7. Montréal, QC
Vị mục sư của Thetford Mines rời thành phố này bằng đường bộ, trong một chiếc xe hòm tang lễ. Ông được đưa đến sân bay Dorval, bỏ vào trong một quan tài có niêm phong rồi đáp một chuyến bay của Swissair đến Copenhagen quá cảnh Genève. Tại Đan Mạch, một chiếc xe chuyên dụng khác đưa ông đến tận Skagen, ở đó, trước sự hiện diện của những người thân thích, với chiếc ống nhòm đặt bên cạnh và chiếc mũ lưỡi trai sáu múi mà tôi đã đội vào đầu cho ông, cha tôi biến mất trong lòng đất, bị vùi dưới những lớp cát trong cái nghĩa trang nơi gió không ngừng thổi thốc từng đợt.
Mẹ tôi, được tôi thông báo, đã đến dự lễ tang. Bà góa phụ hờ thanh lịch được dòng họ tiếp đón chẳng khác nào những ngày tươi đẹp xưa kia. Khi chiếc quan tài đựng Johanes biến mất trong lòng đất giữa tiếng ngân của những chiếc chuông cũ kỹ ở nhà thờ, bà lấy ra một khăn giấy nhỏ và lau khóe mắt hoàn toàn khô khốc. Bà choàng vai tôi và nói chuyện cùng tôi vẫn với thái độ xa cách mà bà đã để xen vào giữa chúng tôi từ lâu. Chẳng khác nào ta cùng một người cô họ xa nói về cái chết của một người bạn chung thuở xưa. Không còn cha, không còn mẹ, không còn con, mà chỉ là hai con người trưởng thành bước đi giữa những ngôi mộ và nhớ đến cái chết của một người thứ ba từng là người thân thích trước đây, cũng với cái cách mà người ta nói về một thiệt hại liên đới không thể tránh khỏi trong cuộc sống.
Cả mẹ tôi lẫn dòng họ Hansen đều không bao giờ biết được hai năm cuối đời của Johanes đã diễn ra thế nào. Chẳng có lý do gì để họ biết chuyện cả. Một người thì trở về Genève, những người khác quay lại với lũ cá còn tôi hướng đến những gì mà tôi hy vọng là một cuộc sống mới thứ hai.
Theo yêu cầu của giáo phận Montréal, người ta không tổ chức bất kỳ lễ thánh hay nghi thức nào để tưởng nhớ mục sư Hansen. Các tài khoản của ngân hàng và giáo hội đồng loạt gạch bỏ hoàn toàn những khoản nợ của vị mục sư, còn đám người Anh thì đổi sang giáo phận khác trong lúc chờ bổ nhiệm một chủ lễ mới. Về phần Gérard, vì tình yêu với món nhạc cụ nhưng cũng để tưởng nhớ cha tôi, ông mua lại từ giáo phận, họ không chờ ông phải nài nỉ mà đồng ý bán luôn, cây đàn B3 Hammond, bộ pê đan cùng bộ phận không thể tách rời của chúng là dàn loa Leslie, và có lẽ là tới tận ngày nay, từ phía Sherbrooke, dàn loa này vẫn tiếp tục phát ra những loạt hợp âm quãng bảy hoặc quãng chín. Trong vòng vài năm, Gérard LeBlond và tôi - lúc này đã sống ở Montréal - vẫn giữ liên hệ với nhau qua điện thoại, kể cho nhau nghe về những bước mò mẫm trong cuộc sống của mỗi người. Một ngày, ông thông báo với tôi rằng vị mục sư mới được bổ nhiệm thay thế cho Johanes chỉ thu hút được một nhúm tín đồ cao tuổi. Những tín đồ mà, theo cách diễn đạt của ông, dẫu thế nào “vẫn sẽ đến nhà thờ cho dù người ta có đặt một con hải ly phía sau bục thuyết giảng”. Vài năm sau, Gérard gọi điện thoại cho tôi vào khoảng 23 giờ, vì quá đỗi nôn nóng muốn tiết lộ với tôi những điều ông vừa biết được. Nhà thờ Thetford Mines đã bị đóng cửa một năm trước do đám người Anh không đến nữa, rồi, theo đúng số phận cái rạp chiếu phim của mẹ tôi, nó bị rao bán thông qua một văn phòng bất động sản, và nhanh chóng được mua lại, cùng với căn nhà mục sư, để biến thành nhà ở. “Nếu cha cháu chứng kiến chuyện này, hãy tin ta đi, có lẽ ông ấy sẽ không tiếc nuối tất cả những buổi chiều mà ông ấy đã trải qua ở trường đua. Một ngày gần đây thôi, ta sẽ đi một chuyến đến đó, ta sẽ kể cho cháu biết nơi ấy bây giờ ra sao.” Tôi không biết thêm tin tức gì từ Gérard nữa, tôi nghĩ mình có thể đoán được lý do, và cũng không bao giờ quay trở lại Thetford Mines. Tôi chỉ hy vọng rằng những khách thuê nhà mới vẫn giữ lại mái vòm và bộ khung trong chiếc thuyền mới của họ, nơi giọng nói của cha tôi vẫn còn vang vọng rất lâu.
Sau khi vị mục sư qua đời, tôi cũng thôi việc ở công ty DuLaurier. Ông chủ tổ chức một bữa tiệc nhỏ để chia tay tôi. Nhân dịp ấy, cứ như thể ông có tài đọc trước tương lai, Pierre tha thiết muốn tặng tôi một thùng đồ nghề đầy đủ mọi loại mỹ vị cho một tay thợ cũng như một loạt những thiết bị điện để cưa, mài, cắt, khoan, đập. “Bác không biết sau này cháu sẽ làm gì, nhưng với thứ này và những gì cháu đã học được cùng với bọn bác, cháu sẽ có phương tiện để kiếm sống và thoát khỏi những rắc rối của bản thân. Chúc cháu may mắn, con trai ạ.” Đã lâu lắm rồi không có ai gọi tôi là con trai. Tôi chất đống toàn bộ mớ trang thiết bị này cùng vài món đồ cá nhân vào chiếc Honda Civic nhỏ bé dài 3,54 mét nhẹ bẫng như một cọng lông, và lên đường đến thành phố, nhắm thẳng hướng Montréal, QC mà tiến.
