn bản duy nhất và trong ba lần liên tiếp, đã sử dụng dấu chấm phẩy, loại dấu của sự bối rối và nghi ngờ, thể hiện một đầu óc rụt rè lưỡng lự giữa rắp tâm chấm dứt một lần cho xong và mong muốn tiếp tục hành trình để xem nó sẽ đưa chúng tôi đến tận đâu.

Thứ Ba ngày 20 tháng Năm năm 1980, sau một chiến dịch thô bạo thậm chí dẫn đến việc thiết lập những đường ranh giới ngay trong lòng các gia đình, người dân Québec bỏ 2.187.991 lần tấm phiếu có ghi “Không, cảm ơn!” vào các hòm phiếu và 59,56% trong số họ từ bỏ ý định giao phó tương lai của mình cho ba dấu chấm phẩy.

Với tư cách thường trú nhân, cha tôi và tôi đương nhiên không tham gia bỏ phiếu. Ngược lại, trong gia đình DuLaurier, những người luôn cao giọng khẳng định niềm hy vọng được độc lập, ai nấy đều sầu não. Họ ngồi trước ti vi, ngoại trừ Woodward, hẳn là đang bận ăn mừng chiến thắng của những người theo phe Liên bang cùng vài kẻ đồng mưu với Hoàng gia. Vào một thời điểm trong tối đó, René Lévesque xuất hiện trên truyền hình. Phải chăng ông đã dự tính trước câu nói của mình, hay nó được lấy cảm hứng từ sự pha trộn giữa lòng tự hào, nỗi buồn và nỗi giận dữ của những người ủng hộ ông? Những người ngồi trước màn hình ti vi đêm đó không tự hỏi mình câu ấy. Khi nghe thấy người đàn ông này nói với họ “Nếu tôi hiểu đúng về các bạn, các bạn đang nói với chúng tôi rằng hẹn gặp lại lần sau!”, tất cả họ, người này nhìn người kia và thấy rằng mắt ai cũng đẫm lệ.

Cha tôi tận dụng năm ngày trước buổi thuyết giảng tiếp theo để viết một bài giảng không hề có dấu chấm phẩy nào và chủ yếu lấy cảm hứng từ thông điệp hy vọng của Lévesque. Bài giảng dài ấy ca ngợi vai trò hàng đầu của đức tin khi ta lao vào cuộc chiến của cả một đời, cái công cuộc tìm kiếm liên tục và lúc nào cũng khó khăn để chinh phục ân điển, ở đây, có lẽ ngầm hiểu là độc lập.

Cha tôi và đức tin. Ông chưa bao giờ nói về đức tin nhiều đến thế kể từ khi ông đánh mất nó. “Ngay cả khi các bạn gục ngã, ngay cả khi các bạn tưởng rằng tất cả đã chấm dứt, ngay cả khi các bạn hoài nghi, hãy đứng dậy và tin tưởng, tin tưởng trên hết thảy và bất chấp tất cả, bởi vì Đấng Tối cao đang ở cùng các bạn và chính giọng Người nói với các bạn rằng sẽ có thêm một lần nữa, và nếu điều đó là cần thiết, sẽ có một lần khác nữa, cứ như thế, đến đoạn kết của các đoạn kết, đến điểm cuối của con đường, cuối cùng các bạn sẽ bước vào Nhà Chúa.” Chẳng có gì mới mẻ cho lắm, vẫn là những ý tưởng truyền thống, vẫn là những ước lệ thông thường, nhưng năm ngày sau thông điệp ngắn gọn của Lévesque, bài diễn văn ca ngợi niềm hy vọng ương bướng của cha tôi khiến những giáo dân người Anh của ông, những người mà hôm Chủ nhật ấy đã không kề cà lâu trên khoảnh sân trước nhà thờ, cảm thấy cơn rùng mình chạy dọc cột sống.

Năm 1980, các khu mỏ vẫn đang được khai thác, và người dân vẫn không ngại ngần vật lộn trong thế Pleistocen. Để chui xuống sâu hơn, đào thêm nhiều giếng và phát hiện thêm nhiều mạch vỉa mới, các doanh nghiệp sử dụng đến thuốc nổ. Những vụ nổ khủng khiếp đều đặn khiến mặt đất rung chuyển cùng với cả cái thành phố mà người ta đặt lên trên đó. Theo thời gian, cùng với những lần gặm nhấm dần dà, những cái hố toang hoác tiến lại gần các ngôi nhà và các khu phố có cư dân sinh sống. Không hiếm khi, bị những vụ đánh bom lộ thiên ấy xới tung lên, những trận mưa đất đá, sỏi cuội dội xuống những ngôi nhà lân cận, những người sinh sống tại đó cùng những chiếc xe đỗ ở đó.

Vào cuối những năm 1960, ở đây xảy ra một sự kiện mà mức độ dữ dội của nó sẽ khiến người ta tiên liệu những phương pháp mới cùng những ưu tiên cho thế giới trong tương lai. Lấy cớ là muốn giúp cư dân thoát khỏi cảnh mưa đất đá, nhưng trên thực tế là vì đã phát hiện ra bên dưới các ngôi nhà trong khu phố Saint-Maurice có một mạch vỉa mà không có chuyện họ để tuột khỏi tay, các công ty quyết định giải tỏa mặt bằng. Lần lượt, họ di chuyển các ngôi nhà, rồi đến các ga ra, các hệ thống đường ống, các con phố, các cư dân, đồ đạc, tài sản, ký ức, thiết lập ở xa hơn, trên một vùng đất hoang, tất tần tật những thành tố của khu phố ấy, chỉ để lại cho những kẻ phá hoại bộ khung của một nhà thờ quá phúc tạp nên không thể tháo dỡ cùng một loạt những tòa nhà hành chính cũ kỹ đã bị san bằng. Vậy là đã giải tỏa xong mặt bằng cho những vụ nổ. Nhưng không, do chậm trễ hết lần này đến lần khác, vì nghiên cứu giám định lại, việc khai thác khu vực này đã không bao giờ được tiến hành.

Mặc dù nằm trong điểm giao của các đường bắn từ các giếng khai thác của King, Bell, Beaver và Johnson, khu phố Mitchell vẫn ở nguyên chỗ cũ và phải làm quen dần với bụi bặm cùng những vụ nổ. Việc ở cạnh một vùng chiến sự như thế có lẽ sẽ không bao giờ chấm dứt nếu một ngày kia phân nửa các mái nhà không bị đổ sụp do tác động của một thiên thạch a-mi-ăng to tướng trồi lên từ trung tâm trái đất. Khi đó, ai nấy mới nhận thức được đầy đủ về mối hiểm họa có thể xảy ra khi phải sống trong đường ngắm của những gã lính bắn tỉa mù mắt nhưng lại được trang bị toàn những loại súng cỡ nòng lớn như thế.

Người ta vội vàng tổ chức những cuộc hợp, trong đó người ta hứa hẹn sẽ tách những ngôi nhà ra xa hết mức có thể khỏi các điểm khai thác và nạo vét đất. Một biện pháp an toàn mang tính biểu tượng khác, đó là kéo còi báo động ở mức siêu to mười lăm phút trước khi tiến hành các vụ nổ. Rất nhanh chóng, quy trình này bị bỏ xó, nhưng tôi đã được vinh dự chứng kiến vài đợt hoảng loạn do tiếng kèn trôm pét chết chóc ấy gây ra.

