← Quay lại trang sách

8. Chiếc Beaver của Winona

Nỗi gian truân liên quan đến tóc của Patrick không có phần tiếp theo. Rốt cuộc, gã đã chọn cách giữ gìn từng nang tóc của mình, và quấn kín nó trong một tấm lưới đen giống như thỉnh thoảng các tù nhân California miệt mài trên những chiếc ghế tập thể hình vẫn đội. Hôm nay, nhà tù rất sôi động. Một nhân vật thuộc bộ Tư pháp sẽ đến thăm cái trung tâm giam giữ này. Khi có sự hiện diện của ông ta, tất cả cửa phòng giam đều phải để mở còn tù nhân thì ở yên bên trong. Đại diện của bộ sẽ đến từng khu, trò chuyện với các tù nhân.

Tin này có vẻ khiến Patrick phấn khởi. Từ khi biết tin, gã đã chế ra một cuốn sổ than phiền nhỏ mà chỉ mình gã biết nội dung, và gã nói muốn đưa cho vị khách kia nếu ông ta dừng chân ở phòng giam của chúng tôi.

Giống như một con gấu lớn vừa thức dậy sau mùa đông dài, Patrick Horton có vẻ đã khôi phục hoàn toàn phong độ, và viễn cảnh có thể gặp mặt cái thành viên của bộ máy Nhà nước ấy, đối với gã chẳng khác nào một hũ mật lớn, càng khiến gã thấy tăng thêm cơn thèm ăn.

Richard Sorel rụt rè gõ cửa phòng chúng tôi. Đi cùng với hai thành viên trong đội Cảnh binh hoàng gia Canada, anh ta đi vào và đưa thư ủy nhiệm cho Patrick cùng tôi. Richard Sorel có khuôn mặt của một người trung hậu. Không thể phủ nhận điều đó. Cũng có lẽ anh ta là đứa con út hoặc áp út trong số mười hai đến mười ba đứa con mà lẽ ra cha anh ta hẳn đã sản sinh ra trong suốt từng ấy năm theo đúng định biên, và ta cảm nhận rất rõ rằng vào giờ ăn, tất cả anh chị em khác đều vượt lên trước anh ta. Điều đó giải thích tại sao mà đến tận tuổi trưởng thành, anh ta vẫn gầy gò đến mức người ta có cảm giác chiếc áo sơ mi phồng phềnh chẳng khác nào một chiếc phao quanh cổ anh ta. Patrick chăm chú nhìn Richard Sorel, có vẻ như gã cảm thấy sợ hãi trước một sinh vật nhỏ bé đến thế, đồng thời lại tỏ ra thất vọng vì không thể đòi hỏi quyền lợi của mình trước một tay đàn ông vạm vỡ thuộc cùng thế giới với gã. Khi viên thứ trưởng hỏi xem chúng tôi có nhận xét gì về nhà tù Bordeaux không, Patrick Horton liền nắm lấy cơ hội. “Tôi đã viết cho ông một bản đề nghị nhỏ ở đây, nhưng trước hết, tôi sẽ tóm tắt đôi chút. Đầu tiên, trái ngược với những người khác, tôi ở đây chẳng vì lý do gì. Tôi vô tội. Tất cả những gì người ta quy kết cho tôi đều sai cả. Tôi là thành viên của Hells, cái đó thì đúng, nhưng tôi chỉ dính dáng đến mô tô, những cái khác, ma túy, tôi chẳng bao giờ đụng móng tay vào. Đấy là điều đầu tiên. Sau đó, tôi sẽ hỏi ông hai, ba câu. Tôi không biết nhà ông ở đâu, nhưng liệu ông có thể sống ở đây, trong cái hộp tí xíu này, hai mươi tư trên hai mươi tư giờ cùng với một gã mà ông chưa từng nhìn thấy trước khi đến đây không? Tối nào cũng ăn, tối nào cũng ngủ cùng hắn? Ông có thể đi ỉa trước mặt hắn không? Bởi vì đấy chính là tên gọi của việc ấy. Ba trăm ngày mỗi năm, ở đây, chúng tôi ăn món gà nấu với những thứ mà thậm chí ông còn không biết có gì trong đó. Đồ ăn không chỉ ghê tởm, mà hơn thế, nó còn nguy hiểm. Ông có thể hỏi những người khác, họ sẽ khẳng định với ông điều đó. Tuần trước, tất cả chúng tôi đều bị ỉa chảy, cả nhà tù cùng bị, tháo cống từ sáng đến tối, người nọ trước mặt người kia, rồi xơi cả vốc Imodium. Rồi còn chuột cống, chuột nhắt nữa, ở nhà ông có những thứ ấy không? Ở đây, chúng thường trú trong nhà tù, cào bới suốt đêm. Thứ âm thanh chết tiệt khiến ông không thể ngủ nổi. Chúng tôi buộc phải bịt các khe hở bằng thép và đinh. Suýt thì tôi quên vụ sưởi. Tôi không biết ở bộ của ông thì Giáng sinh là bao nhiêu độ, nhưng ở đây, mùa đông vừa rồi, chúng tôi phải mặc nguyên quần áo mà đi ngủ, quấn người trong những cái chăn nồng nặc mùi lốp xe cũ. Thôi tôi không nói những chuyện khác nữa, những chuyến đi dạo bị rút ngắn, những hoạt động tệ hại cùng đám lính gác coi ông như cứt. Và ông hãy tưởng tượng tất cả những thứ đó, khi mà, hơn nữa, giống như tôi, ông vô tội. Nếu ông muốn tìm hiểu thêm, thì tôi đã viết tên tôi trên tờ giấy này cho ông rồi. Horton. Patrick Horton.”

Trong cái túi đựng mà anh ta dùng làm bộ com lê, với những món đồ in rõ hình dạng từng chiếc xương trên người, thứ trưởng Sorel trông như vừa chui ra từ một cái máy vắt quần áo. Và điều đó cũng gần đúng với những gì vừa xảy đến với anh ta. Đơn giản là anh ta vừa gặp một nhân vật có vóc dáng gấp rưỡi người bình thường, lại đang ở phong độ tốt nhất, hiếu chiến, chính xác, súc tích. Sẽ phải mất một thời gian để anh ta hoàn hồn trở lại.

Trước khi rời phòng giam cùng hai viên cảnh binh mà chỉ sự hiện diện của họ cũng đủ để khắc họa rõ nét thêm tình trạng chật hẹp trong condo của chúng tôi, Richard Sorel đưa tay ra bắt tay tôi với vẻ mặt mà tôi không hiểu nổi, rồi nói với Patrick. “Tôi xin cảm ơn anh vì lòng dũng cảm và sự thẳng thắn của anh.” Sau đó, người đàn ông bé nhỏ gầy gò rời đi giống như khi anh ta đến, kín đáo, qua cửa chính, giữa hai viên cảnh binh.

Tối nay, quản giáo đến thăm chúng tôi, để tìm hiểu xem mọi việc với vị đại diện của bộ diễn ra có tốt đẹp không. “Tôi hy vọng anh đã không kể lể quá nhiều chuyện ngớ ngẩn, Horton ạ.” Vừa chỉnh tấm lưới trên mái tóc, Patrick vừa mỉm cười. “Tôi ư, thưa sếp? Không bao giờ.”