Trong tù, chúng tôi hiếm khi tâm sự và rất ít nói về gia đình mình. Patrick chỉ kể vắn tắt về người thân của gã có vài lần, nhưng tôi đã hiểu ngay rằng nhắc đến những năm tháng tuổi trẻ khi còn sống với gia đình là việc khiến gã cảm thấy khó chịu. Về phần mình, tôi cũng không kể gì nhiều. Về mẹ tôi, tôi chỉ nói với gã rằng bà là một phụ nữ rất hiện đại, hiếu chiến và có nhan sắc ngoạn mục. “Này anh bạn, đấy là mẹ mày đấy. Chẳng ai nói thế về mẹ mình cả, nghe tởm lắm, mẹ kiếp. ‘Nhan sắc ngoạn mục’, mày nghe rõ chứ? Cứ như là mày đang nói về một ả hầu bàn ở Laval. Khi mày nói thế, tao khỏi cần nói thì mày cũng biết kẻ khác lập tức tưởng tượng ra thứ gì trong đầu. Không đâu anh bạn ạ, mẹ mày là mẹ mày, thế thôi.”
Trong một dịp khác, tôi nhắc đến các tổ tiên người Đan Mạch của cha tôi cùng với nghề mục sư mà ông đảm nhiệm cho đến lúc chết. Sai lầm này khiến tôi nhận thêm một bài học nữa về cách hành xử. “Mẹ kiếp, mày là con trai mục sư. Ái chà, tin nóng hổi đấy. Chuyện này thật quá đỗi kỳ quặc, không phải sao? Ông già mày làm gì suốt cả ngày, hả, bởi vì lễ mi xa và tất cả những thứ khác chỉ có vào ngày Chủ nhật thôi mà. Tao không thể hình dung xem con trai của một cha xứ kiểu ấy thì thế nào, không, chuyện này quá là kỳ quặc. Thế chính ông mục sư ấy là người từng sống với cái ‘nhan sắc ngoạn mục’ kia hay sao? Cả chuyện này nữa anh bạn ạ, nghe tởm lắm. Tao biết là các mục sư có quyền làm thế, nhưng mà mẹ kiếp, dù sao, với mẹ mày, như mày đã kể với tao, thì, dù sao nghe cũng thật tởm, anh bạn ạ, tởm quá. Xin lỗi, nhưng người Công giáo bọn tao không quen với chuyện ấy. Ở chỗ chùng tao, chẳng ai ngủ với ai cả. Các cha xứ chẳng có quyền gì hết. Kể cả thỉnh thoảng tự sờ nắn tí chút cũng không. Chính thức mà nói ấy, tất nhiên. Trong khi đằng này, cha mày làm thế với bà mẹ ngoạn mục của mày ngay trước khi đến nhà thờ, tao xin lỗi lần nữa, nhưng tao thấy thế tởm quá.” Chúng tôi chấm dứt ở đó, và những biến cố gia đình hoặc những công trạng so sánh giữa các lễ nghi Công giáo hoặc Tin lành vĩnh viễn bị loại bỏ khỏi cuộc sống chung của chúng tôi.
Hôm nay, Patrick có vẻ rất căng thẳng. Gã vừa nhận một bức thư từ người mẹ không ngoạn mục thông báo với gã rằng chiều nay bà sẽ đến phòng thăm thân gặp gã. Để chuẩn bị cho dịp này, gã đã cẩn thận cạo râu thật kỹ và tìm một bộ quần áo không quá nhàu nát, một thứ của hiếm trong cái xà lim có kích thước như xà lim của chúng tôi, do hai người đàn ông rưỡi cai quản. Tôi cũng thấy gã cẩn thận dùng lược chải đầu lần đầu tiên kể từ khi chúng tôi bị giam chung với nhau. Cứ như thể một gã trai trẻ sửa soạn cho cuộc hẹn hò đầu tiên. Gã căng thẳng. Gã chờ đợi ngay từ khi nhận được bức thư. Gã lập tức trở lại là đứa con trai của ông thầy giáo yêu quý con cái của những người khác, đứa con trai của vợ ông ta, mà ông ta đã không còn đến thăm từ rất lâu rồi, đứa con trai mà người ta hứa hẹn là sẽ cho ăn ngay một gậy nếu vứt bừa cây gậy khúc côn cầu trước cửa ra vào. Một phần nào đó trong gã cảm nhận được rằng người mẹ ấy yêu gã, cho dù bà chẳng để lộ chút tình yêu nào. Nếu không, tại sao bà lại phải lặn lội từ xa như thế đến đây, ngày hôm nay, đến cái nhà tù tai tiếng này, đến cái phòng thăm thân đáng sợ này? Tất nhiên là bà từng yêu gã, ngay cả khi gã làm những chuyện ngu ngốc và ngay cả khi ông thầy giáo đánh đập gã trong phòng riêng. Sở dĩ bà không bảo vệ gã, bởi vì gã là kẻ không thể bảo vệ, và dù sao đi chăng nữa có lẽ chồng bà cũng sẽ không chịu đựng nổi việc bà bảo vệ gã. Bà kín đáo chờ đến khi ông ta biến mất rồi mới bắt đầu sống, rồi mới bắt đầu choàng tay ôm từng đứa con và xin lỗi chúng. “Cái áo sơ mi màu hạt dẻ này có hợp với cái quần màu xanh của tao không, hay tao nên mặc cái màu xám? Sống mãi ở đây, đâm ra tao chẳng còn biết phải ăn mặc như thế nào nữa.” Gã lưỡng lự. Gã tự hỏi mẹ sẽ nghĩ thế nào. Liệu bà có phán xét gã thông qua vẻ bề ngoài, hay sẽ chấp nhận gã đúng như con người gã, một kẻ vô lại và ưa bạo lực, nhưng là cốt nhục của bà, được tượng hình một cách vội vàng từ thứ chất dịch của ông thầy giáo, vào một tối mà ý tưởng đó vụt thoáng qua trong đầu ông ta. Patrick vô cùng đáng thương. Tôi hy vọng rằng mẹ gã sẽ đối xử tốt với gã.