Những khu phố này, cho đến khi ấy vẫn sống với thái độ thờ ơ và xem thường hiểm họa, chẳng biết vì nguyên nhân gì, bắt đầu có những cách hành xử hoảng hốt sau khi hệ thống còi báo động được lắp đặt và khởi động. Mỗi lần báo động, nhiều người vội vã lao về nhà, đóng kín cửa lớn và cửa sổ, che đậy tất cả những gì họ có thể che đậy, dường như bây giờ họ còn khiếp sợ những tiếng rống cảnh báo của con quái vật này hơn cả những tiếng nổ thực thụ trước đây. Cha tôi nằm trong số những cư dân nhanh chóng thiết lập trật tự trong công việc của mình khi âm thanh báo hiệu ngày tận thế vang lên.

Có đôi khi, vì tiện lợi về mặt khí tượng hoặc trong khai thác, người ta cho nổ mìn trong các giếng vào sáng Chủ nhật. Cha tôi đã đôi lần đến than phiền với các công ty về sự bất tiện khiến buổi lễ của ông không được tiến hành suôn sẻ ấy. Người ta đã hứa là sẽ xem xét vấn đề. Những cuối tuần sau đó, số vụ nổ tăng gấp đôi, và cùng với chúng là âm thanh khủng khiếp của những hồi còi báo động. Một Chủ nhật, khi ghé qua nhà thờ thăm cha, tôi đến nơi đúng lúc cha đang thuyết giảng còn Gérard LeBlond đang vận hành các phím chỉnh âm cho một tổ họp “organ đầy đủ”. Nói thêm rằng vị mục sư đang diễn thuyết về sự nghi ngờ và đức tin có lẽ sẽ là thừa thãi, bởi vì hai chủ đề này hẳn phải chiếm đến chín phần mười các bài thuyết giảng của ông. Ngày hôm đó, ông đang toàn tâm toàn ý với công việc, ông đang ở phần chính của lập luận, lay động cử tọa để xoa dịu họ được hiệu quả hơn, điều chỉnh các hiệu ứng của mình, thì thầm những lời ca ngợi, bài bác những sai lầm, và bơi trong ngôn từ của chính mình chẳng khác nào người ta bơi trong nước. Tôi còn nhớ rằng, đến một đoạn trong câu chuyện nói về tinh thần khoan dung và chấp nhận người khác, ông dừng lại một lát, một khoảng lặng dài mà suốt lúc ấy dường như ông nhìn sững vào từng giáo dân của mình. Ở Toulouse, tôi đã vài lần thấy ông sử dụng cái mẹo này để thu hút sự chú ý của cử tọa. Khi cho rằng mọi điều kiện đã hội đủ, ông liền đưa ra một thông điệp mà hẳn khi ấy ông cũng không hình dung là sẽ có tác động lớn đến như thế: “Chính là trong sự im lặng của những viên đá và những khu rừng mà đôi khi ta nghe được tiếng thì thầm của các vị thần.” Bởi ông vừa nói dứt từ cuối cùng trong câu ấy, tiếng còi báo động bỗng gầm lên chẳng khác nào một lời báng bổ. Ông không nói thêm gì nữa, và sẽ không bao giờ có ai biết được các vị thần - hẳn sẽ là điều đáng ngạc nhiên hơn vì họ được nhắc đến ở số nhiều chứ không phải số ít - sẽ thực sự nói gì khi thổ lộ vào tai những vị khách trọ của cuộc sống. Cha tôi vội vàng gấp cuốn sổ ghi chép, đề nghị mọi người đứng dậy, rời đi trong trật tự, nhưng phải rời đi nhanh chóng, trước khi cả thế giới đổ sụp xuống đầu họ. Vốn không thiếu cả khiếu hài hước lẫn khả năng thích ứng, ông chủ của cây đàn organ bắt đầu phổ nhạc cho cơn hoảng sợ nhẹ nhàng đang chiếm lấy những người di tản, và, bằng bốn bàn tay của mình, ông chơi bài My God, to Thee[2], bài thánh ca Cơ đốc do nữ thi sĩ Sarah Flower sáng tác ca từ và nổi tiếng vì đã được chơi cho đến nốt cuối cùng trong lúc con tàu Royal Mail Ship Titanic bị chìm. Ngày Chủ nhật hôm ấy, đúng mười lăm phút sau tiếng cời báo động, vụ nổ xảy ra, và ngoại trừ vài viên đá sỏi nhỏ thậm chí còn chẳng đủ làm xước phần vỏ chắc chắn của con thuyền, một màn mây a-mi-ăng mỏng chậm rãi đậu xuống tất cả chúng tôi.

Xem một trận khúc côn cầu trong tù là một môn thể thao đích thực đòi hỏi có chút chuẩn bị nhất định, ít nhất là khi ta làm việc đó bên cạnh Patrick Horton. Khi những người Canada ở Montréal ghi bàn, gã lao bổ vào ôm nghiến lấy những người ngồi cạnh. Khi người Canada bị thủng lưới, gã ra sức nện vẫn những người ngồi cạnh ấy như thể họ được làm bằng thứ vật liệu không thể phá vỡ. Vừa hay tối đó chúng tôi xem đội Canada đấu với đội Maple Leafs của Toronto, những lần giao đấu của hai đối thủ này hiếm khi kết thúc mà không có những cú nện gậy tinh tế và những thất bại vang dội. Tối đó, mặc dù họ đã góp phần vào chiến thắng của đội mình, nhưng tôi thấy hai cầu thủ của đội Maple Leafs, Phaneuf và Armstrong, chơi đặc biệt ác liệt. “Ác liệt? Ác liệt ư? Trời ơi tao đang mơ mất rồi. Tao tự hỏi tại sao lại nói chuyện khúc côn câu với mày, mày có biết gì về món ấy đâu. Thôi nào, đừng lắm chuyện nữa. Phaneuf là thằng con hoang kinh khủng nhất mà mày có thể gặp phải trên một sân băng. Phaneuf là một cái máy cắt. Với hắn thì không nên chơi bằng gậy khúc côn cầu, mà phải dùng gậy bóng chày hoặc dao thái thịt. Tối nay, chính hắn ta làm nên mọi chuyện. Armstrong cũng thế. Armstrong là lưỡi dao thứ hai. Phaneuf mà bỏ lỡ mày thì Armstrong sẽ xiên thủng ngay. Hai thằng đó ấy à, phải mang chúng đến Bắc Cực mà chơi với lũ gấu, chứ không phải trên sân băng, không phải ở giải vô địch Khúc côn cầu Bắc Mỹ.”

Để thư giãn sau trận đấu, chúng tôi còn xem một phim tài liệu về các môn thể thao của người Celt và môn ném gậy Caber. Những gã cố sức ném thật xa những khúc cây dài từ năm đến bảy mét nặng chừng 100 đến 110 kí lô. “Thay vì hành hạ những cái cây, tốt nhất là họ nên ném Phaneuf và Armstrong.”

Tôi còn nhớ mình đã xem không ít trận khúc côn cầu vào năm 1969, cùng với cha tôi, trong giải vô địch thế giới diễn ra ở Thụy Điển và được phát lại trên ti vi. Ở Toulouse, môn thể thao này không được phổ biến cho lắm, tất nhiên, nhưng gốc gác Scandinavia của Johanes, người không bỏ lỡ bất kỳ trận đấu nào, đã cho phép tôi làm quen với những luật chơi chính của môn thể thao này. Hồi đó, có một trận đấu khác thường giữa đội bóng của Liên bang Xô Viết với Tiệp Khắc, diễn ra chưa đầy một năm sau khi những cỗ xe tăng Xô Viết tiến vào Praha. Sau trận đấu kỳ lạ ấy, một cuộc chiến thực thụ trên mặt băng, đội Tiệp Khắc giành chiến thắng với tỷ số 4:3, nhưng nhờ có goal average chung cuộc tốt hơn, sau này người Nga mới trở thành những nhà vô địch thế giới. Trái ngược với luật chơi, các cầu thủ không chịu bắt tay nhau sau khi trận đấu kết thúc. Vào thời điểm trao huy chương, khi người ta cử nhạc bài Quốc tế ca, truyền hình Tiệp Khắc đã cắt tiếng. Và khi đội Liên Xô bước lên bục nhận giải, cả hình ảnh cũng biến mất.