Đầu tháng Sáu năm 1991 ấy, trong phòng họp của tòa nhà, diễn ra cuộc họp toàn thể thường niên của ban quản trị L’Excelsior, do ân nhân của tôi, ông Noël Alexandre, chủ trì. Đa số cư dân đều tham gia cuộc họp này, trong đó người ta quyết định lựa chọn các khoản chi tiêu ưu tiên trong năm sắp tới và chứng duyệt các mục chi trong năm tài chính vừa qua. Mọi chuyện diễn ra êm ả như trong một gia đình, đôi khi có vài xích mích nhưng rốt cuộc, mọi người lại quây quần uống với nhau một ly vang sủi hoặc một ly Chardonnay.

Một ngoại lệ là Kieran Read, năm ấy không đi công chuyện, đã tham dự cuộc gặp mặt vui vẻ ấy, ông chào các cư dân khác bằng một nụ cười hoặc một cái gật đầu, nhưng không vì thế mà hòa mình vào với họ. Tôi còn nhớ rất rõ là tối đó chúng tôi đã chuyện phiếm về một trong những vụ việc đã đưa ông đến Baltimore để giải quyết một chuyện ghê tởm. Bốn người con đã thông đồng với hãng bảo hiểm bằng cách tiết lộ những chuyện ô nhục riêng tư của người cha quá cố, khiến khoản tiền bồi thường rất lớn lẽ ra phải trả cho người mẹ bị giảm xuống chẳng còn là bao. “Tôi đã buộc phải ghi âm lời chứng của họ, đấy là công việc của tôi. Tôi không bao giờ biết được tại sao họ lại bêu xấu cha họ và đẩy mẹ họ vào cảnh bần cùng như thế. Ít lâu sau, nghe nói bên bảo hiểm cũng bày tỏ lòng biết ơn bằng cách tặng cho mỗi người họ một món hậu tạ. Theo như tôi thấy, thì anh không có con, Paul nhỉ. Thế là tốt đấy, đừng bao giờ có con. Tin tôi đi, một ngày nào đó chúng sẽ ỉa vào mặt anh thôi.”

Tôi thường nhận thấy rằng khi trở về sau một số chuyến công tác khủng khiếp về mặt nhân tính, Read có thể đưa ra một ý kiến tồi tệ về bản thân và về đồng loại. Khi đó, ông sẽ giam mình trong căn hộ suốt nhiều ngày như để tự khử trùng rồi mới quay trở lại với nhịp sống bình thường trước khi nhận được một cuộc gọi mới của hãng. “Anh biết đấy, Casualties adjuster không phải một nghề. Ban đầu, tôi là luật sư, và tôi chủ yếu làm việc với các nghiệp đoàn. Thế rồi mẹ tôi lâm bệnh. Giữa những lần điều trị và những ca mổ, bà ấy không còn lại gì chỉ trong sáu tháng. Thế nên sau đó tôi phải tiếp tục cáng đáng các chi phí chăm sóc và chữa trị cho mẹ tôi, vì bà nằm viện dài ngày. Đúng lúc ấy người ta đề nghị tôi nhận vụ đầu tiên. Tôi còn nhớ rất rõ. Một câu chuyện kỳ lạ. Nạn nhân lái chiếc xe bán tải ở tốc độ 100 ki lô mét trên giờ, trên một con đường ở nông thôn. Đến một chỗ ngoặt, một con ngựa chẳng biết từ đâu lao ra ngay trước mũi xe. Anh ta đâm vào con vật, nó chui qua kính chắn gió rồi vọt ra ngoài qua kính hậu. Thật khó tin, nhưng chuyện xảy ra chính xác như thế. Khi đội cứu hộ đến, nhân viên cấp cứu phát hiện ra anh chàng tài xế bị sườn con vật đè bẹp vào lúc nó bắn qua khoang lái. Thế đấy, vụ việc đầu tiên của tôi. Không xa đây lắm, ở phía Bắc tiểu bang New York. Người ta đã thuê tôi điều tra về cuộc sống của người chết. Anh thấy đấy, chính nhờ lũ ngựa bất cẩn và những người bất hạnh mà tôi đã có tiền để mang lại cho mẹ tôi một cuộc sống tươm tất trong khoảng bảy, tám năm sau đó. Cha mẹ anh còn chứ, hả Paul?”

Trước đó chừng nửa tháng, chắc hẳn tôi đã có thể trả lời là còn. Nhưng ngày hôm đó thì không, cha mẹ tôi đã chết cả rồi. Không có lý do để điều tra về bất cứ chuyện gì. Không ai trong hai người họ gặp phải một con ngựa trên đường đi. Có lẽ là ngoại trừ cha tôi, với chiếc ống nhòm cùng chiếc mũ lưỡi trai, ở chặng đua nước rút.

Thời gian trôi qua, tôi cảm thấy một niềm tin sâu sắc rằng mỗi năm Read lại oằn mình thêm một chút dưới sức nặng của những người chết mà ông phải lục túi. Lúc nào cũng nằm ở chấn tâm của nỗi bất hạnh, đối mặt với các công ty bảo hiểm sẵn sàng làm tất cả để giảm thiểu thiệt hại, những gia đình tham lam muốn tăng gấp bội số tiền họ được nhận, những thẩm phán khó lường và những luật sư điên cuồng bám lấy thù lao tư vấn theo tỷ lệ, Read dầm mình trong cái nồi hầm nhân tính độc hại ấy, nơi ninh âm ỉ những chứng tật tệ hại nhất, những mảnh thấp hèn nhất của giống loài. Nhiệm vụ của ông đòi hỏi phải tránh được kiện cáo bằng mọi giá, và để làm được điều đó, thì phỉnh phờ cha mẹ nạn nhân, thương lượng kín, khiến họ tưởng lầm rằng công ty đứng về phía họ, tỏ ra cảm thông trong những thời điểm khó khăn ấy và thuyết phục họ chấp nhận số tiền đưa ra, có thể là thấp hơn mong đợi của họ nhưng công ty sẵn sàng chi trả ngay lập tức, nhờ đó tránh được những chờ đợi dài dằng dặc với một vụ kiện tụng lúc nào cũng bấp bênh, với hết cuộc điều tra nọ đến cuộc điều tra kia về cuộc sống riêng tư cùng những chi phí khổng lồ phải trả cho luật sư. Chính bằng cách đó mà adjuster hạ thấp mức bồi thường, trong bầu không khí thân tình ở phòng khách, với những con người khốn khổ kiệt lực vì nỗi đau tang tóc và lo lắng vì những gì người ta có thể tìm thấy trong túi hoặc trong ngăn tủ của người cha quá cố.

Ít lâu sau cuộc họp của ban quản trị, Read bấm chuông căn hộ của tôi. “Anh có làm gì đặc biệt không, Paul? Nếu anh đồng ý, tôi mời anh đi ăn nhà hàng. Suốt cả ngày hôm nay, tôi ngồi đọc một hồ sơ, tôi không chịu đựng nổi nữa, đầu tôi sắp vỡ tung với cái mớ rác rưởi này rồi.”