Việc tôi chuyển đến Montréal trùng hợp với việc tôi được triệu tập đến buổi lễ chính thức để trao quốc tịch Canada, chỉ cách nhau chừng vài ngày. Gần năm năm chờ đợi để nhận được quốc tịch thứ hai này. Khoảng một trăm người đến từ khắp nơi trên thế giới tập trung trong một căn phòng dành riêng cho buổi lễ, hai lá cờ Canada, một cảnh sát mặc lễ phục, một nữ chủ tọa mặc áo choàng lễ, một lục sự đeo chuỗi vòng cổ nặng trịch kết bằng những sợi dây xích mạ vàng, từng người được trao chứng nhận quốc tịch Canada, ai nấy đều được nghe cùng những lời nồng nhiệt: “Chào mừng đến với đại gia đình Canada.” Sau đó, mọi người đứng dậy để hát Ô Canada, bài quốc ca được sáng tác dựa trên một bài thơ của Phó Tổng đốc Théodore Robitaille và do Guillaume Ouelle phổ nhạc.
Tôi băng ngang công viên Jeanne-Mance, đi bộ trên phố Saint-Urbain, quảng trường Nghệ thuật, tôi gọi một cốc sô cô la ở quán Café 87, chẳng có gì thực sự thay đổi; chỉ có điều, tôi đã trở thành công dân Canada. Với tấm chứng chỉ mới tinh trong túi, từ nay trở đi, tôi có thể khoe khoang rằng mình là người Pháp-Canada, con trai của một người Đan Mạch ở Skagen. Khi ký tên vào tờ khế ước thuê nhà, lần đầu tiên tôi tự chọn tên ngôi nhà mới của mình. Với tôi, đó là một trải nghiệm chưa từng có. Còn về Ô Canada, ca khúc đầy rẫy những thói nệ đạo chiến tranh - “Vì cánh tay ta can trường biết cầm thanh kiếm / Cánh tay ấy biết mang cây thánh giá”, được thêu dệt bằng những vần thơ con cóc viết ra giữa hai loạt bia, nó cũng chẳng đáng giá gì hơn bài Marseillaise kinh khủng và đáng sợ của đất nước quê hương tôi. Tôi biết rằng một người Pháp-Canada tự tôn và khao khát chút yên ổn cùng phẩm cách trên mảnh đất này lẽ ra không bao giờ nên nói - và thậm chí là không bao giờ nên nghĩ - những điều tôi sắp viết ra đây: liên quan đến quốc ca, không gì có thể sánh nổi God Save the Queen, bởi lẽ cho dù được cử lên ở bất kỳ đâu và vì bất kỳ lý do gì, ca khúc này luôn khiến mỗi người cảm thấy tiếc nuối vì mình không phải là người Anh.
Tôi thích Montréal. Đó là một thành phố thủy khí động, tiện nghi, một trong những thành phố hiếm hoi trên thế giới mang lại cho ta cảm giác những thăng trầm, những cú sốc trong cuộc sống được giảm bớt, nỗi bất hạnh có thể được nuốt trôi hoặc xoa nhẵn. Ở đây có núi, có hồ, có công viên, có dòng sông và tiếng xào xạc của cả một tổ ong người góp sức mình vào một công trình chắp vá cứ đến tối lại chậm rãi tản ra để quay trở về những lỗ tổ ong sáng rực trong những tòa chung cư cao tầng. Tôi len lỏi giữa cái nơi đầy tiếng vo vo ấy không chút khó khăn, đầu tiên là với tư cách nhân viên bán hàng cho cửa hàng ngũ kim Rona nằm trên phố Notre-Dame, một thiên đường thực sự của mọi vật, của đồ đạc, khu vườn địa đàng của công cụ, của phụ kiện, nơi ta len lỏi giữa những giá hàng cao chất ngất và luôn kết thúc bằng việc bắt gặp món hàng mà ta không thể tưởng tượng ra. Sau đó là ở Loblaws, một cửa hàng đa dụng bán thực phẩm và các sản phẩm tiêu dùng hằng ngày, nơi người ta yêu cầu tôi lo việc chất rau củ lên một kệ hàng vừa lấy thẳng từ xưởng của một tay thợ đánh véc ni. Và cuối cùng là Canadian Tire trên đại lộ Saint-Laurent, cửa hàng cung cấp phụ kiện đồng thời cung cấp cả dịch vụ sửa chữa những sai hỏng thường gặp ở xe hơi. Và thế là, suốt gần một năm, đứng ở quầy của mình trong xưởng, tôi đã thay những bộ lọc, những bu gi, và thau súc everything on wheels[1] theo đúng như câu quảng cáo trên biển hiệu. Tám xe mỗi ngày. Gần 160 xe mỗi tháng. Khoảng chừng 1.600 xe mỗi năm.
Tra dầu xe không phải là một nghề. Chẳng ai có thể dành hết ngày này đến ngày khác để ca ngợi chất lượng dầu nhờn của Valvoline Motor Oil, Amazon Basics, Pennzoil, Royal Purple Synthetic, Amsoil hay Quaker State Oil. Tôi phát hiện ra rằng trong lĩnh vực này, có một tầng lớp khách hàng bị ám ảnh cưỡng chế, gắn bó với các loại dầu nhờn bằng những mối liên hệ kỳ lạ, gần như tình cảm. Ta có thể nghĩ rằng những người đàn ông này, do dòng đời xô đẩy, có lẽ sẽ tỏ ra trung thành với những bình hydrocarbon tinh chế và đầy chất phụ gia này hơn là với người phụ nữ đã kiên nhẫn nhìn họ già đi và lắng nghe họ kể đi kể lại câu chuyện về những chiếc xe luôn tiêu thụ hơn mức lẽ ra chúng nên tiêu thụ.