Vừa rồi, tôi đã cố gắng kể với người chung phòng giam câu chuyện đặc biệt này. “Tại sao mày lại kể chuyện ấy với tao? Tao coi khinh mấy cái thằng Nga ngố năm 69 của mày. Tao biết hết những chuyện đó. Với lại, có liên quan gì đến Phaneuf và Armstrong đâu? Mà ông già mày là người ở đâu ấy nhỉ? Đan Mạch phải không? Mẹ kiếp, không thể nào trùng hợp hơn được. Mày có biết đội Đan Mạch chính thức đấu trận đầu tiên với đội nào không, vào năm 1949 ấy? Đội Canada, anh bạn ạ. Mà mày có biết tỷ số là bao nhiêu không? 49:0. Thế nên đừng có làm trò với mớ xe tăng Liên Xô của mày và những thứ đại loại như thế nữa. Về lịch sử và chính trị, ok, tao biết, tao là một thằng ngốc. Ngược lại, về khúc côn cầu, tao thuộc hết tỷ số của đội Canada, tất cả các thành tích, tất cả các cầu thủ. Nào, nào, thử hỏi tao một câu đi. Bao nhiêu lần vô địch thế giới? Cho đến giờ là hai mươi tư lần. Vô địch Thế vận hội? Bảy lần. Chiến thắng với tỷ số đậm nhất? Tao nói với mày rồi đấy, trong trận đấu với đám cầu thủ nực cười ở quê hương của ông già mày. Thất bại nặng nề nhất? Năm 1977, trong trận đấu với lũ Xô Viết chết tiệt, 11:1. Tay ghi bàn giỏi nhất mọi thời đại? Wayne Gretzky. Được chưa? Đủ cho mày chưa? Mày thấy không? Đi dọn phòng đi.” Gã liền phác một cử chỉ hơi nực cười quen thuộc trong giới thể thao, cái cử chỉ khiến người ta tin rằng bàn tay phải đang kéo một sợi dây báo động vô hình, trong khi tác giả của nó biểu diễn một cái nhăn mặt đồng thời cắn môi dưới. “Khúc côn cầu, để thực sự hiểu về nó Polo ạ, thì phải sinh ra trong nó, ngay từ lúc năm tuổi đã đông cứng cả chân trên sân băng quê mày, về đến nhà rồi mà ngón tay vẫn không có cảm giác gì, ăn một gậy khi để gậy khúc côn cầu của mày ở ngay cửa ra vào, và khi mày chơi bóng, phải biết ăn gậy lẫn cho thằng khác ăn gậy, và nhất là muốn phá vỡ mặt băng mỗi lần mày tì lên đôi giày trượt. Mày đã bao giờ xỏ chân vào giày trượt chưa?” Tôi không dám nói sự thật với gã, mà tiếp tục dọn dẹp phòng đúng như gã vừa yêu cầu.

Ở Thetford Mines, ai có thể tưởng tượng được rằng mọi thứ sẽ diễn tiến theo cách đó, rằng mục sư Hansen sẽ có bước trôi giạt vừa bất ngờ vừa đột ngột như thế, đến mức ông bị cấp trên, Quebec and Sherbrooke Presbytery of Montreal and Ottawa Conference of the United Church of Canada[3] triệu tập khẩn cấp vào tháng Một năm 1982? Để sát cánh cùng ông trong thử thách mà ông sắp phải trải qua và tôi cảm thấy mình có một phần trách nhiệm trong đó, tôi đã lái xe đưa cha tôi đến cuộc hẹn đó rồi đỗ xe không xa cái tòa nhà nơi mà một kiểu tòa án của giới tăng lữ sắp nắm được những việc cha tôi làm và sẽ quyết định số phận của ông. Trong một giờ đồng hồ phiên tòa ấy diễn ra, tôi vẫn ngồi sau tay lái nghe đài trong xe, băn khoăn không biết làm sao tất cả những chuyện này có thể xảy ra, làm sao mà chỉ trong một năm, Johanes lại có thể tích góp nhiều nợ nần như thế rồi phá hủy tương lai nghề nghiệp của ông đến mức đó.

Khi tôi nhìn thấy cha trở ra xe, ông bước đi dọc vỉa hè, nép thật sát vào tòa nhà như muốn ẩn náu khỏi một thứ gì đó. Cánh cửa xe đóng sập lại, ông đưa hai bàn tay lên mặt, vuốt vuốt đôi lông mày. “Cha mừng là con đến đây cùng cha, con đã đồng hành với cha.” Như thỉnh thoảng ông vẫn làm trong những lần thuyết giảng, cha tôi im lặng hồi lâu. Nhưng lần này thì không phải là một mẹo khi đứng trên diễn đài hay một mánh làm duyên khi hùng biện, mà chỉ vì hai lá phổi của ông thiếu không khí, trái tim ông thiếu sức lực, và tâm trí ông thiếu sự thông suốt trong suy nghĩ. Ông quay mặt sang phía tôi. “Họ cho cha sáu tháng để hoàn trả số tiền cha đang nợ, lập lại trật tự cho tất cả các tài khoản của nhà thờ rồi trao trả chìa khóa. Hết thời hạn đó, họ sẽ đâm đơn kiện.” Ông xòe hai bàn tay hướng lên trời. “Họ chẳng thể làm gì khác được.”

Tất cả bắt đầu từ một năm trước, tôi tin là như thế, vào đầu mùa đông năm 1981. Sau những lần tuyết rơi đầu tiên, cái lạnh bắt đầu làm các con đường nứt nẻ và ngày đột ngột ngắn lại, như thể mỗi ngày đều sốt sắng muốn chấm dứt. Trong thời kỳ giao mùa ấy, có điều gì đó biến đổi trong chúng tôi, một nỗi uể oải lan tỏa xâm chiếm mỗi người, và cùng với nó là cảm giác u buồn. Tôi rất nhạy cảm với những biến đổi ấy. Để cắt đứt với cái nhịp điệu trầm uất này, tôi đã rủ cha đến Québec chơi một tối ở Palais Central, trường đua ngựa nơi tổ chức cả loạt cuộc đua xe ngựa kéo. Nhìn từ bên ngoài, với hai gác chuông nhỏ, vòm cung ở chính giữa và kiến trúc đối xứng của chúng, những khán đài chính đồ sộ khiến tôi liên tưởng một cách kỳ cục đến mặt tiền của một trường đấu bò tót ở miền Bắc Tây Ban Nha. Bên trong, mọi thứ đều tầm thường hơn, một vòng tròn rộng 70 bộ xây trên nền cát, trải đất sét bên dưới và phủ xỉ than bên trên, một đường chạy trên thực tế là mở cửa suốt cả năm từ khi, để giữ chân những người cá cược, các chủ sở hữu của Palais Central đã thuê lắp đặt hệ thống sưởi cho khán đài. Tối đó, trong chương trình có bảy cuộc đua.