Khi chúng tôi đi qua cánh cửa của L’Excelsior vào khoảng một giờ ba mươi sáng, Kieran Read vừa nắm cánh tay tôi vừa nói, tưởng như da môi ông sắp bong ra đến nơi, trút hết những gì vướng mắc trong lòng, những gì khiến ký ức ông vấy bẩn, rải rắc nỗi hổ thẹn và những hối tiếc của ông trong bầu không khí trung tính của khu đại sảnh sáng loáng những gương và đèn halogen của tòa nhà. “Nói cho cùng, toàn bộ chuyện này cũng chẳng có gì phức tạp lắm. Ngược lại. Những bất công của cuộc đời thường được dẫn lối và thừa nhận qua đường tư pháp cho đến cả trong cái chết của chúng ta. Đối với một công ty bảo hiểm, cái chết của một chủ doanh nghiệp ở New York là một vụ tồi tệ, bởi vì khoản tiền bồi thường phải trả cho gia đình ông ta sẽ cao hơn từ mười đến hai mươi lần so với cái chết của một gã nuôi ngựa mất tích trong vùng núi Montana. Có tồn tại cả một bản đồ của bất hạnh, ai nấy đều biết điều đó, một danh sách những quận hạt nơi một người chết đáng giá như vàng. Anh có biết một ca tồi tệ điển hình nhất đối với một công ty bảo hiểm không thể tìm ra phương án thống nhất với gia đình người quá cố rồi phải ra trước tòa là như thế nào không? Trả lời ngay không chần chừ nhé, một đứa bé bị chết vì túi khí hay một gã da trắng bốn mươi tuổi, dân thành thị, có công việc tốt, đã kết hôn, hai con, yêu gia đình và biết phụng dưỡng cha mẹ già? Trong cả hai trường hợp, công ty bảo hiểm đều cầm chắc là sạt nghiệp. Khi vụ việc có vẻ quá trơn tru, chẳng hạn như trường hợp của gã da trắng bốn mươi tuổi, thì họ sẽ yêu cầu tôi điều tra. Về sức khỏe của anh ta chẳng hạn. Nghe thì kỳ cục, nhưng sức khỏe của một người chết có thể ảnh hưởng tới số tiền bồi thường đấy. Một gã nghiện thuốc sẽ bị hạ giá. Một người huyết áp cao phải điều trị bằng thuốc thì lại còn mất giá hơn. Dương tính HIV à, thế thì tụt giá thảm hại. Anh cứ hình dung rằng trong các thang bậc nghề nghiệp và thang bậc đánh giá của các bồi thẩm đoàn, một nạn nhân hòa đồng, ưa đi chơi, gặp gỡ bè bạn, tham gia các hoạt động thể thao (người ta gọi đó là những outdoorsy people) sẽ có giá hơn một gã cô độc suốt ngày ở nhà đọc sách hoặc xem ti vi. Quả thật, anh thấy đấy, nước Mỹ chính là cái nơi tuyệt diệu ấy, cái miền đất ngọt ngào nơi người ta muốn rằng người chết phải là vận động viên, năng động và nhất là phải có sức khỏe tốt. Đừng quên là còn có một khoản thưởng thêm cho gia đình của những người quá cố thường xuyên thực hiện cái mà chúng tôi gọi là ‘sinh hoạt tình dục chung thủy’. Trước tòa, chỉ cần một người vợ góa tuyên bố rằng cô ta bị tước mất ‘đời sống tình dục thỏa mãn và thường xuyên là bồi thẩm đoàn sẽ bôi trơn nỗi đau đớn của cô ta bằng một khoản thưởng trị giá từ 250.000 đến 300.000 đô la. Và anh biết gì không, hả Paul? Một điều đáng ngạc nhiên, nhưng lần nào cũng được xác thực: người vợ góa càng xinh thì khoản bồi thường càng cao. Nếu một phụ nữ nội trợ qua đời vì tai nạn, người ta liền cử một chuyên gia về nội trợ để đánh giá, ngoài khoản bồi thường thiệt hại tinh thần, khoản tiền được coi như bù đắp chi phí cho những công việc nội trợ và chăm sóc gia đình mà người phụ nữ đó thực hiện ở nhà mình. Nấu ăn, chăm sóc nhà cửa, đi chợ, dạy dỗ con cái, quản lý tiền nong trong gia đình. Sau đó, tất cả sẽ được cân nhắc, đánh giá theo thời giá thị trường rồi quy thành một con số gọi là ‘những thiệt hại kinh tế’. Nhưng ngày nay, chính những đơn khiếu nại về pain and suffering hoặc emotional loss[1], khi liên quan đến các công ty lớn, mới mang về những khoản bồi thường lớn nhất. Trong một vụ kiểu này mới được xử gần đây, Qualls vs Case, tôi còn nhớ rất rõ, văn phòng luật Booth and Koskoff ở Los Angeles, đại diện cho bên nguyên, đã bỏ túi 17,5 triệu đô la. Nhưng trước khi bỏ ra số tiền ấy, các công ty luôn yêu cầu chúng tôi lục lọi, cào bới, kiểm tra để xác định rằng người chết không phải là một người sống tốt đến thế, rằng đôi khi anh ta có đi chỗ này chỗ khác. Mọi chuyện diễn ra như thế đấy, Paul ạ, chính xác là như thế. Tôi làm một công việc bẩn thỉu, với những phương pháp bẩn thỉu, giữa những con người bẩn thỉu. Khi anh chết, cho dù ở đây, ở Canada này, mọi việc có hơi khác, thì giá trị đích thực của anh sau khi chết có thể sẽ phụ thuộc vào sự đồi bại của một gã luật sư, đạo đức của một tay adjuster, quá khứ của anh, tương lai mà anh không bao giờ có nữa, màu da của anh, sự thiếu may mắn của anh và cả khả năng của anh trong lĩnh vực tình dục xem có ‘thỏa mãn và thường xuyên’ không. Thỏa mãn và thường xuyên, Paul ạ, đừng bao giờ quên điều đó trong suốt cuộc đời anh.”