Tôi rời khỏi thế giới của dầu nhớt và săm lốp tám ngày sau sinh nhật lần thứ ba mươi. Hồi ấy tôi sống trong căn hộ một phòng trên phố Clark, đối diện khu Little Italy và cách công viên Jarry chừng vài bước chân. Người gác cổng của tòa nhà có lẽ là một trong những người lạ lùng và thú vị nhất ở thành phố này, và tôi vô cùng cảm mến ông. Trong những giờ làm việc, mùa hè cũng như mùa đông, ông luôn ăn mặc theo một phong cách bất biến: giày có phần mũi được gia cố, tất len kéo cao lên đến bắp chân, quần soóc có túi ốp ngang, áo có mũ trùm màu đen và áo vest màu sô cô la có phù hiệu của UPS[2]. Phải chẳng suốt cuộc đời ông luôn mơ đến việc đi khắp thành phố để phục vụ cho công ty ấy? Chỉ biết rằng lúc nào ông cũng đeo huy hiệu và diện bộ trang phục lố lăng của họ. Ngoài ra, khi đi đi lại lại khắp các hành lang trong tòa nhà, ông luôn bắt chước y hệt tất cả các loại âm thanh của cuộc sống hiện đại, cuộc sống gia đình. Ông vừa lau cánh cửa thang máy vừa rung lắc như một cái máy xay sinh tố, vừa rửa các ô kính vừa bắt chước âm thanh của chiếc máy hút bụi mà ông vận hành với tốc độ chẳng kém gì một chiếc xe đua công thức 1, khiến những cánh cửa được tra dầu hoàn hảo kêu lên ken két. Khi trời sập tối còn ông thì ngồi trên bậc tam cấp của tòa nhà hút một điếu thuốc, ông giả tiếng động cơ diesel của một con tàu đánh cá đang rời bến. Trong những màn biểu diễn ấy, Sergei Bubka đơn độc trên đời, không tìm cách mua vui hay gây khó chịu cho bất cứ ai. Khi rời xa khỏi bờ giữa lúc thủy triều dâng, ông chỉ đơn giản là đang đứng trước bánh lái của con tàu đánh cá bằng lưới, được ru vỗ trong tiếng ầm ì của động cơ Perkins. Theo cách riêng, ông xây dựng thế giới của mình, lồng tiếng cho dòng suy nghĩ riêng tư giống như những đứa trẻ vừa đẩy chiếc xe đồ chơi Dinky trên quốc lộ trong phòng khách vừa nổ máy bằng miệng. Tôi rất ăn ý với Sergei Bubka. Khi tôi về nhà, thỉnh thoảng ông có mặt trong sảnh. “Tối nay cháu muốn gì?” ông hỏi. Tôi trả lời: “Những cánh cửa tàu điện mở ra rồi đóng lại.” Chỉ giây sau, tiếng còi vang lên và tôi bước vào toa tàu. Thế đấy.
Tôi nợ Bubka rất nhiều. Chính ông là người phóng đẩy tôi vào chặng đời mới của mình. Lần này, thậm chí ông còn không bắt chước âm thanh cái bắt tay của nhà tuyển dụng, mà giới thiệu luôn tôi với Noël Alexandre, trưởng ban quản trị của tòa L’Excelsior, nằm trong khu phố Ahuntsic, không xa công viên cùng tên là bao. Trước đấy, thỉnh thoảng tôi có xử lý vài vấn đề vặt vãnh về điện và thiết bị vệ sinh mà Sergei vấp phải. Việc đó khiến ông vô cùng ngưỡng mộ và mang ơn tôi. Vì thế, khi Alexandre, người từng sống ở đây, thổ lộ trong lần tình cờ gặp mặt rằng ông ấy đang tìm một người gác cổng mới để thay thế cho người gác cổng hiện tại không làm được việc, Bubka chỉ nói: “Tôi quen một người như ông đang cần đấy.” “Cháu có biết ông Alexandre trả lời bác thế nào không? Ông ấy bảo bác: ‘Bảo anh ta đến chỗ tôi.’ Rồi ông ấy nói thêm: ‘Anh ta cũng biết giả tiếng động chứ?’ Bác rất quý ông Alexandre, đấy là một quý ông lớn tuổi rất đáng kính.”
Một tháng sau, tôi dọn đến L’Excelsior, một con tàu chở khách khổng lồ có phòng máy riêng cùng cuộc sống nội tâm phức tạp, một bể bơi rộng mênh mông, khu vườn lộng lẫy, và nhất là sáu mươi tám cabin xếp chồng trên sáu boong. Một trong số đó, hẳn là cabin ít người thèm muốn nhất, được dành cho tôi, ở tầng trệt. Tôi được tuyển dụng với tư cách quản gia, với lời hứa sẽ được nâng cấp lên thành quản lý chung nếu sau ba năm làm việc, tôi khiến các chủ nhà hài lòng. Và thế là, không những không khoác lên mình bộ trang phục của thuyền trưởng, tôi mặc vào người bộ đồng phục kaki dành cho quản gia của L’Excelsior.
Năm đầu tiên của tôi ở đây đúng là một cơn ác mộng liên miên. Tôi phải chiến đấu chống lại nỗi mệt mỏi, sự chán nản và bóng tối. Ngập đầu trong những công việc chung, những yêu cầu riêng, những sự cố, công việc bảo trì hằng ngày tăng thêm gấp bội do mùa đông khắc nghiệt, đã rất nhiều lần tôi suýt xin thôi việc. Tôi sụt chín cân trong năm đầu tiên. Và cứ hai đêm thì mất ngủ một đêm. Lúc nào tôi cũng như đang sống trong bụng của một con quái vật. Sau sáu tháng, tôi không còn đủ khả năng để gán một cái tên vào khuôn mặt của các cư dân mà tôi gặp trong các khoảng không gian chung của tòa nhà.
Horton đã ngàn lần có lý khi châm biếm thời gian biểu của cha tôi. Về cường độ, mức độ tập trung, công việc, mức độ mệt mỏi, thì duy trì một nhà thờ, vận hành nó một cách trơn tru, tăng giảm âm thanh của dàn loa Leslie và chấn chỉnh những sai lầm của đám người Anh mỗi tuần một lần quả thực là một cuộc chơi, một hoạt động giải trí, một công việc để giết thời gian. Nghĩ lại mới thấy tôi chưa từng nghe cha than thở điều gì cho đến tận thời kỳ ông chạy từ trường đua ngựa đến các bàn đổ súc sắc. Những giờ cầm lái ban đêm, nỗi lo ngại trước những khoản nợ mỗi ngày một tăng thêm, nỗi sợ hãi khi nghĩ rằng toàn bộ cái mảng thầm kín này của cuộc đời ông sẽ bị phơi ra giữa thanh thiên bạch nhật khiến ông đau khổ thực sự. Nhưng trước đó, trong suốt những năm tháng khi các bà cho thuê ghế trong nhà thờ còn xoay vòng quanh ông, tôi vẫn luôn thấy ông tràn trề sức sống, đầy nhiệt huyết và tươi tắn, tươi tắn như một đóa hồng.