Tôi không phải mất nhiều công sức thuyết phục cha đi cùng đến buổi đua ngựa đó. Người mà không lâu trước đó còn cấm bản thân mình phụng sự hai chủ, đã kín đáo xin nghỉ phép với ông chủ này để, trong khoảng thời gian của một chuyến đi, đến léng phéng với ông chủ kia. Trong mỗi cuộc đua, tùy theo màu mũ hoặc màu áo choàng của nài ngựa, tùy theo nét thanh lịch của cỗ xe đua, tùy theo màu lông của một con vật mà ông hoàn toàn không biết gì về nó, Johanes chọn một cỗ xe, đi xuống bàn cá cược như thể cuộc đời ông phụ thuộc vào đó, lấy ra những đồng đô la và đặt cược trên sự khác lạ của một bộ bờm, sự may rủi của một bước chạy, với sự hăng hái và tin tưởng khiến không một ai, dù chỉ trong thoáng chốc, có thể tưởng tượng được rằng người đàn ông này đang trải qua một cơn khủng hoảng lòng tin về bản thân và về vị Chúa cứu thế của ông. Sau đó, cha leo bốn bậc một để quay về chỗ ngồi của mình trên khán đài. Phải tin rằng đêm đó, Thiên đường đã nhắm mắt làm ngơ trước sự phản bội của ông, bởi vì tính tổng cộng các cuộc đua, cha tôi đã đạt được kết quả ngoạn mục. Bốn ngựa thắng, hai ngựa ở thế dẫn đầu, và một ngựa bị loại khỏi cuộc đua vì dáng vẻ bất thường.

Người đàn ông mà tôi chở về Thetford Mines trong chiếc Honda nhỏ bé là một người giàu có và như thể đã thay hình đổi dạng vì hạnh phúc sau khi chơi cho vận may một vố đau, khi buộc vận may ít nhất cũng phải một lần mỉm cười với ông. Bốn trăm hoặc năm trăm đô la thắng cược, những cơn rùng mình trong cuộc đua, mùi bia và mùi xì gà, những tiếng la hét trên khán đài, cái lạnh ở bên ngoài, ngọn lửa thiêu đốt trong lòng, sự bấp bênh cho đến tận giây cuối cùng, những bấp bênh của ngẫu nhiên, từng ấy đã là quá đủ để vị mục sư nhận ra rằng vòng đua ở Palais Central mở ra cả một trường khả năng mà chẳng gì trong Kinh Thánh hé ra cho ông thấy.

Tuần sau đó, cùng ngày, cùng giờ, cùng địa điểm, cùng những cuộc đua như trước. Lần này, chính Johanes là người nài nỉ chúng tôi lên đường. Trên đường đi, cha nói với tôi rằng ông rất thích trải nghiệm đầu tiên đó, rằng ông thấy nó thật “kích thích”. Đó là một tính từ rất hiếm khi xuất hiện trên miệng cha tôi. Tôi cũng để ý thấy chiếc túi da lớn có dây đeo quanh cổ ông. “Ống nhòm đấy. Để theo dõi cuộc đua rõ hơn. Cha đã thấy là tất cả khán giả, hoặc gần như tất cả, đều có một cái.” Điều ngạc nhiên cuối cùng, trên sân trước trường đua, cha tôi lấy từ trong túi ra một chiếc mũ lưỡi trai kẻ ca rô, đội lên đầu rồi cẩn thận chỉnh sửa như thể thứ phụ kiện này đánh dấu việc ông bắt đầu một cuộc đời mới.

Trong bộ chế phục trông không đến nỗi nào khi ở trên người ông, Johanes ký lại cái khế ước với những vị thần thánh phụ trách nước kiệu, những vị một lần nữa lại giúp đỡ ông vượt cả mong đợi. Ngay từ cuộc đua đầu tiên, mắt dán chặt vào ống nhòm, cha tôi bắt đầu cao giọng khi cỗ xe yêu thích của ông tiến sát hàng đầu. Và khi nó giành vị trí dẫn đầu, vị mục sư phạm tội lỗi lần đầu tiên trong đời: “Đi đi, mẹ kiếp, đi đi.” Khi ngồi trong xe trên đường trở về, ông thú nhận với tôi rằng, nghĩ cho kỹ thì cá cược là một nghề tuyệt vời. Ngồi xuống, đặt cược, thắng cược rồi trở về. Có vẻ như ông không hình dung được rằng hoạt động này có thể kéo theo những rủi ro - mất tiền chẳng hạn. Khả năng ấy, cái giả thuyết rằng ông bị “quyền năng siêu nhiên” bỏ rơi, thậm chí ông còn không nghĩ đến. Tối đó, tôi hiểu rằng quỷ dữ đã thò được một chân vào cửa nhà ông. Nhưng vẫn chưa tưởng tượng được rằng chính Johanes sẽ mở toang cánh cửa đó cho nó.

Cha tôi trải qua hết mùa đông ở Palais Central, trường đua duy nhất ở Québec có thể hoạt động trong thời tiết giá lạnh. Theo như tôi được biết, ông không vắng mặt bất cứ buổi nào, và nhìn chung là thắng nhiều hơn thua, mặc dù có vài lần thất bại thấm thía khiến sổ cân đối thu chi của ông bớt hứng khởi đi phần nào. Tôi dùng thuật ngữ này có phần sai lệch, bởi vì tôi biết rằng cha tôi, trong suốt thời kỳ ấy, hoàn toàn không có tính toán gì. Bởi vì ông thuộc thể loại tay chơi đáng gờm chỉ ghi nhớ những lần chiến thắng mà quên béng những thất bại ngay sau khi đau khổ vì chúng. Chừng nào trong túi ông còn tiền, thì hệ thống đó vẫn có thể hoạt động.

Đến mùa xuân, cha tôi rời bỏ Québec để chuyển sang Trois-Rivières, một trường đua ngựa lớn đẳng cấp chuyên nghiệp xây dựng năm 1830, nơi lúc đầu người ta cho người chạy đua với ngựa. Rồi người ta tổ chức những cuộc đua ngựa nước kiệu, đua ngựa kéo xe, đua ngựa nước đại, quy tụ những giống ngựa thuần chủng tốt nhất ở Canada và Mỹ. Các công ty tổ chức lấy tên là Three Rives Turf Club, để nịnh nọt người Anh, hoặc Saint-Maurice Turf Club, để an ủi người Pháp. Từ khi xây dựng cho đến tận gần đây, trường đua này có số phận khá hẩm hiu, đặc biệt là đã phải chịu đựng ba vụ hỏa hoạn phá hủy các chuồng ngựa, hai vụ sau gây ra cái chết của 174 chú ngựa đua bị nhốt trong chuồng. Cha tôi, sau khi tìm hiểu về địa điểm sa đọa mới của mình, thậm chí còn có vẻ tự hào về việc vua William IV của nước Anh đã đến tận đây vào năm 1836 để trao tặng phần thưởng năm mươi ghi nê cho người chiến thắng trong một cuộc đua nước đại. Có lẽ chính cái viễn cảnh về những tưởng thưởng như thế đã mang lại cho vị mục sư một niềm tin mới mẻ vào những chú ngựa bị nhồi đẫy Tramadon, Codein, Ketoprofen, Clenbuterol và Stanozolol. Johanes khoát mạnh tay phủ nhận những thứ thuốc đó, khẳng định rằng những cách làm đó ngày nay là rất khó xảy ra, bởi vì việc giám sát và phân tích được thực hiện vô cùng nghiêm ngặt. Trong vòng vài tháng, cha tôi đã trở thành hình ảnh biếm họa của một tay chơi cá ngựa, với chiếc ống nhòm lủng lẳng trước ngực, chiếc mũ lưỡi trai sáu múi, những thông tin lấy tận nguồn mà hẳn là ông nhặt nhạnh được ở nhà mục sư, và sự tin tưởng mù quáng vào một thiết chế ám muội đã bị tất cả các Presbytery Conference United trên thế giới này tẩy chay từ lâu.