Tôi đã hỏi Read tại sao, sau khi mẹ ông qua đời, ông lại không vứt bỏ tất cả những chuyện ấy, cắt đứt hoàn toàn với cái thế giới ấy, để quay trở về với nghề nghiệp ban đầu. Ông trả lời tôi rằng lúc đó đã quá muộn, rằng ông không đủ dũng khí để làm lại tất cả từ con số không. Ông đã đi sai đường, ông biết lắm chứ, nhưng ông sẽ đi theo con đường ấy cho đến tận cùng. Đêm đó, tôi đã vô cùng khó ngủ. Lỗi là do Read, do những tâm sự của ông, mà bản chất của chúng đôi khi khiến tôi khó chịu, do một số câu chuyện ông kể vẫn còn quanh đi quẩn lại trong đầu tôi ngay cả khi ông đã ra khỏi phòng. Đêm đó, một người đàn ông và một người đàn bà đang lái xe bon bon. Một chiếc xe tải đầu kéo lao từ bên phải tới cắt ngang đường họ. Thậm chí họ còn không kịp giảm tốc độ, mà chui qua trục sơ mi rơ moóc cắt đứt toàn bộ phần bên trên của chiếc xe. Cuối cùng, chiếc xe dừng lại ngay giữa lòng đường, cách đó chừng trăm mét. Xác của người đàn ông và người đàn bà ấy vẫn ngồi ngay ngắn trong xe, dây bảo hiểm cột chặt họ vào ghế. Hộp sọ của họ mở làm đôi, bị phạt ngang giống hệt nhau, chỉ để lại phần cằm cùng hàm dưới của mỗi người. Phần trên bị thiếu khuyết vì đã lăn xuống đường, cả tóc lẫn não trộn lẫn vào nhau. Tình trạng sức khỏe thực sự của hai người vừa chết này ra sao? Họ có phải là những outdoorsy people thường xuyên thỏa mãn hay không?

Sáng nay, tốt hơn hết là nên giữ khoảng cách với Patrick. Qua luật sư, gã vừa được biết rằng chiếc mô tô của gã có thể bị tòa án tịch biên làm vật chứng trong vụ án liên quan đến gã. Đó là một chiếc Fat Boy, động cơ Milwaukee Eight 107, 6 số, 25.000 đô la, 1.745 phân khối, nghĩa là khoảng 14,32 đô la một phân khối. Bức ảnh chụp “thằng nhóc lớn xác” vẫn chình ình trên mặt bàn gã. Tôi những muốn mình có thể nói với thẩm phán rằng không nên động đến chiếc xe, rằng việc đó chắc chắn sẽ đánh thức ngọn núi lửa, và rằng cái gã to cao gấp rưỡi người thường kia sẽ đột ngột hung tợn hơn cả hai người cộng lại. Tôi những muốn mình có thể nói với thẩm phán rằng cho dù Patrick đã làm gì, cho dù gã đã phạm tội ác nào, thì vẫn nên cất giữ chiếc xe mô tô của gã ở nơi nó đang đỗ, đừng đặt dù chỉ một bàn tay lên nó, hãy để “thằng nhóc lớn xác” ngủ yên bên dưới lớp vải bọc đang che chở cho nó khỏi thời tiết cũng như công lý của con người. Nếu tồn tại thứ gì có thể cứu vớt Patrick Horton thì đó chính là chiếc Harley của gã, với mỗi phân khối đáng giá 14,32 đô la ấy. Tịch biên đồ vật đó chính là khai mở một xung đột, là tuyên chiến với Horton, là chuốc lấy rủi ro tước bỏ nốt chút nhân tính còn lại trong con người gã. Và biến gã thành một Maurice “mom” Boucher[2] mới, cái kẻ vốn là thủ lĩnh của băng đảng Hells, đã bị kết án tù chung thân vì tội giết chết hai lính gác tù.

Suốt buổi sáng, Horton vừa đi đi lại lại vừa lầm bẩm: “Thằng nào động vào chiếc xe, thì nó toi đời rồi, mẹ kiếp, tao sẽ chẻ nó làm đôi. Tao lấy danh dự của Hells ra mà thề, tao sẽ róc xương nó.” Gã không nói với riêng ai, mà vừa đi vừa gầm gừ giận dữ như một con thú hoang bị tước mất miếng mồi. Khoảng giữa trưa, lo ngại trước sự kích động của gã, hai lính gác tới hành lang gặp gã và chuyện phiếm với gã một lát. Hai giờ sau, gã được đưa lên văn phòng ông giám thị.

Emmanuel Sauvage không có gì tệ hơn người khác cả. Chỉ đơn giản là cả ông ta cũng làm một cái nghề bẩn thỉu, ở giữa vài kẻ bẩn thỉu mà đa phần từng sống một cuộc đời bẩn thỉu cho đến lúc ấy. Ông ta điều hành cái nơi bầy hầy này bằng những gì bộ cấp cho ông ta, để làm nơi ăn chốn ngủ cho đám tù nhân mà ông ta được giao quản lý. Thỉnh thoảng ông ta đến gặp chúng tôi, dùng cái giọng thận mật để nói chuyện với chúng tôi, và đối xử với chúng tôi theo cái cách thức không quá hà khắc cũng chẳng quá đồng cảm. Đó gần như là tất cả những gì tôi có thể nói về người đã dành ra gần hai tiếng đồng hồ để triệu tập Horton lên phòng làm việc của mình ngay sau khi biết được rằng gã khốn ấy muốn chẻ đôi khoảng phần tư dân số sống ở phía Tây thành phố này.

Khoảng giữa chiều, tôi thấy Horton quay về với một phong thái đặc biệt mà gã thường phô ra mỗi khi cảm thấy mình phong độ và tràn đầy niềm vui sống. Có vẻ như việc sở hữu đôi giày gắn lò xo khiến gã có thêm một sức đẩy lạ kỳ trong mỗi bước chân. Khuôn mặt gã rạng ngời, và chẳng khác nào một nghị sĩ trẻ đang trong chiến dịch vận động tranh cử, gã giơ tay vẫy chào tất cả những kẻ gã gặp trên đường đi. Lúc bước vào phòng giam, gã không thèm nhìn tôi, mà đi thẳng về phía bức ảnh “Fat Boy” và hôn lên đó như thể nó là một đứa con từ chiến trận trở về. “Quá được, cái tay Sauvage ấy, hắn quá mạnh. Mày có tin không? Hắn bảo tao trèo lên phòng hắn, hắn hỏi tao đang làm cái trò quỷ quái gì trong tù, tao giải thích chuyện của tao trong vòng năm phút, hắn gật gù rồi bảo tao: ‘Chờ tôi trong hành lang, tôi gọi cho thư ký tòa’. Năm phút sau, thậm chí chưa đầy năm phút, hắn bảo tao: ‘Thế đấy, giải quyết xong rồi, ‘Fat Boy’ vẫn ở nhà anh. Tay luật sư của anh chẳng hiểu gì hết. Thôi, giờ thì đừng làm phiền chúng tôi nữa. Và thế là, thay vì tống tao ra ngoài, hắn bảo tao ngồi xuống, ờ đấy; Sauvage, hắn bảo tao ngồi xuống, và mày biết gì không? Hắn nói chuyện với tao về mô tô, tất cả những thứ đó, và tao có cảm giác đã chạm đúng vào hòn bi của hắn. Hắn hỏi tao đủ thứ về Fat Boy, toàn những thứ sẽ chẳng bao giờ bật ra trong đầu một gã lái Audi. Thế rồi, bỗng nhiên, hắn thổ lộ với tao, hắn kể rằng hắn cũng có một con Harley, con Softail Slim, chắc mày chẳng hiểu gì đâu, nhưng đó đúng là hàng của dân chơi, một con xe tuyệt vời lắp trên bộ bánh chết tiệt loại 140/90/16. Mày có hình dung được tay giám thị đó, Sauvage himself, lại cưỡi một con Softail không? Mẹ kiếp, khi hắn bảo tao rằng việc con xe của tao đã được giải quyết xong, tao chỉ muốn ôm chầm lấy hắn mà hôn. Thế rồi, sau đó, câu chuyện của hắn với con Slim và bộ bánh của nó, mày nói xem, toàn bộ những thứ ấy đều là hàng khuyến mãi cả. Mày tin được chuyện của hắn không? Tay giám thị cuỡi Harley ư? Xin lỗi nhé, con trai ạ, nếu mày không thấy chán, tao sẽ giải thích vắn tắt với mày, tất cả những cảm xúc này đang khiến tao quặn hết cả ruột gan đây. Rồi sau đó, nếu mày muốn, tao tin rằng lần này chắc là sẽ ổn cả thôi, mày có thể cắt tóc cho tao.”