Ở đây, với mớ gai dựng đứng chẳng khác nào những mũi dao găm, những cây hoa hồng chờ đợi tôi trong vườn, và tôi phải xử lý chúng, phải cắt tỉa chúng đúng mùa, cắt vát, lúc nào cũng để lại ba cái chồi trên những nhánh yếu. Và bọc kín chúng để chống chọi với mùa đông. Rồi chăm lo cho những cây cơm cháy, cây sương mai, thông bá hương Himalaya, cẩm tú cầu, thu gom lá phong rụng từng đống vào mùa thu. Rồi thảm cỏ lúc nào cũng khát vào mùa hè, phải giữ cho nó xanh mướt hoàn hảo, và “cắt ngắn” nhưng “cũng không được trụi quá”. Rồi bể bơi nơi tôi suýt chết đuối mấy lần, không thể duy trì sự cân bằng của 230.000 lít nước chỉ mong tôi lăn đùng ra ngất khi thấy độ pH của chúng sụt giảm, hoặc hiến mình cho những sinh vật ngoại lai bằng cách rước đến cả đội quân tảo, biến bể bơi thành một bể chứa lớn của xưởng bơ sữa hoặc ngược lại, mang lại cho nó những màu sắc không mấy hấp dẫn của món rau chân vịt, tùy từng thể trạng. Trước khi bể bơi được xử lý bằng muối, tôi ra sức đánh vật với chlore bốn tác động, pH+ và những bi đông nước tạo bông để đẩy nhanh quá trình kết tủa toàn bộ những thứ bẩn thỉu xuống đáy bể rồi sau đó tôi phải hút lên và đổ ra cống. Ngoài việc phải tốn cả mớ chi phí, thì đây là một công việc kéo dài đến dai dẳng, bị giám sát chặt chẽ và tuân theo nhịp điệu nỗi sốt ruột của các chủ nhà bó chặt mình trong những bộ đồ bơi. Lũ vi sinh vật này ngốn ngấu cuộc đời tôi và đôi khi chúng buộc tôi nửa đêm cũng phải mò đến túc trực bên bờ bể bơi để xem xét mức độ thiệt hại, trước khi các chủ nhà thức dậy và phát hiện ra thảm cảnh. Cho đến khi đám nước giải trí này được xử lý bằng muối và lúc nào cũng duy trì ở mức 28 độ C nhờ một hệ thống đun nóng bằng điện từ cuối tháng Tư đến giữa tháng Mười, vào mùa thời tiết đẹp, tôi thường xuyên sống với 230.000 lít nước đung đưa bên trên giấc ngủ, có thể phá vỡ hòa ước bất cứ lúc nào để nhấn chìm tôi trong nỗi hổ thẹn.
Đã hơn một lần tôi rơi vào tình cảnh phải xuất hiện trước cửa căn hộ của Noël Alexandre để thú nhận rằng tôi đã thất bại, trong tư thế bi thiết của một tay thầy ký ăn năn: “Đêm qua, tôi đã thất bại.” Alexandre liền quay sang nói với bà vợ: “Chúng ta thất bại rồi.” Chưa đầy một giờ sau, mọi cư dân đều có mặt trên ban công, chằm chằm nhìn vào thảm họa, nhắc đi nhắc lại rằng đương nhiên, chúng ta thất bại rồi.
Đúng thế, suốt một thời gian dài, cái bể bơi ấy là nguồn cơn của những lo âu và phiền muộn bất tận trong tôi. Lại càng lạ lùng hơn khi mà chính nó, nhiều năm về sau, cũng là nguyên nhân khiến tôi bị sa thải, và theo luật nhân quả, khiến tôi bị bỏ tù - nhưng lần này là vì những lý do chẳng liên quan gì đến độ pH của nó.
Ngoài ra, tất cả những hoạt động rắc rối vốn là đặc trưng của cái bể bơi này không biến mất khi những ngày đẹp trời chấm dứt. Bởi vì ngay từ lúc thu sang, bắt đầu các quy trình thau rửa, 230 mét khối nước trong lòng bể được tống khứ qua miệng cống để tránh tình trạng đến giữa mùa đông, nước đóng băng làm nứt gạch và hệ thống đường ống. Mặc dù đây là công việc không thể không làm, nhưng chưa khi nào tôi bắt tay khởi đầu cái nghi thức này mà không cảm thấy một nỗi hổ thẹn thực sự cùng cảm giác mình đang thực hiện một hành động tồi tệ. 230.000 lít nước được mơn trớn bằng chlore, rồi sau này, kỳ cọ bằng muối, đun nóng suốt gần sáu tháng ở một mức nhiệt để phần lớn cư dân đều có thể thực hành kỹ thuật bơi nghiêng mà không phải rùng mình, thế rồi đùng một cái, giật van xả và tống khứ thứ nước triều tinh khiết từ cái đại dương nhỏ bé nơi đô thị này vào những miệng cống.
Giai đoạn hai trong quá trình ngủ đông đòi hỏi phải dùng một máy nén khí để tháo rửa tất cả các đường ống lọc, đường ống hút cao và thấp, đường ống nén, đồng thời ngắt hoạt động của hệ thống đun nóng nước. Sau đó, chỉ còn phải chờ tuyết rơi và phủ một lớp lãng quên lên cái lỗ hồng màu xanh da trời ấy cho đến tận năm sau.
Sau thời gian học việc ban đầu đó, tôi rút ra được một bài học vô cùng đơn giản: các tòa chung cư thường giống những người sống ở đó và muốn rằng ta cũng phải giống họ.