Cũng giống như ở Québec, Johanes Hansen bắt đầu bằng việc lột tiền của nhà cái, ông liên tiếp đặt cược vào con ngựa chiến thắng hoặc ở thế dẫn đầu trong suốt thời kỳ chớm xuân. Trong một khoảng thời gian kỷ lục, ông đã thuộc lòng tên tuổi của tất cả nài ngựa, danh tiếng của các chủ sở hữu, tên của từng con ngựa và tên riêng của các nữ nhân viên trực quầy. Vì thường xuyên thấy ông đi lại giữa các bãi quây, khu giới thiệu ngựa và các bảng tính điểm, một số nữ nhân viên còn gọi cha tôi là “ông Johanes” khi đưa tích kê cho ông. Nhưng đến đầu hè, ngôi sao may mắn của ông Johanes đã bị che khuất một thời gian dài. Cả ngựa đua nước kiệu, nước đại lẫn ngựa kéo xe đều xoay về hướng một nhân vật mới xuất hiện, một kẻ tầm thường chẳng biết gì về lĩnh vực này, còn chưa mua cả mũ lưỡi trai lẫn ống nhòm và đang ngồi đâu đó trên khán đài với đứa con trai của ông ta, một gã trẻ tuổi hơn tôi, gã chỉ rủ ông ta đi tận hưởng một ngày thời tiết đẹp rồi ghé trường đua chơi cho hết buổi chiều.

Túi của vị mục sư bắt đầu cạn dần. Như cách một cái bơm bắt đầu hoạt động, tốc độ thiệt hại của ông cứ nhanh dần. Vài lần thu hoạch, một thế dẫn đầu ở chỗ này, một lần thắng chẳng bõ bèn gì ở chỗ kia, không thể đủ để ngăn chặn dòng tiền chảy máu.

Ở nhà thờ, do mải mê chìm đắm trong những chuyện chỉ liên quan đến đường đua, vị mục sư viết những bài thuyết giảng cẩu thả, lơ là các buổi lẽ, đến thuyết giảng muộn, quên bẵng các cuộc hẹn và ngày càng ít quan tâm đến âm nhạc của Gérard, người đã thấy rõ là có chuyện gì đó không ổn như trước. Ông tâm sự chuyện đó với tôi. Tôi đành phải thú nhận sự thật với ông. Cha tôi, chỉ trong chớp mắt, đã trở thành một gã cuồng ngựa, một tay chơi không thể dứt ra nổi, và đối với ông lúc này, tiền đã mất hết giá trị vốn có mà chỉ còn là vật trung gian giúp ông đạt đến cái ánh chớp lòe đầy adrenalin mà ông chỉ tiếp cận được ở “vài giây trong sự hoàn hảo của bước chạy nước rút đó.”

Đức tin đã bị lãng quên. Một thứ đức tin khác đã thay thế nó. Cha tôi cần tin vào đâu đó.

Tôi còn nhớ rằng sau khi tôi giải thích mọi chuyện với Gérard, ông nhìn tôi và nói với tôi một câu kỳ lạ: “Tôi thấy thà thế còn hơn, tôi đã sợ rằng đó là chuyện liên quan đến đàn bà.”

Người đàn bà ấy còn chưa xuất hiện, nhưng, mặc dù đến thời điểm này của câu chuyện, không ai có thể đoán nổi, người đàn bà ấy đã đang trên đường vượt qua những ngoắt ngoéo của số phận.

Cha tôi vốn rất được lòng phụ nữ trong giáo xứ. Ông đối xử với họ đầy thấu hiểu và hết sức tôn trọng, luôn khuyến khích họ thể hiện tài năng và nỗ lực học hành, không bao giờ ép họ vào bất cứ cái khuôn khổ đạo đức chật chội nào. Trên thực tế, ông có thái độ hoàn toàn trái ngược với thái độ của giới tăng lữ Công giáo xứ này. Cho đến tận đầu những năm 1950, giáo lý của họ vẫn rất đơn giản: sinh đẻ thật nhiều, ra sức gia tăng dân số để ngăn chặn người Anh, kìm hãm họ, củng cố đội quân của Rome và làm suy yếu lũ quỷ Tin lành chống đối Giáo hoàng. Giống như nhân viên chào hàng, các cha xứ hồi ấy đến các gia đình để ban phúc và nhất là thăm các bà mẹ, khuyến khích họ thúc ép các chu kỳ của sự sống, lãng quên sự mệt mỏi của thân thể họ, giao hợp trong sự thánh thiện, không nghỉ ngơi, cả đêm lẫn ngày nếu phải thế, với điều kiện là cuối cùng phải cho ra được thứ gì đó. Những gia đình có cả tá con rất phổ biến. Những người phụ nữ nước mắt giàn giụa ra khỏi phòng xưng tội, sau khi bị trách mắng và bị gọi là những giáo dân tồi tệ vì chỉ sinh hạ cho đời bảy đứa con trong vòng mười ba năm kết hôn. Ngay khi trở về nhà, để chuộc tội, họ phải ép buộc người chồng bắt tay vào việc, và thật nhanh chóng. Bởi vì Chúa đang chờ đợi, còn Giáo hội thì đã quá sốt ruột. Phong tục cũng muốn rằng, để đảm bảo có sự tiếp nối, dòng họ phải dành ra một cậu trai để tham gia vào hàng ngũ và trở thành cha xứ. Cống phẩm cho giới tăng lữ, phần của Chúa.

Với tất cả những sự ngược đãi vẫn còn in hằn trong trí nhớ tập thể của những phụ nữ ấy, với tất cả những đứa trẻ được hoài thai sau cú đòn bằng thánh giá ấy, những thân thể bị tàn phá trước tuổi ấy, một mục sư như Johanes Hansen, người vốn ân cần, bao dung, lại còn đầy sức sống, từ một thời gian trở lại đây, khi trong đầu lúc nào cũng quay cuồng với cuộc đua của những chú ngựa nhỏ, chỉ có thể là người để họ yêu mến, đương nhiên.

Cuối hè, sự sa ngã của ông nhanh đến chóng mặt, và những khoản tiền thua cược ở Trois-Rivières cứ thế tăng lên sau mỗi tuần. Vị mục sư rơi vào vòng xoáy của kẻ thất bại, cái hố đen khắc nghiệt nuốt chửng kẻ đã mất quá nhiều nên không thể từ bỏ, và nhất là bởi vì, trong thâm tâm, ông vẫn tin chắc rằng vận may và lũ ngựa rốt cuộc sẽ lại xoay về đúng hướng. Thứ thần dược, món cocktail thảm họa.

Vào đầu tháng Chín, cha tôi thổ lộ những khó khăn của ông với tôi, và giải thích rằng ông sẽ phải vay một khoản ở Quỹ Desjardins để bù vào số tiền ông đã thậm thụt từ ngân sách hoạt động của nhà thờ và nhà mục sư. Điều ông không nói với tôi, đó là khoản tiền Quỹ cho ông vay cao hơn rất nhiều so với số tiền ông mắc nợ. Và chỗ dôi ra này, ông đã tính sẽ dùng để sửa chữa lỗi lầm, hoàn trả cho Giáo hội, cho ngân hàng, xóa hết tội lỗi rồi bắt đầu lại sự nghiệp của vị mục sư người Đan Mạch, không có ống nhòm, không mũ lưỡi trai, không điểm cược cũng không Tramadol nào nữa.