Có một vị thần bảo hộ những tay chơi mô tô, chắc chắn là như thế, một gã có lẽ cũng lái chiếc xe dòng “Heritage Classic” và đủ chất chơi để lôi kéo được cả con đực thống trị nhà tù và vị giám thị của cái nơi dạy dỗ gã vào cùng một nhóm đạo hữu.

Màn đêm yên ả. Mọi căng thẳng tích tụ trong ngày đã dịu xuống. Trong một không gian chật hẹp như nơi ở của chúng tôi, bầu không khí xuống cấp rất nhanh chóng do tiếp xúc với tâm trạng tiêu cực và những lần nổi khùng của chúng tôi. Giống như khi có một cơn bão đang đến gần, không khí tích đầy những i-on dương khiến chúng tôi ngột ngạt. Nhưng cả lần này nữa, cái nếp sống của chúng tôi đã thắng thế, và hàng xóm của tôi đã thiếp ngủ chẳng khác nào một đứa trẻ vừa được người ta trả lại món đồ chơi. Nhà tù gà gật, cả lính gác và tù nhân cùng ngủ, chỉ có tôi còn thao thức, và bên cạnh tôi là Winona, Nouk cùng vị mục sư. Tôi đã chờ đợi họ suốt khoảng thời gian cần thiết. Bây giờ họ đang ở đây. Hai mắt tôi mở to. Tôi có biết bao điều cần nói. Sự hiện diện của họ bên tôi đang và sẽ là tất cả những gì tôi còn lại trong đời.

Cứ như thể chuyện này đã được chỉ định, thời gian ở tù của tôi diễn ra ở nhà tù Bordeaux, nằm trên đại lộ Gouin, bên bờ sông Prairies, gần như ngay trong tầm chửi mắng từ nhà tôi, L’Excelsior. Và cứ như thể số phận đã muốn định sẵn cho tôi phải ở trong khu phố này, nó đã để cho tôi gặp gỡ Winona, vẫn trên cùng đại lộ này, dọc theo con sông này, nơi được dùng làm căn cứ thủy phi cơ cho vài chiếc máy bay nhỏ có gắn phao và đảm nhiệm việc chuyên chở hàng hóa cùng hành khách theo yêu cầu, từ hồ này sang hồ khác, trong bán kính chừng 300 ki lô mét từ Montréal. Cái công ty nhỏ xíu nơi Winona Mapachee làm việc có tên là Beav’ Air, một trò chơi chữ dựa trên tên gọi của ba chiếc máy bay mà công ty này sử dụng: những chiếc Beaver DHC2 do De Havilland sản xuất, những cỗ máy không thể phá hủy có một động cơ duy nhất kể từ ngày 16 tháng Tám năm 1947, ngày diễn ra chuyến bay đầu tiên, đã băng qua mọi vùng trời trên thế giới, tỏ ra mình có khả năng thích nghi với thiên nhiên bằng cách lắp thêm, tùy vào thói đỏng đảnh của mặt đất và của các mùa, những bộ phao, những bộ bánh hoặc những lưỡi trượt.

Vào buổi sáng tháng Năm năm 1995 ấy, Noël Alexandre, vị thủ tướng của tòa nhà nơi chúng tôi sống, hỏi xem tôi có thời gian để đến Gouin Est, ở phía Bắc thành phố, cách đảo công viên Saint-Joseph không bao xa, để đón một người bạn của ông, người sẽ hạ cánh xuống căn cứ thủy phi cơ vào khoảng giữa trưa, hay không.

Địa điểm ấy chẳng có gì là quyến rũ, nhưng đáp ứng được các tiêu chuẩn và các loại hình dịch vụ thôn dã mà công ty cung cấp. Một vũng nhỏ trong dòng chảy của con sông, một ngôi nhà nhỏ bằng gỗ dùng làm trụ sở soạn thảo các giấy tờ thủ tục, và những cầu tàu chắc chắn để tạo điều kiện thuận lợi cho hành khách bước xuống, đồng thời đảm bảo có nơi cho những cỗ máy bay xếp hàng.

Với âm thanh đặc trưng của động cơ Pratt & Whitney, chiếc máy bay đến từ phía Bắc hiện ra. Giảm dần độ cao, nó vượt qua căn cứ thủy phi cơ, nhắm hướng Nam, rồi quay ngoắt 180 độ để bay là là mặt nước, hạ phao rồi trượt xuống phía mặt sông như một con ngỗng khổng lồ đang tự tặng cho mình một chặng nghỉ. Trên máy bay chở ba hành khách, trong đó có người bạn của Alexandre, ông Nova, ba chiếc túi du lịch, chú chó lấm láp cùng mớ cần câu của ông. Trong khi tôi cố gắng lôi toàn bộ chỗ đồ đạc đó ra khỏi khoang máy bay, có ai đó bảo tôi: “Anh làm thế không được đâu.” Là Winona Mapachee, phi công lái chiếc máy bay, nàng vơ cả mớ lộn xộn ấy rồi chồng chúng lên nhau theo một trật tự hoàn hảo trên bờ sông. Tôi quan sát nàng kiểm tra các điểm neo đậu của chiếc thủy phi cơ, mở một cánh cửa bên, lấy mấy tấm bản đồ cùng một chiếc túi đeo chéo bằng da, rồi rời xa dần trong bộ áo liền quần xanh lính thủy để đi về phía căn lều hẳn được dùng làm trụ sở, bến đỗ, phòng đăng ký lên xuống máy bay lẫn cửa hàng ăn, nhờ chiếc máy bán hàng tự động nhả ra những thanh ngũ cốc và những chiếc bánh muffin bọc trong giấy bóng kính.

“Ốn cả không? Con chó cũng ổn chứ? Mấy cái túi của ông đây rồi. Tất cả đã xong xuôi, ông có thể đi được rồi.” Tất cả chỉ trong chưa đầy mười lăm giây. Thông thường, không cần mất quá nhiều thời gian để đoán định, trong một mối quan hệ, là ta đang dính dáng đến kiểu phụ nữ nào. Về mặt này, ngay từ những giây đầu tiên, tôi đã hiểu rằng Winona Mapachee, có cha là người Algonquin, mẹ là người Ireland, thuộc loại phụ nữ sống với nhận thức rõ rệt từng giây rằng cuộc đời này vô cùng ngắn ngủi và quý giá, nên không thể chấp nhận trì hoãn nó trong hàng dài toàn những vấn đề thứ yếu chờ đến lượt.