Có vô vàn cách thức để phá hỏng cuộc đời mình. Ông ngoại tôi chọn một chiếc DS19 Citroën. Cha tôi chọn kênh tăng lữ. Về phần mình, tôi ưa bước vào cái tu viện thế tục này, cái nơi chịu trách nhiệm điều tiết mỗi ngày của tôi theo lịch trình mượt mà của các giờ. Ngoại trừ những sự cố và những trường hợp khẩn cấp bất ngờ, thời gian biểu của tôi ngày nào cũng giống hệt nhau. Buổi sáng, tôi bắt đầu bằng việc đi một vòng khắp các hành lang tòa nhà để kiểm tra tình trạng vệ sinh chung. Sau đó, tôi kiểm tra hoạt động của các thang máy, hệ thống chiếu sáng, các hệ thống điện rồi, cho dù thời tiết và nhiệt độ thế nào, tôi vẫn leo lên mái để kiểm tra hệ thống thông gió. Tám cột, mỗi cột được trang bị ba động cơ phục vụ việc thông gió, hút mùi và hút ẩm. Tôi kiểm tra để biết chắc là các nắp van vẫn hoạt động trơn tru, lưu tâm đến âm thanh ì ầm của từng cụm để phát hiện ra những tiếng rít đầu tiên do thiết bị cùn mòn gây nên. Quay trở vào bên trong tòa nhà, tôi đi xuống tầng hầm để kiểm tra cụm bơm tăng áp, tra dầu vào các cánh gập ở cửa ga ra, kiểm tra để biết chắc là hệ thống báo cháy, hệ thống an ninh chung cũng như tất cả các hộp quẹt thẻ ra vào tòa nhà đều hoạt động tốt. Quay trở lên, trước khi bắt đầu một ngày bảo trì đúng nghĩa, tôi dừng lại trong căn phòng dành cho hệ thống ghi hình, nơi tập trung dữ liệu từ hai mươi tư camera giám sát phủ kín phần lớn các khu vực bên trong và bên ngoài tòa nhà.
Chuyến đi tuần đầu ngày này rất quan trọng, bởi vì nó giúp tôi dự đoán các vấn đề trước khi chúng kéo theo một loạt hỏng hóc khác.
L’Excelsior cũng chính là hình ảnh cái bể bơi của nó. Đó là một tòa nhà mong manh, lại còn ngông cuồng, tay chơi, bốc đồng nữa. Hè cũng như đông, lúc nào cũng phải để mắt đến nó. Nếu không, chỉ cần thoáng chốc lơ là, nó có nguy cơ vuột khỏi tầm tay tôi. Sau đó, tôi có nhiệm vụ phải kéo nó trở về với lẽ phải, đưa nó quay về nhà. L’Excelsior cũng giống hệt như kem đánh răng, chỉ chực trào ra khỏi ống, nhưng lại không mấy nhiệt tình muốn quay trở vào.
Từ hai ngày nay, một trận dịch viêm dạ dày-ruột đã lan khắp nhà tù. Đó quả là một cực hình, và việc các tù nhân sống chung đụng với nhau, dùng chung khu vệ sinh càng khiến căn bệnh dễ lây lan. Các phòng giam lần lượt gục ngã, việc phân phát đồng loạt thuốc trị tiêu chảy Imodium có vẻ không mang lại hiệu quả đáng kể vào lúc này. Mùi ô uế nồng nặc trong tất cả các tòa nhà. Lính gác đeo khẩu trang, xỏ găng tay cao su và được yêu cầu không tiếp xúc với tù nhân. Tôi đã hy vọng rằng căn bệnh sẽ chừa condo của chúng tôi ra, nhưng hôm qua, đến lượt chúng tôi dính chưởng. Có vẻ như thức ăn chính là nguồn cơn của nỗi bất hạnh đang lan tràn nhanh như chớp này. Phải ngồi vào bồn cầu trước mặt người khác, lại còn trong tư thế cuống cuồng gấp gáp, đó quả là một điều nhục nhã tàn khốc. Không ai được sinh ra để trải qua cảnh này. Càng ngày tôi càng khó chấp nhận tính chất dữ dội của cái vũ trụ này cùng sự tàn bạo của nó. Mỗi lần buồn đi cầu, tôi chạy vội vào và xin lỗi Patrick. “Đừng có õng ẹo thế, anh bạn ạ. Tự nhiên nó thế mà. Chúng nắm giữ chúng ta. Thế nên đừng phức tạp hóa cuộc sống. Cứ thong thả mà dốc bầu tâm sự, tự giải thoát mình, và đừng có để ý đến tao. Nghe cho kỹ những gì tao nói đây: tao chẳng nhìn thấy gì, chẳng nghe thấy gì, chẳng ngửi thấy gì hết.”
Đôi khi có thứ gì đó cao thượng trong sự hoang dại bản năng của Horton, thứ gì đó đặt gã lên trên những thẩm phán và lính gác, lên trên cả cha gã, người đã dành cả cuộc đời để dạy dỗ nhưng lại chẳng học được điều gì. Vào thời điểm ta ít ngờ tới nhất và khi bối cảnh không hề thuận lợi, nó lóe lên như một tia chớp, một vầng sáng nhân tính.
Một lính gác đã nói với chúng tôi rằng, theo bác sĩ, mọi thứ sẽ yên ổn trở lại trong vòng một tuần nữa. Trong lúc chờ đợi, đồ ăn của chúng tôi sẽ chủ yếu là cơm. Patrick và tôi cố gắng ngủ càng nhiều càng tốt, nhưng những cơn co thắt ùng ục của ruột gan không ngừng bắt chúng tôi phải khuất phục. Trước khi đi ngủ, Horton đưa ra cho tôi một đề nghị: “Ngày mai, nếu mọi chuyện ổn hơn, mày cắt tóc giúp tao được không?” Cái gã Patrick này phải thực sự tin tưởng thì mới chịu giao phó cho tôi nhiệm vụ này, bởi vì bất kỳ ai từng dự vào, dù chỉ một lần, cái cảnh tượng con vật ấy trau chuốt bộ lông của mình, có lẽ cũng sẽ lập tức xin chuyển phòng giam.
Sáng nay, mọi việc ổn hơn. Dường như mùi hôi thối đã lẩn đi trong đêm, và ruột gan chúng tôi đã dịu lại. Về phần Patrick, gã đã sẵn sàng. Lưng thẳng đơ, ngồi trên chiếc ghế đẩu, vai choàng một cái khăn. Gã vô cùng căng thẳng, lo âu. Hai hàm răng gã nghiến chặt còn cổ họng gã thì thắt lại đến mức gã phải cố lắm mới thốt ra được những lời chỉ dẫn dành cho tôi: “Đừng ngắn quá đấy, và nhất là cắt từ từ thôi, đừng cắt từng túm lớn. Đừng để tao nghe thấy tiếng kéo lách tách trên tóc tao. Mày phải làm thật nhẹ thôi. Nếu cảm thấy không ổn, tao sẽ nói với mày, và mày sẽ lập tức dừng tay. Nếu tao thật sự không ổn, tao sẽ buộc phải nằm ra đất một lát. Chuyện bình thường thôi, mày không phải lo. Tao tin ở mày. Thôi nào, mẹ kiếp, cho tao xin thêm một, hai phút nữa, rồi ta tiến hành.”