Theo một cách nào đó, có thể nói rằng cha tôi đã giữ được phân nửa các cam kết của ông. Ngay khi nhận được tấm séc, ông không bao giờ còn đặt chân đến bất kỳ trường đua ngựa nào nữa, và hoàn trả cho Giáo hội toàn bộ những gì ông đã biển thủ, không thiếu một xu. Vậy là trong vòng một ngày, Johanes Hansen đã rũ sạch nợ nần, tội lỗi, và chỉ còn là một trong số vô vàn con nợ của một trong 422 chi nhánh trực thuộc một thể chế ngân hàng vững chắc được Alphonse Desjardins thành lập từ năm 1900 và tạo ra khoản lợi nhuận trung bình trên một tỷ đô la mỗi năm.

Có lẽ chính sự ngây ngất trước những con số này mang lại cho Johanes cảm giác rằng đã đến lúc ông quay trở lại với thế giới của những người chiến thắng, thanh toán những khoản nợ, vặn cổ đám lãi suất. Để làm được điều ấy, ông chỉ cần thò tay vào túi, nơi khoản tiền vay dư ra đang cộm cả lên.

Một tối, ông khoác lên người bộ com lê màu xám, đóng cánh cửa nhà mục sư lại sau lưng, bước lên chiếc xe Bronco, rồi, giữa một trận mưa lá vàng mùa thu, ông lái xe đi rất lâu, cho đến khi nhìn thấy ánh đèn lấp lánh phát ra từ những tòa chung cư ở Montréal, hơi thở của chúng bốc lên thành những làn khói trắng chẳng khác nào đã là giữa mùa đông. Không, bởi vì ông đã thề với Đấng Sáng thế của mình, Johanes Hansen không đến trường đua, mà băng qua cầu Champlain, đi theo quốc lộ Bonaventure, rẽ phải về hướng đảo Notre-Dame nơi có một tòa nhà công nghiệp khiêm nhường đang chờ ông, với vài ánh đèn nhảy nhót phản chiếu trên mặt sông, như thể đang chờ đợi chính bản thân ông, vị mục sư nhỏ bé trong nhà thờ a-mi-ăng ở Thetford Mines. Cái kho hàng cũ được cải tạo thành sòng bạc này nằm cách vài trăm mét so với cái nơi chừng chục năm nữa sẽ trở thành casino khổng lồ của Montréal, len lỏi vào giữa cái vỏ ốc rồng của những căn lều cũ của Québec và Pháp, vốn được thiết kế phục vụ cho Triển lãm thế giới năm 1967.

Ở sòng “Moneymaker”, phải nói rằng ta còn cách rất xa sự hào nhoáng và giàu có ấy. Tuy nhiên, chính một tay cá cược ở Trois-Rivières đã khuyên cha tôi đến cái hang ổ này. Anh ta kể rằng vỏn vẹn trong một tối, anh ta đã thắng được số tiền đủ để mua một chiếc Mercury Marquis, chỉ với trò súc sắc.

Chừng mười lăm chiếc bàn kê nối tiếp nhau, với đủ các trò như cò quay, xì dách, súc sắc, một dãy máy đánh bạc, còn trong một phòng riêng là những tay chơi bài poker. Tổng cộng có khoảng một trăm năm mươi đến hai trăm người cả thảy, những bàn ghế hỗn tạp, những tay hồ lỳ thời vụ, những trang thiết bị hàng thùng, những ngọn đèn quá chói, thứ khói thuốc cay xè: tất cả đều ở đó, phối cảnh được sắp đặt hết sức tuyệt vời, những người đóng vai phụ đã sẵn sàng, chỉ còn thiếu vị mục sư ở Thetford Mines, người đàn ông Đan Mạch với đức tin nhỏ nhoi, người mà trong dịp này đã khoác lên mình bộ com lê tối màu vốn chỉ được dùng đến khi đi dự lễ an táng người chết.

Đàng Thánh Giá trải ra thành hai chặng, hai trạm dừng không thể tránh khỏi, dễ đoán, được miêu tả trong mọi cuốn sách dạy sinh tồn. Nó bắt đầu bằng sự êm ái của vận may, sự phỉnh nịnh của những kẻ làm kinh doanh, một phần thắng chẳng đáng là bao ở quầy cò quay, chỉ một cái bắt tay mang lại chút ít lòng tin. Rồi đến chiến thắng khiêm tốn thứ hai, gần như vô tình mà đạt được, nhưng giúp ta càng lúc càng cảm thấy dễ chịu hơn trong bộ trang phục đi dự lễ tang của mình. Để đến buổi tối cứu chuộc này, với tâm trạng tự tin đến lạ lùng, cha tôi đã mang theo toàn bộ số tiền vay mượn dư ra sau khi trả nợ. Một khoản khá lớn. Chỉ trong chưa đầy hai giờ đồng hồ kinh khủng, cái cơ chế chính xác của thất bại đã tỉ mẩn gặm nhấm khoản thừa ra hão huyền ấy cho đến đồng xu cuối cùng. Những con súc sắc cùng nhau tàn sát cha tôi. Hết lần đổ này đến lần đổ khác, những khối lập phương dừng lại ở mặt đen đủi, trò giải trí biến thành một trận đồ sát, và những đồng đô la mất hút vào một cái lỗ không đáy. Cuối cùng, thay vì ra về với một chiếc Mercury Marquis, cha tôi đành ngồi sau tay lái chiếc Bronco cũ kỹ mà rời sân khấu, thất thần, nhẵn túi, bơ phờ, ánh mắt mông lung như kẻ mất hồn, chỉ còn đủ khả năng lái xe đúng làn trên con đường trở về.

Theo đúng lô gic, hẳn là lý trí sẽ muốn rằng đây là chuyến đi cuối cùng, rằng cha tôi sẽ ở yên trong ngôi nhà của ông bên chân nhà thờ mà gặm nhấm những sai lầm mục vụ của mình rồi từ đó về sau chuyên tâm chiều chuộng lấy lòng những giáo dân người Anh, đánh bóng cây đàn B3, phủi bụi a-mi-ăng, trả tiền cho Desjardins, và nhất là không bao giờ lui tới bất kỳ sòng bạc hay trường đua ngựa nào nữa.

Ngày hôm sau cái ngày thất bại ấy, sau một chặng đường dài trong đêm đầy rẫy những ý nghĩ vụt lóe và mâu thuẫn, cha tôi đỗ chiếc xe Ford của ông dọc theo biển hiệu phớt xanh đầy chất lừa mị của “Moneymaker”. Trong cơn mất ngủ, khi những phân tử melatonin[4] thi nhau đào ngũ, ông đã xem xét, cân nhắc mọi điều. Buổi bình minh gợi ý cho ông giải pháp của cơ may cuối cùng, chắc hẳn là đầy rủi ro, nhưng ông dám chắc là đã phân tích tất cả các khả năng liên quan, giải pháp mang lại cho ông tỷ lệ vốn/rủi ro tốt nhất. Tất nhiên, toàn bộ chuyện này tuyệt đối chẳng dựa trên bất cứ thứ gì ngoại trừ một quá trình tự thuyết phục lâu dài mà nếu không có chúng thì có lẽ các sòng bạc đã biến mất từ rất lâu rồi. Mê tín giống y như tất cả những người chơi cá cược khác, ông đã để bộ com lê dự lễ tang lại nhà mục sư để xuất hiện trong một trang phục bớt phần bảo thủ, bộ trang phục mà ông thường sung sướng được diện lên người khi đến các trường đua.

Để thêm lửa cho buổi tối ấy, ông đã càn quét tất cả các thùng quyên góp của nhà thờ. Ở đây, ý tôi muốn nói rằng, lần thứ hai, ông đã biển thủ toàn bộ ngân sách hoạt động của giáo xứ, lấy cắp, bớt xén tất cả những khoản có thể lấy cắp hoặc bớt xén được.