Theo đúng lô gic, có lẽ mối quan hệ của chúng tôi sẽ dừng tại đó, ở lần đổ bộ chớp nhoáng từ đuôi một chiếc Beaver, bên bờ sông Prairies, đại lộ Gouin. Nhưng cuộc đời, với những trò tình cờ của nó, luôn có mánh khóe để khiến những sinh linh mà nó quyết định vứt bỏ phải xích lại gần nhau. Trong trường hợp này là chứng đãng trí ở người bạn của Noël Alexandre, khiến tôi phải làm một cú bẻ lái ngoạn mục về phía người phụ nữ sẽ trở thành vợ tôi. Chuyện hết sức ngớ ngẩn: Nova đã quên toàn bộ giấy tờ tùy thân, các phương tiện thanh toán cùng hộ chiếu của ông trong một cái túi đeo chéo vứt trong căn lều đi câu của ông, cách đó hai giờ bay, về phía Bắc, trên hồ Sacacomie, gần Saint-Alexis-des-Monts. Và ông không thể bắt máy bay trở lại để lấy tài sản của mình, vì mắc kẹt với một cơn đau lưng cấp tính. Một lần nữa, Alexandre nhờ tôi vui lòng đóng vai bồ câu đưa thư, và đến Maskinongé lấy lại những gì cần lấy.

Winona kiểm tra dây bảo hiểm của tôi, khởi động động cơ, bật vài công tắc rồi đưa chúng tôi chậm rãi rời xa bờ sông cho đến khi định vị chiếc máy bay ở chính giữa dòng sông. Đoạn tiếp theo không giống với bất kỳ thứ gì tôi từng biết. Giống như một con ngỗng hoang chuẩn bị cất cánh, chiếc Beaver tì chân lên mặt nước, rồi dần dần tăng tốc, nhẹ nhàng bứt mình khỏi dòng chảy để lao lên không trung, được cuốn đi trong tiếng ầm ĩ thông thường của những rung lắc thiết kế vào những năm 1950. Trong thời tiết mùa xuân hôm ấy, Winona bay bằng mắt thường, và thỉnh thoảng chiếc máy bay lại xóc nẩy trên những xoáy không khí vô hình. Nàng đã ghi nhớ trong tâm trí toàn bộ bản đồ của vùng đất này, và giống như những đàn ngỗng trời chỉ chăm chú nhắm đến điểm đích của cuộc di cư, nàng định hướng bằng cách dựa theo bản năng, nó luôn dẫn nàng đến đúng nơi nàng cần. Đột nhiên, mặt hồ hiện ra chẳng khác nào một diễn viên bước lên sân khấu. Nàng thực hiện những động tác tiếp cận quen thuộc giữa những hòn đảo rải rác trên hồ, gióng thẳng máy bay với một chiếc cọc tiêu tưởng tượng, chạm mũi chân máy bay xuống nước rồi nhẹ nhàng trượt về phía bờ. Khi động cơ thôi kêu ầm ĩ, chúng tôi chỉ còn nghe thấy tiếng nước ì oạp như đang hát bên sườn của mấy cái phao.

Chiếc cầu tàu di động, căn lều sơ sài, chiếc túi đeo chéo của Nova, cả đống báu vật của ông, những âm thanh của khu rừng, đường bay của bầy chim, cảm giác được ở đúng nơi vào thời điểm thích hợp, ánh mắt Winona nói rằng chính là lúc này, đôi bàn tay nàng len vào túi tôi, sự tiếp xúc với những ngón tay nàng, những ngón tay tôi bấu víu vào phép mầu, những lớp áo quần cọ xát vào nhau, hai thân thể tiếp xúc với nhau, da với da va đập vào nhau, thế giới chợt trở nên nhỏ xíu, thế giới cùng với tất cả những sự vụ của nó, với những cái bể bơi tệ hại và những hình thức thanh toán, thế giới của người Thụy Sĩ và thế giới của người Đan Mạch, cả cái thế giới mà ngày nào tôi cũng phải kiểm tra những cột chiết xuất, toàn bộ cái thế giới ấy biến mất trong suốt khoảng thời gian ánh sáng tỏa rạng bên trong chúng tôi, cái tia chớp thoáng chốc soi tỏ cuộc đời như một quả pháo sáng.

Winona có cách nhìn nhận và xử lý mọi việc rất thẳng thắn. Sau khi khoác trở lại lên người bộ áo liền quần rồi châm một điếu thuốc, nàng bảo tôi: “Khi nhìn thấy anh quay lại căn cứ thủy phi cơ sáng nay, lập tức em đã nghĩ: mình sẽ sống đến hết đời với chính người đàn ông này. Giờ thì chúng ta lên máy bay thôi. Anh đóng cửa cẩn thận và đừng quên cái túi xách đấy.”

Winona lái chiếc Beaver lượn một vòng hẹp trên mặt nước, men quanh những hòn đảo theo cái cách mà một tay chèo vẫn làm khi ngồi trên xuồng, quấy rầy cuộc hội họp của mấy chú rái cá, vài chú chim di cư mệt mỏi, rồi nhắm thẳng hướng Nam, nhả một đợt xăng vào các vòi phun trong khối động cơ R985 Wasp Junior, và 450 mã lực của động cơ 9 xi lanh hình ngôi sao truyền sức mạnh của chúng đến cánh quạt hai cánh Hamilton Standard, bộ phận chịu trách nhiệm kiên trì phá vỡ sức cản của không khí để đưa chúng tôi trở về Montréal, chiếc túi đeo chéo trên tay, còn hai trái tim thì vắt vẻo trên vai sẵn sàng trao gửi.

Trong suốt cuộc hôn nhân kỳ lạ kéo dài mười một năm của mình, tôi không nghĩ mình đã có khi nào ngừng yêu Winona Mapachee, dù chỉ trong một hơi thở. Từ cái ngày bên bờ hồ ấy, nàng đã trở thành một phần của da thịt tôi, tôi mang nàng trong mình, nàng sống, suy nghĩ, cử động trong tim tôi, và cái chết của nàng cũng chẳng làm thay đổi điều gì.