Patrick Horton mắc một hội chứng khá hiếm, nó hành gã từ khi còn nhỏ. Gã coi tóc như một phần không thể tách rời của thân thể, và việc cắt tóc khiến gã cảm thấy vô cùng khó chịu về mặt thể chất. “Tao không biết phải nói với mày như thế nào. Kiểu như mày cắt của tao một đoạn ngón tay hoặc một mẩu tai, kiểu như mày thực sự cắt bỏ của tao thứ gì đó ấy. Nó khiến tao đau đớn. Tóc thực sự là một phần của thân xác tao. Chính vì thế mà tao không thể đến hiệu cắt tóc. Ở nhà, mẹ tao là người cắt tóc cho tao. Bà ấy có cách, bà ấy nói chuyện với tao, đại loại thế. Còn tao thì không thể làm nổi. Tao đã thử rồi, một mình, nhìn vào gương, nhưng cứ mỗi lần nhấp kéo định cắt là tao lại phải nhìn đi chỗ khác. Mày có bao giờ tưởng tượng mày sẽ tự cắt của mình một mẩu lưỡi không?”
Tôi lùa tóc Patrick vào giữa các ngón tay mình. Bằng những cử chỉ thật khẽ khàng, tôi bắt đầu nhấm nháp từng sợi từng sợi trong mớ lông ấy. Chẳng khác nào tỉa cả một khu rừng rậm bằng chiếc kéo cắt móng tay. “Mày làm từ từ thôi, đừng cắt quá nhiều một lúc, với lại đừng có giật. Và nhất là đừng có dập kéo, tao không thể chịu nổi, xin lỗi anh bạn.” Toàn thân Patrick bắt đầu run lên khe khẽ, và tôi nhìn thấy những giọt mồ hôi lo lắng rịn ra ở viền môi trên của gã. “Dừng lại, dừng lại. Dừng hai phút.” Dưới sàn, mới chỉ có một nhúm nhỏ, chẳng đáng bao nhiêu. Với cái tốc độ này thì cả tuần cũng không đủ. Trong lúc nghỉ, tôi pha cho hai chúng tôi mỗi người một cốc cà phê, Patrick vừa uống vừa run bần bật, hai bàn tay bấu chặt vào cái cốc, chẳng khác nào kẻ vừa được cứu thoát khỏi một vụ đắm tàu.
Chiếc kéo hoạt động trơn tru, nhưng, mặc dù được vận hành thật chậm, hai cái lưỡi sắc nhọn vẫn phát ra tiếng xoèn xoẹt đặc trưng khi nhấm vào da, vào vỏ não hay vào tủy xương. Và đó chính là thứ mà Patrick không thể chịu nổi. “Dừng lại, mẹ kiếp, không ổn rồi, chóng mặt quá, tao phải nằm ra, ôi mẹ kiếp.” Và gã đàn ông to lớn gấp rưỡi người khác ấy trườn khỏi chiếc ghế để tụt xuống đất, cuộn tròn lại chẳng khác gì một con thú cưng cồng kềnh. Tôi ngồi xổm xuống bên cạnh gã, đặt tay lên vai gã, tôi lắng nghe hơi thở dần dịu lại của gã và chúng tôi cứ ở bên nhau như thế, suốt khoảng thời gian cần thiết.
Những đêm hoảng loạn, cảm giác thiếu tự tin của tôi thoái lui dần theo thời gian, và năm tháng trôi đi, viên quản gia rụt rè của L’Excelsior được thăng lên hạng quản lý chung sau khi kết thúc năm làm việc thứ ba, theo đúng cam kết khi tuyển dụng. Nói một cách đơn giản hơn, vị thế mới này mang lại cho tôi thêm một ít lương, nhưng chủ yếu là cấp độ trách nhiệm cao hơn bởi vì ngoài những công việc đã được giao từ trước, tôi còn phải kiêm thêm việc quản lý hành chính cho tòa nhà, chẳng hạn như mua tất cả những vật tư tiêu hao, đặt hàng các sản phẩm và công cụ bảo trì bảo dưỡng, liên hệ với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, và sắp xếp các cuộc hẹn. Theo một cách nào đó, tôi như đang điều hành một doanh nghiệp nhỏ. Và cả trong lĩnh vực này, sau một thời gian thích nghi, tôi đã bình thản khoác lên người bộ đồng phục của gã quản lý mà người ta gọi bằng tên riêng, kẻ đã trở nên không thể thiếu và dần dà biến thành người thân, thậm chí đôi khi còn là bạn tâm giao, của toàn bộ tòa nhà.
Phạm vi hoạt động và can thiệp của tôi dừng ở ngưỡng cửa mỗi căn hộ. Những gì xảy ra bên trong không liên quan đến tôi. Mỗi cư dân phải tự xoay xở với những hỏng hóc, rò rỉ, mất điện, các trục trặc về đường điện thoại hay đường cáp trong nhà họ.
Vào đầu những năm 1990, L’Excelsior là nơi ở của những người khá lớn tuổi, những người ban đầu chuyển đến đây để sau này được thụ hưởng quãng đời hưu trí trong một khung cảnh tiện nghi và được chăm chút. Thời điểm ấy đã đến. Và vì số phận đã quyết định biệt đãi những chủ sở hữu này, nên nó tìm cho họ một tay quản lý mang quốc tịch Pháp-Canada chẳng có chuyên môn gì nhưng lại thạo đủ mọi món, vừa đủ khả năng để vặn cổ những sự cố, những rò rỉ, những mất điện, những trục trặc về điện thoại hoặc những cú xoắn cáp. Và thế là, bất chấp quy định ngăn cấm, cánh cửa các căn hộ vẫn mở ra trước mặt tôi. Ra khỏi căn hộ của mình, toàn bộ tòa nhà gần như trở thành nơi cư trú thứ hai của tôi. Trong suốt những năm tháng ấy, trên tổng số sáu mươi tám cư dân, L’Excelsior có hai mươi mốt phụ nữ sống một mình, tất cả đều tương đối cao tuổi. Và tất cả đều trông cậy vào tôi. Khi là để thông tắc bồn rửa bát, thỉnh thoảng là để gọi nhắc quá khứ và làm nhẹ bớt một ký ức đang chực tràn bờ. Một số tối, tôi có cảm giác mình đã dành nhiều thời gian để lắng nghe tiếng cọt kẹt của những tâm hồn hơn là để kiểm tra tiếng rin rít của những chiếc quạt thông gió trên mái nhà. Nhưng tôi có ba mươi lăm năm tuổi đời, lại có sự kiên nhẫn của một thiên thần và nhất là cái sở thích không bao giờ chịu rời bỏ tôi nữa, cái mong muốn được sửa chữa mọi thứ, được xử lý chúng thật tốt, được chăm sóc chúng, được giám sát chúng. Và sao lại không chứ, khi có người yêu cầu, tôi cũng hành xử theo cùng cách thức ấy với sáu mươi tám chủ sở hữu không ngừng vừa đi vừa nhắc: “Dù anh chị gặp vấn đề gì, Paul cũng có giải pháp.”