Tự nhốt mình trong những ảo ảnh chiến lược, cha tôi buộc phải tuân theo một nghi thức có lẽ sẽ khiến bất kỳ tay chơi nào còn sở hữu dù chỉ một mẩu lý trí phải bỏ chạy: chia tổng số tiền ông đang có trong tay thành bốn phần bằng nhau để đặt cược vào bốn ô khác nhau, mỗi lần đều chọn màu đỏ hoặc màu đen và loại bỏ mọi cách kết hợp khác.

Hoặc Johanes sẽ thắng gấp đôi, hoặc ông sẽ mất hết. Ông đã chọn cách phó thác tương lai cho chiến thuật được ăn cả ngã về không, mặc dù, trong hoàn cảnh của ông, hy vọng tăng gấp đôi bất cứ khoản tiền nào cũng chỉ là mơ ước mà thôi.

Lúc 23 giờ 10 phút, ông đặt phần tư tiền đầu tiên vào ô đỏ, và để bắt đầu, ô đen đảm nhiệm việc phủ màu u tối lên các triển vọng của ông. Johanes đi đi lại lại vài bước trong phòng. Mười phút sau, ông khẳng định lại lựa chọn màu sắc ban đầu. Hòn bi xoay trên vòng tròn rồi, chẳng khác nào một con chim mồi, nó lao vào ô 29, có lẽ là ô đen nhất trong các ô đen. “Thật kỳ lạ là cha không hề sợ, cũng không thực sự nghi ngờ. Cha có niềm tin chắc chắn là toàn bộ cái thứ khốn nạn này sẽ chấm dứt, không thể nào khác được, mọi rủi ro rốt cuộc rồi sẽ phải tấn công cuộc sống của một kẻ khác và để cho cha yên, cha sẽ thoát khỏi chuyện này, đúng vào phút chót, giống như những gì đã đến với cha ở Trois-Rivières, trên đường về đích của lượt đua cuối cùng.”

Giống như tất cả các lần khác, người hồ lỳ có vẻ thực sự ngạc nhiên khi thấy số tiền cược lớn như thế, cũng như khi thấy cha tôi khăng khăng không chịu chia nhỏ nó ra để đặt cho nhiều cửa khác nhau, mà chỉ tập trung vào một niềm hy vọng giản dị đậm tính nhị nguyên.

Lúc 23 giờ 30 phút, đến lượt ô đỏ được chọn, nhưng ô đen mới là ô chiến thắng.

Lúc này, cha tôi đã bước vào chặng nước rút. Ông tin chắc mình đã có đầy đủ nguồn lực cần thiết để thu hẹp khoảng cách với đối thủ và vượt qua tất cả trên đường đua, giống như “Walter Season” trong cuộc đua cuối cùng mùa hè vừa rồi. Được tống vào cơ thể đủ loại hóa chất cả hợp pháp lẫn bất hợp pháp, con ngựa đã bứt lên, rút ngắn khoảng cách, vượt qua hết đầu ngựa nọ đến đầu ngựa kia, hết ức ngựa này đến ức ngựa khác, bọt mép trắng bay ra từ mõm nó trong cơn bừng bừng nỗ lực. Và nó kéo chiếc xe như nó vẫn kéo, không quan tâm đến cái gã mặc áo khoác kỵ sĩ có chấm bi ở đằng sau đang ngã té dúi dụi trên chiếc xe đua tưởng như chỉ chực cất cánh sau mỗi bước chạy. Tay nài ngựa la hét và vung roi quất nó, không biết rằng những cử chỉ của anh ta hoàn toàn vô ích, bởi vì con ngựa biết rất rõ nó phải làm gì: vượt qua tất cả, hết đối thủ này đến đối thủ khác, rồi ngẩng đầu thật thẳng, thật cao, đầy vẻ chiến thắng, cho bức ảnh về đích.

Tất cả những gì cha tôi học được từ “Walter Season” không thể cứu nổi ông đêm đó. Khoảng 23 giờ 45 phút, mọi thứ chấm dút. Tất cả những gì trong tưởng tượng của ông đều không xảy ra. Không có đảo ngược xu hướng, không có cú lật mặt thần sầu. Trên bức ảnh về đích, người ta chỉ thấy một vị mục sư rụt rè chọn ô đỏ và bàn tay của Chúa rõ ràng đã lăn hòn bi vào ô đen.

Vào cái khoảnh khắc con lăn ngừng quay, cha tôi trở thành một tay kẻ cắp hèn mọn người Đan Mạch, một thường trú nhân liên tục gây phiền hà chẳng bao lâu nữa sẽ bị giáo khu triệu tập và loại bỏ, rồi sớm bị ngân hàng đòi nợ, và không thể tránh khỏi kết cục là phải đối mặt với một trình tự tố tụng.

“Cha còn nhớ một điều kỳ lạ. Khi cha rời khỏi bàn chơi, một phụ nữ rất xinh đẹp đến bên cha rồi khoác tay cha. Bọn cha đi vài bước trong phòng. Vẫn trong cơn sốc vì các sự kiện vừa rồi, cha có cảm giác mình đang bồng bềnh trong một thế giới hoàn toàn xa lạ. Người phụ nữ ấy nói chuyện với cha, hỏi tên cha và muốn biết cha làm nghề gì. Cha trả lời rằng cha tên là Johanes Hansen và là mục sư ở Thetford Mines. Bà ấy liền đưa tay ôm lấy khuôn mặt cha, nhìn cha như thể cha là đứa trẻ mồ côi rồi hôn rất lâu lên môi cha. Cha vẫn đứng bất động, hai cánh tay buông thõng, hai mắt mở trừng trừng, cho đến khi bà ấy đứng cách ra một chút rồi bảo cha: ‘Cầu xin Chúa, nếu Người nhìn thấy ông, xin Người hãy ban phúc cho ông.’ Rồi sau đó, cha đảm bảo với con, cha không còn nhớ gì hết, cả việc cha rời khỏi ‘Moneymaker’ thế nào, rồi lấy xe để về nhà ra sao.”

Trong những ngày sau đó, ngoài chuỗi thảm kịch mà thất bại trên đảo Notre-Dame sẽ kéo theo, về buổi tối hôm ấy, cha tôi chỉ còn nhớ sự xuất hiện của người phụ nữ bí ẩn, người sẽ ám ảnh ông suốt cái đêm dài dằng dặc mà ông sắp phải trải qua.

Sáu tháng mà các đạo hữu dành cho ông để thanh toán nợ nần sẽ là một thời hạn quá ngắn ngủi, nhất là trong hoàn cảnh Quỹ Desjardins không cho ông vay thêm dù chỉ một đồng. Và bởi vì ông nhất quyết không chịu nghĩ đến việc nhờ vả dòng họ Hansen ở Skagen, cha tôi kết luận rằng ông chỉ còn cách ngồi trong nhà thờ hình con thuyền của mình mà chờ đến lúc bị sóng đánh chìm.

Trong suốt nhiều tuần, tôi ra sức xoay xở những mong tìm được một lối thoát khả dĩ cho tình cảnh ấy. Tôi tính toán những khoản tiết kiệm và dự định sẽ ký một hợp đồng vay nợ để giúp Johanes thoát khỏi đợt sóng nợ nần. Nhưng thế nước quá mạnh nên mấy dăm gỗ gầy guộc của tôi chẳng thể nào bít nổi những lỗ thủng trên thuyền.

Tôi đã hứa với cha là sẽ không bao giờ tiết lộ mức độ và số tiền mà ông đã để thua. Tất cả những gì tôi có thể nói, đó là chúng vượt quá rất nhiều lần so với lối sống của một vị mục sư.