Vài tuần sau, tôi đến gặp Noël Alexandre để cho ông biết ông đã hai lần bẻ hướng dòng chảy cuộc đời tôi. Lần đầu là bằng việc giao cho tôi trông nom tòa nhà như con tàu chở khách ấy; và sau đó, là việc tặng cho tôi một chuyến đi chẳng khác nào chuyến đi nghỉ tuần trăng mật trên chiếc Beaver bên bờ hồ Sacacomie. “Anh kết hôn rồi sao, Paul?” Đúng là tôi đã kết hôn. Thực ra, tất cả phụ thuộc vào quan điểm mà mọi người dùng để xem xét sự kết hợp giữa chúng tôi. Về mặt hành chính, Nữ hoàng ở Luân Đôn[3] và người đồng cấp ở Paris hẳn sẽ chỉ coi chúng tôi là những concubini, một danh từ La tinh mà ta có thể dịch ra thành “bạn chung giường”, và về bản chất thì điều này không có tính chất bêu riếu cũng không hoàn toàn sai. Nhưng nếu ta đặt mình trước ánh nhìn của vị tù trưởng người Algonquin Tessouat của bộ tộc Kichesipirini, thì không còn chút nghi ngờ nào nữa, mặc dù đã qua đời từ năm 1636, con người thông thái vĩ đại của quốc gia Anh điêng ấy sẽ tuyên bố rằng chúng tôi, tức Winona và tôi, là vợ chồng của nhau. Đó chính xác là những gì người phối ngẫu của tôi đã giải thích với tôi khi mà, sau một thời gian chung sống, tôi hỏi nàng có muốn chúng tôi kết hôn với nhau không: “Nhưng chúng ta đã kết hôn rồi còn gì. Đối với người Algonquin, không có hợp đồng hôn nhân cũng không có thề thốt. Ở chỗ chúng em, người này sống với người kia, và người này sống vì người kia. Khi không còn thỏa mãn với việc ở cùng nhau nữa, chúng em chia tay.” Thế đấy, chỉ với bốn câu nói súc tích, cả Nữ hoàng Anh lẫn Common Law[4] của bà đã bị hoàn trả về hòn đảo ẩm ướt của họ.

Trong mắt tôi, Winona đại diện cho sự cô đọng tuyệt vời của hai thế giới cổ xưa. Từ người mẹ Ireland, nàng thừa hưởng cái sức mạnh nhào trộn đất đai cũng giống như cuộc đời, san bằng mọi chướng ngại như thể mỗi ngày đều do chính đôi tay nàng tạo ra. Vui tươi, hạnh phúc, với tấm lòng ngay thẳng trong vắt, nàng lại còn có thêm cái mối ngờ vực truyền kiếp dành cho người Anh. Từ phần gốc gác bản địa, nàng vẫn giữ được khả năng hòa nhập vào thế giới vô hình, hòa mình với nó, đọc những thông điệp của gió, thấu hiểu những bức rèm mưa, lắng nghe tiếng cây cối kêu lên kẽo kẹt. Nàng lớn lên trong hành lang của những huyền thoại, những câu chuyện nâng đỡ tinh thần giúp tái dựng nguồn gốc của thời gian, những câu chuyện kể rằng chó sói đã dạy con người biết nói, rằng chúng đã dạy con người biết yêu, biết tôn trọng lẫn nhau và làm chủ nghệ thuật sống theo cộng đồng. Rồi cả lũ gấu. Cả lũ tuần lộc. Chúng chính là tổ tiên của chúng ta, cũng như đại bàng, như cây trong rừng và như cỏ trên đồng nội. Tất cả muôn loài đều ăn trên cùng một mảnh đất ấy, và khi đến lúc, mảnh đất ấy sẽ lại ăn chúng ta.

Trên thực tế, ngoài vài lát cắt trong bộ não là còn mang đậm nét Algonquin, Winona cũng là một phụ nữ thực tế sống trong bụng những chiếc phi cơ và rờ rẫm các mặt cánh mỗi ngày để kiểm tra khung sườn của chúng.

Khi ngắm ảnh vợ mỗi sáng, tôi không bao giờ biết được liệu mình đã yêu một cô nàng Ireland ở Galway hay một người đàn bà da đỏ ở Maniwaki. Cũng giống như ánh sáng rực rỡ ở Skagen, các đường nét trên mặt nàng có thể thay đổi theo từng giờ, và mỗi phần gốc gác của nàng lại thắng thế phần kia vào một thời điểm khác nhau. Khi tỉnh giấc, mái tóc vàng đồng và đôi mắt trong veo như đưa nàng thẳng về phòng đợi trong nhà một gia đình người Ireland, nhưng vào thời khắc cuối chiều, những luồng ánh sáng là là mặt đất lại cho thấy dấu ấn của người Anh điêng trên màu da, trên những đường nét của khuôn mặt và trong nét quyết đoán của ánh mắt nàng. Tôi nhấm nháp tính chất hai mặt ấy, kín đáo sống cùng lúc với hai người phụ nữ, tìm nguồn an ủi ở người này những khi người kia lạnh lẽo với tôi. Chưa, chưa có một giây phút nào tôi ngừng yêu Winona Mapachee.

Cuộc sống của tôi trong tòa nhà bị xáo trộn một thời gian khi nàng quyết định chuyển đến sống trong căn hộ nhỏ bé cùng tôi. Đúng là chúng tôi thiếu chỗ, nhưng sự gần gũi này chỉ có một hậu quả duy nhất là khiến chúng tôi càng xích lại gần nhau hơn nữa. Rời khỏi căn hộ mỗi sáng sớm để nghe bệnh cho hệ hô hấp của tòa L’Excelsior trở nên khó khăn hơn, và về nhà vào tối muộn, sau nét chấm phá cuối cùng dành cho các tác phẩm của người quản gia, trở nên có vẻ khá vô bổ đối với tôi. Cùng lúc chăm lo cho một tòa nhà và một người phụ nữ, vừa o bế chừng hai chục bà góa lại vừa chiều chuộng một người vợ, quả là một việc khó khăn. Giờ giấc của Winona thay đổi theo mùa, giống như những thay đổi của địa hình hạ cánh, tại Montréal, nơi nàng đậu xuống trên phao, bánh xe hoặc, vào mùa đông, trên đôi càng trượt. Chúng tôi tạo thành một cặp đôi có ngày làm việc mềm dẻo linh hoạt đôi khi vượt quá những gì cả hai từng mong muốn. Nhưng giống như những gì Kieran Read từng dạy, từng khuyên, tôi luôn làm hết sức mình, sao cho vào ngày an táng tôi, Winona có thể, trước mặt các nhân chứng, khiến cho công ty bảo hiểm của chúng tôi hiểu rằng, trong một “gia đình có đời sống tình dục chung thủy”, nàng chỉ biết đến “những lần quan hệ thỏa mãn và thường xuyên”.

Chính trong những năm chúng tôi mới kết hôn, mọi việc bắt đầu thay đổi ở L’Excelsior. Dân cư của nó già đi. Những người về hưu bây giờ đã chớm đến giai đoạn cuối cùng trong cuộc đời. Họ mất cả đống những thứ nhỏ nhặt, quên chìa khóa, quên đồ đạc bên bể bơi, lo âu vì những chi tiết vặt vãnh, và đôi khi gọi tôi vào buổi tối, vì tưởng rằng họ nghe thấy những âm thanh kỳ lạ trong đường ống thông gió. Họ già đi. Không phải tất cả họ đều chết vì già, nhưng ai nấy đều chịu tác động của tuổi tác.