Ngày 14 tháng Năm năm 1991, tôi phải đối mặt với một tình huống vốn chẳng có giải pháp khả dĩ nào. Gunther Ganz, bạn tình của mẹ tôi, gọi cho tôi giữa đêm để báo với tôi rằng bà đã chết.
Tôi vẫn như còn nghe thấy cái giọng ông ổng giắt những âm sắc từ tổ tiên người Đức của ông nói với tôi qua điện thoại: “Mé cấu quá đới mốt tiếng trước. Bá ấy không đáu đớn gi. Mốt vu tứ tự.”
Phi trường Dorval. Chuyến bay của Air Canada. Bảy tiếng ba mươi phút bay đêm. Sân bay quốc tế Genève. Ganz đợi tôi. Chiếc xe Mercedes đời những năm 70. Ông nói rất ít. Ngôi nhà của ông, u ám, chất chứa một khoảng thời gian khác. Cầu thang căng nhung đỏ và những bậc gỗ kêu lên kẽo kẹt. Phòng ngủ và thi thể mẹ tôi. Ăn mặc như trong những ngày tươi đẹp. Hai tay chắp trước bụng. Khuôn mặt được tô điểm lại bằng những sắc màu của sự sống. Cứ như thể bà đang nghỉ ngơi. Như thể cái chết chỉ đi vào rồi lại đi ra. Như thể bà sắp mở mắt, nhận ra đứa con trai và bảo nó đến ngồi cạnh mình. Bà không đeo đồng hồ, cũng không đeo bất cứ thứ nữ trang nào. Ganz đã xếp mọi thứ vào hòm. Ông có vẻ là người thích sắp xếp. Tôi những muốn đặt tay lên tay mẹ, lên mặt mẹ, nhưng lại không dám. Ganz đứng bên cạnh tôi trong tư thế của một viên chức hải quan đầy hoài nghi. Có tiếng một chiếc xe mô tô chạy qua. Xa hơn là một vành hồ.
“Lế tang tố chức sáng mai.” Trên chiếc bàn đầu giường, những cái lọ nhỏ vẫn còn đó. Xếp thẳng hàng, giống như một đội quân chiến thắng tí hon. “Mốt vu tứ tự.”
Ông đã nói với tôi chuyện đó qua điện thoại và cả lúc trước, ở phi trường. Tôi là con trai của người phụ nữ này. Tôi chăm lo cho một tòa nhà. Tôi giúp đỡ người già, đôi khi người ốm. Tôi cũng muốn mình có thể hồi sinh người chết. Tôi ngồi xuống mép giường, đưa tay khẽ lướt trên làn da đã lạnh băng giống như da cha tôi trước đây. Và thế là, tách thật xa khỏi Ganz, lúc ấy chỉ còn là một bóng ma nhỏ xíu, chất chứa toàn bộ nguồn cội của cuộc đời mỗi chúng tôi, lần ngược lại những con đường mòn thời thơ ấu, đầy ắp một thứ tình yêu ban sơ nguyên vẹn, chở nặng biết bao điều mà chúng tôi sẽ không có được nữa, những giọt nước mắt của cậu bé Paul Hansen rơi xuống vùng nách chiếc áo vét bằng vải bông của mẹ cậu.
Ganz, tay lính canh Thụy Sĩ bất diệt ấy, vị thầy tu khổ hạnh giả hiệu ấy, vẫn giữ nguyên tư thế. Chiếc xe mô tô lại chạy qua, theo hướng ngược lại.
Đài hóa thân Saint-Georges, đường Batie ở Genève. Những cây lá kim, những cầu thang rộng dẫn lên một khối lớn bằng bê tông và kính. Những ngọn tháp như bị thui chột mất phần ngọn. Những cái lò BBQ to tướng được ốp những vuông sứ trắng. “Mé cấu khống muốn nghi thức tôn giáo.” Ganz, với cái giọng đáng ghét ấy, lúc nào cũng cảm thấy mình có nghĩa vụ phải chạy phụ đề cho dòng chảy của những sự hiển nhiên. Tôi ngờ rằng vợ cũ của một mục sư ham chơi cá ngựa, Anna Margerit, mẹ tôi, người vốn là đại sứ của Deep Throat, nhà truyền giáo của Porcherie, người vô thần bẩm sinh, sẽ không cầu xin được làm lễ xức dầu thánh trước khi lên giàn thiêu chạy bằng khí đốt. Cũng giống như Medea[3], bà bước vào địa ngục, đầy báng bổ, mang theo toàn bộ vẻ yêu kiều và nhan sắc trên trái đất.
Chuyến trở về tan loãng trong cơn ngủ gà ngủ gật vì mệt mỏi. Khi đến phi trường, ánh mặt trời tỏa rạng trên Dorval, Canada giống như đảo Mallorca, L’Excelsior nằm ườn sưởi nắng bên bờ một dòng nước trong vắt. Mặc dù đã muộn, tôi vẫn leo lên mái nhà kiểm tra các rotor, để chắc chắn rằng cái thế giới bé nhỏ của tôi vẫn hít thở thoải mái, rằng nó tiếp tục vận hành trơn tru, trong cái tĩnh lặng yên ả, không có bất cứ va chạm xích mích nào.
***Line Note Zone***
Chú thích:
[1] “Tất cả những gì lăn được.” - tiếng Anh trong nguyên bản. Chú thích của tác giả.[2] Unted Parcel Service, công ty quản lý chuỗi cung ứng và vận chuyển hàng hóa đa quốc gia của Mỹ.
[3] Nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, bị kết tội là phù thủy.