Hai tháng sau khi thua bạc, cha tôi có đôi ba lần quay trở lại “Moneymaker” dù không có ý định đặt cược ở đó bất kỳ thứ gì nữa, mà chỉ hy vọng tìm lại được người phụ nữ đã đặt ông trở lại vào tay Chúa trước khi biến mất. Nhưng trong cái kho hàng ấy, cha tôi chỉ gặp toàn những người đàn ông giống như ông, những người đến đó để tìm kiếm thứ mà họ sẽ không bao giờ tìm thấy.

Chủ nhật hằng tuần, Johanes tiếp tục làm lễ như không có chuyện gì xảy ra, Gérard ngồi bên cây đàn organ Hammond, những giáo dân người Anh ngồi trên những băng ghế gỗ màu vàng. Từ khi biết mình bị kết án, cha tôi viết những bài thuyết giáo mà chưa có người nào ở nơi này từng được nghe trước đó. Những bài viết thậm chí vượt cả ra ngoài giới hạn của Giáo hội, bao trùm cả những biến cố trong số phận của chúng ta, đưa ta về đúng chỗ của mình trong cái nhà thổ lùng bùng của cuộc đời, ngang bằng với một cây thông hay một con heo vòi, những sinh linh ở trọ trong cùng một căn phòng, lo lắng về tương lai, ai nấy đều cố gắng tin vào lòng nhân từ của các vị thần thánh cho dù bản năng thì thầm với chúng ta điều ngược lại.

Lần đầu tiên kể từ thời thơ ấu, tôi thường xuyên quay trở lại nhà thờ để nghe cha thuyết giảng, để quan sát cái chủ nghĩa hoài nghi đang sượng sùng lớn dần lên trong cộng đồng người Anh bảo thủ khi đối diện với những phát biểu tự do này, tôi phải thừa nhận điều ấy.

Từ sau lần bị triệu tập đến Montréal và trước viễn cảnh sắp bị đình chỉ công việc, vị mục sư cảm thấy mình tự do, được giải thoát khỏi mọi giao kèo với cả Giáo hội lẫn Chúa trời, Người, theo một nghĩa nào đó, đã để mặc ông gục ngã vào thời điểm tồi tệ nhất: chặng nước rút của cuộc đua. Ông buông thả chính mình, hiến thân không chút dè dặt hay e sợ, tùy ý bàn luận về cây cối, con người, sinh vật, kể về cuộc sống của những ngư dân vùng Jutland, những dòng chảy ngược chỉ chực biến họ thành những cái xác không toàn thây, và những đàn cá ở khắp nơi, một ngày nào đó thân xác chúng sẽ phủ kín tháp chuông của nhà thờ bị vùi dưới cát. Có cảm giác như người đàn ông này vừa gieo mình từ nóc một tòa nhà và rồi trước mặt chúng tôi, ở đây, ông vẫn đứng, kể lại những cảnh tượng mà ông nhìn thấy trong cú rơi. Điều đáng ngạc nhiên nhất chính là, thường thì, những bản anh hùng ca ấy lại đưa những tín đồ đi vào thế giới của ông. Ai nấy dường như đều bị mê hoặc, ngoại trừ đám người Anh chết tiệt đó, rất có thể là thế.

Bài diễn thuyết của cha tôi vào ngày 14 tháng Ba năm 1982 cũng kỳ diệu và bay bổng giống như những bài trước đó. Hẳn là được cảnh báo bởi số ít người Anh trong hội về vị lãnh tụ dị giáo ở Thetford Mines, hơn nữa còn nhân sắp đến kỳ sa thải, một đại diện của giáo phận Montréal đã đích thân đến tận nơi để nắm bắt mức độ trệch đường. Khi rời đi, ông ta choáng váng, đầu tiên là vì những điều ông ta vừa nghe thấy, và tiếp đó là vì những gì ông ta được chứng kiến.

Chủ nhật ấy, bài thuyết giảng đề cập đến những gánh nặng và rắc rối được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác trong các gia đình, những chuyện mà chúng ta thường xuyên lờ đi nhưng vẫn phải tiếp nhận, những chuyện mà chúng ta phải mang theo rồi khiến chúng phình to hơn bằng những phiền muộn của chính mình trước khi quẳng lại cho thế hệ tiếp theo trong gia đình. Và tất cả những thứ đó kêu leng keng trong sự nhập nhằng và hỗn độn nảy sinh từ những cơn sốt sắng liên quan đến tổ tiên, ta có cảm giác rằng chúng đang giúp họ thanh toán mọi nợ nần, quả thực là thế.

“Cuối cùng, cha muốn nói với các con điều này. Có lẽ đây là một trong những lần cuối cùng cha nói chuyện với các con. Cha đến Thetford Mines này là bởi vì, ở nơi khác, người ta không còn muốn dùng cha nữa. Và cha sẽ rời khỏi thành phố này mà ra đi cũng bởi cùng lý do đó. Hai lần cha phạm lỗi. Hai lần cha bị xua đuổi. Rồi các con sẽ được biết những điều khá tệ hại về cha, hẳn là thế. Những điều ấy đều đúng cả. Và một lần nữa, cha sẽ chẳng thể nói gì để tự bào chữa. Nhưng các con hãy hiểu cho rằng trong suốt những năm tháng sống ở đây, cha vẫn luôn hành xử như một nhân viên tận tụy và trung thực. Cho dù hôm nay những tính từ này hẳn có vẻ khá lạ lùng. Cho dù từ lâu đức tin đã rời bỏ cha. Cho dù cầu nguyện, đối với cha, đã thành một việc bất khả. Không bao lâu nữa, các con sẽ có tha hồ thời gian và được tùy ý trong việc phán xét và kết tội cha. Cha xin đề nghị các con hãy ghi nhớ trong tâm trí câu nói hết sức giản dị mà cha học được từ cha của mình, câu nói mà ông ấy dùng để giảm nhẹ lỗi lầm của mỗi người: ‘Không ai sống giống ai trong cuộc đời này.’ Cầu Chúa, nếu Người thấy các con, hãy ban phúc cho các con.”

Hai đầu gối của vị mục sư thoáng sụm xuống, đôi bàn tay ông bấu chặt lấy mép bục. Gérard, vốn vẫn luôn là đối tác trung thành, bắt đầu một khúc dạo mà cha tôi cùng ông đã chọn, và dàn loa Leslie choàng đôi cánh âm nhạc của nó lên tất cả những con người thiện chí.

Johanes nhìn khắp phòng như để tìm kiếm một người bạn giữa đám đông xa lạ. Ông hé miệng, như thể ông đã quên nói với chúng tôi điều gì đó, như thể một nhúm từ ngữ vẫn muốn thoát ra, rồi hai bàn tay ông trượt trên vách núi của thế giới, đôi chân ông từ bỏ và cha tôi ngã vật xuống.

Cả nhà thờ hít vào sửng sốt. Gérard LeBlond bỏ mặc những nốt nhạc, lao về phía cha tôi. Và cây đàn organ ngừng chơi.

***Line Note Zone***

Chú thích;

[1] Ở đây, tác giả sử dụng biện pháp chơi chữ. “Jésuite” trong tiếng Pháp vừa có nghĩa là “thầy tu dòng Tên”, vừa có nghĩa là “kẻ đạo đức giả”.

[2] Tên đầy đủ của bài thánh ca này là Nearer, My God, to Thee, tạm dịch là “Càng gần Chúa hơn.”

[3] Tiếng Anh trong nguyên bản, tạm dịch là Giáo hội trưởng lão Québec và Sherbrooke thuộc Hội đồng Montréal và Ottaw thuộc Giáo hội Giám lý Canada.

[4] Loại hoóc môn có tác dụng điều hòa chu kỳ thức-ngủ ở con người.