L’Excelsior chậm rãi bước vào một thời kỳ ảm đạm. Năm 1997, ngay trước lễ Giáng sinh, tôi nhìn thấy Soraya Engelbrecht, một bà chủ nhà đã có tuổi sống ở tầng sáu, đi xuống sảnh, lúc khoảng 22 giờ, trên người chỉ mặc chiếc áo ngủ, và ngồi vào một chiếc ghế bành trong phòng chờ. Bên ngoài, cái lạnh khiến những bông tuyết đóng bằng ngay từ lúc chúng còn đang rơi. Lúc ấy tôi đang hoàn tất việc trang trí và treo đèn ở lối ra vào cho dịp cuối năm, một truyền thống lâu năm mà các chủ nhà rất coi trọng. Tôi liền bỏ dở công việc và đi đến chỗ bà già. Bà nhìn tôi thật ân cần và dịu dàng, nhưng tôi thừa hiểu bà không nhận ra mình. Tôi choàng chiếc áo vét của mình lên vai bà. “Là cháu đây, Paul đây. Cháu sẽ giúp cô quay trở lên nhà. Cô không thể ở lại đây được, cô sẽ bị nhiễm lạnh mất. Nào, để cháu đi cùng cô, cả hai chúng ta lên nhà thôi.” Cửa căn hộ của bà bị khóa, tôi dùng thẻ của mình để mở. Bà Engelbrecht nhìn tôi như thể tôi là ảo thuật gia, rồi đột nhiên nhận ra tôi, bà vừa cảm ơn lại vừa xin lỗi tôi. “Tôi rất xin lỗi, Paul ạ. Tôi xin lỗi về toàn bộ chuyện vừa rồi. Bây giờ, tôi mệt mỏi quá.” Chúng tôi đi vài bước để đến bên giường của bà, bà nằm xuống rồi nhắm mắt gần như ngay lập tức. Tôi kéo chăn cho bà, tắt điện, và đứng lại bên bà một lát, trong bóng tối.

Soraya Engelbrecht từng nói bà không còn người thân thích nào, và tôi không biết phải báo cho ai để nhờ họ đến giúp bà. Một tuần sau, vẫn vào lúc đêm muộn, và trong khi đang ngắm nhìn ô cửa kính để chờ Winona về, tôi nhìn thấy bà già băng qua phố, chân trần, chỉ mặc một chiếc váy mỏng, rồi ngồi xuống băng ghế ở nhà chờ xe buýt. Lúc ấy có lẽ phải đến âm mười độ, và mặt đất phủ một lớp băng mỏng. Khi nhìn thấy tôi, bà cố gắng đứng dậy và đưa tay về phía tôi. “Thật kinh khủng, Paul ạ, tôi nghĩ là William chết rồi. Tôi nghĩ là chồng tôi vừa chết rồi.” Tôi choàng tay ôm lấy bà rồi bế bà đến tận cửa tòa nhà L’Excelsior. Bà nhẹ chỉ như một đứa trẻ. Tôi đưa bà về lại căn hộ rồi ở lại bên bà cho đến khi bà ngủ thiếp đi. Bà ở góa đã cả chục năm nay. Chồng bà tên là Frederic-Edward.

Quãng thời gian khó khăn ấy báo hiệu cho rất nhiều quãng thời gian khó khăn khác nữa. Trong những năm sau đó, công việc hỗ trợ chăm sóc mới mẻ ấy dần dà lấn vào những hoạt động bảo trì tòa nhà hằng ngày của tôi. Được thông báo về tình trạng của bà Engelbrecht, Noël Alexandre liên hệ với văn phòng trợ giúp xã hội, và theo ý kiến của chuyên gia y tế, họ đưa Soraya đến cơ sở chuyên chăm sóc người già. Tôi đã chuẩn bị vài món đồ để bà không phải thiếu thứ gì trong ngôi nhà mới, và trước lúc rời đi, bà bắt tôi phải hứa là sẽ thỉnh thoảng lên căn hộ của bà để tưới cây. Khi đội y tế đến đón bà, tôi tiễn bà ra tận xe cứu thương. Rồi tôi quay trở lên căn hộ, đóng hết những gì cần đóng và sập cửa, để lại sau lưng tất cả những gì từng là cuộc sống của bà.

May mắn thay, mỗi tối tôi đều gặp lại Winona. Còn nguyên vẹn sau ngày làm việc của nàng, chất chứa đầy ion âm, những hạt anion giúp rửa sạch tâm hồn, được tôi rèn nhờ toàn bộ vẻ đẹp tích tụ ấy, những khung cảnh bất diệt cách xa tuổi già và những nhà dưỡng lão đến hàng trăm dặm, cách xa cái thế giới nhỏ bé bảy tầng đang đến hồi cuối của tôi đến hàng ngàn dặm. Trong ngôn ngữ của tổ tiên nàng, Winona có nghĩa là “con gái cả”. Hơn bao giờ hết, đối với tôi, Winona trước hết có nghĩa là duy nhất.

Quãng thời gian cuối những năm 1990 vẫn in đậm trong tâm trí tôi như một thời kỳ di tản, với những cuộc ra đi của nhiều chủ nhà, ít nhất cũng khoảng mười lăm người, những người không còn đủ khả năng thể chất hoặc tinh thần để cáng đáng cảnh cô độc của họ bất chấp những thảm cỏ lùm cây được chăm sóc kỹ càng, làn nước bể bơi vừa dịu dàng vừa ấm áp, tất cả các loại máy móc đều hoạt động trơn tru, và một viên quản gia lúc nào cũng sẵn sàng có mặt. Rất thường xuyên, tôi đi chợ hộ người này, mua thuốc giúp người kia, đồng thời trông chừng bộ tứ bà góa cuối cùng trong tòa nhà, những người đang bấu víu vào cuộc sống bằng những chiếc móng tay sơn bóng. Tôi biết rằng tất cả những thứ này rồi sẽ vỡ nát một ngày nào đó, nhưng khi chậu rửa nhà họ bị rỉ nước hoặc phải thay chụp hút mùi, tôi vẫn vội vàng leo thang lên để làm việc, để trấn an họ, để nói với họ rằng tôi đang ở đây. Sau toàn bộ từng ấy thời gian dành cho ngôi nhà rộng lớn này, tôi nhận ra rằng mình gắn bó với tất cả những người sống trong nó, và rằng, theo một cách nào đó, theo cách của tôi, tôi yêu quý họ.

***Line Note Zone***

Chú thích:

[1] Bồi thường thiệt hại tinh thần - tiếng Anh trong nguyên bản.

[2] Maurice Boucher là thủ lĩnh băng Nomads, chi nhánh của băng đảng tội phạm mô tô Hells Angels ở Québec. Biệt danh “Mom” (Mẹ) gắn với tên này xuất phát từ cuốn sách tiểu sử cùng tên, do nhà báo điều tra Normand Lester cùng cựu cảnh sát Guy Ouellette viết về hành trình tha hóa của tên tội phạm khét tiếng này.

[3] Canada thuộc Vương quốc Thịnh vượng chung và có nữ hoàng Elizabeth I là vua trị vì, đa số các quốc gia thuộc Vương quốc đều là các thuộc địa cũ của Đế quốc Anh.

[4] Thông luật - tiếng Anh trong nguyên bản. Đây là hệ thống pháp luật phát triển từ những tập quán, bắt nguồn từ nước Anh.