← Quay lại trang sách

9. Ngay trước bóng tối

Kể từ sau cuộc nói chuyện với ông giám thị, Patrick Horton không còn như trước nữa. Dường như gã quan tâm hơn đến những vụ việc trong thế giới xung quanh mình, và đặc biệt, sáng nay, đến cách thức các ngân hàng thỏa thuận với nhau để tàn phá tương lai chúng tôi. “Mẹ kiếp, mày xem cái này chưa? Chuyện những khoản cho vay dưới chuẩn vẫn đang tiếp diễn. Họ vừa đưa ra bản tổng kết đầu tiên cho thấy những thứ ngớ ngẩn ấy khiến ta phải trả giá bao nhiêu. Mày có biết đám già về hưu người Mỹ ấy, họ đã bị hút mất bao nhiêu tiền không, với mấy đồng lương hưu của họ? Nào, nói đi, nói xem. Nào, nói một con số đi, mẹ kiếp. Mày đoán sai toét rồi, anh bạn ạ. 2.000 tỷ đô la. Thậm chí tao còn không biết phải viết bao nhiêu số không đằng sau số hai thì mới đúng nữa. 2.000 tỷ đô la, thế đấy, đấy là với đám người Mỹ. Mày hình dung xem trên toàn thế giới thì thế nào? Không đùa được đâu. Mày giáng một cái tát vào một thằng con hoang xứng đáng ăn tát, thế là mày lập tức đi bóc lịch hai năm. Những kẻ kia, chúng càn quét các sòng bạc bằng tiền của mày, hạ đo ván cả thế giới và sau đó, ung dung chia chác nhau ở Acapulco, nơi chúng vui vẻ với lũ gái gọi. Mẹ tao có gửi tiền cho cái đám khốn nạn ấy, không phải ức vạn gì đâu, nhưng đối với bà, hẳn cũng là một con số đáng kể. Cái gã ở ngân hàng đã nói với bà rằng tất cả đều đổ sông đổ biển hết rồi. Rằng mọi người ai cũng phải qua cái đận ấy, rồi hắn không ngừng lặp đi lặp lại mỗi một chuyện suốt nhiều ngày liền. Đổ sông đổ biển. Mày ấy, mày có gửi tiền nong gì theo cái kiểu đó không?”

Không, Patrick ạ. Tôi chưa bao giờ bỏ, dù chỉ một đô la, vào những cỗ máy cờ bạc đó. Winona và tôi sống theo kiểu ngày nào biết ngày ấy. Chính chúng tôi phải làm việc, chứ không phải tiền của chúng tôi. Và những gì chúng tôi không tiêu đến vẫn nằm ngủ ngay trong Ngân hàng Montréal trên phố Saint-Jacques.

“Mày có tính được như thế là mua được bao nhiêu chiếc Harley không, hả mày, 2.000 tỷ đô la ấy, nếu tao tìm được cho mày giá bán chính xác của một con Fat Boy?” Bất chấp mối quan tâm hết sức mới mẻ đối với cái vũ trụ mà gã đã quyết định tham gia kể từ lúc này, vẫn đến một thời điểm mà óc hư cấu trong Patrick đuổi kịp và xô đổ thực tế. “Về cái món tính toán, thao tác đó, tất tật những thứ ấy, tao nghĩ rằng tao vẫn xoay xở được, nhưng với những con số không thì, cầm chắc là tao sẽ rối trí.” Với Patrick, thế giới cùng những khủng hoảng và bất hạnh của nó luôn có thể tìm hiểu, diễn giải và hiệu chỉnh dựa vào một giá trị tham khảo ổn định duy nhất trên đời, chiếc Harley “Fat Boy”.

“Mày biết đấy, khi tao đọc những thứ như thế này, về chuyện của đám ngân hàng và tất cả mớ rác rưởi xung quanh ấy, tao thường tự nhủ rằng có biết bao nhiêu điều tao chẳng hiểu gì sất trong toàn bộ những cỗ máy kinh tế, chính trị ấy, và rằng tao chẳng việc gì phải nấn ná với chúng làm gì, tao đã tụt lại quá xa. Những lần khác thì ngược lại, tao cố gắng bấu víu, cố gắng tự nhủ rằng tao càng biết nhiều thứ thì chúng càng ít có cơ hội đánh lừa tao, trong việc bỏ phiếu hoặc trong việc đầu tư tiền. Mặt khác, ngay lúc này, vấn đề đã được giải quyết, tao chẳng có xu dính túi nào.”

Chính vào khoảng cuối mùa hè năm 1999, tôi được gọi đến bên bể bơi của tòa L’Excelsior. Noël Alexandre vừa lên cơn khó ở tại đó. Ông nằm dài trên mặt đất, hai mắt dường như đang tìm kiếm một khuôn mặt, một điểm mốc nào đó để nhắm vào. Tôi đưa tay nắm lấy tay ông và nói với ông tất cả những điều vô nghĩa lý chợt nảy ra trong óc ta khi nỗi bất hạnh chợt ập đến ngay lúc ta đang làm việc, trong khi ta đang tìm kiếm cái đầu khớp nối cho cờ lê ngoàm.

Tôi đi cùng ông trên xe cứu thương, vẫn không rời tay khỏi bàn tay mà ông đã chìa ra cho tôi biết bao lần.

Tôi chỉ quay về tòa nhà khi trời đã tối. Không còn ai bên bể bơi, cánh cửa phòng kỹ thuật vẫn mở, cái đầu bịt vẫn đang chờ khớp nối trên chiếc cờ lê ngoàm.

Trong căn hộ của chúng tôi, Winona đã về. Trên ghế xô pha, nằm bên cạnh nàng, một cô chó nhỏ có bộ lông màu trắng đang ngủ, thân hình cuộn tròn như một quả cầu. “Em tìm thấy nó chiều nay, nó bị bỏ rơi bên bờ hồ Manitou phía Sainte-Agathe-des-Monts. Nó đói run cả người, chân lại còn có một ổ áp xe. Có lẽ nó chừng sáu, bảy tháng tuổi. Chúng ta sẽ giữ nó lại. Trông cứ như một cô sói nhỏ.” Nouk không phải chó sói, cũng không phải chó cảnh, mà là một con vật tuyệt vời, tinh tế, hiếu kỳ muốn khám phá và tìm hiểu về thế giới, quan tâm đến những phiền muộn của chúng tôi mà nó đoán biết trước cả khi chúng tôi cảm thấy. Rất nhanh chóng, cô chó trở thành một phần không thể tách rời trong cuộc sống của chúng tôi, nơi nó hòa nhập với một sự thoải mái đến ngạc nhiên, nhảy lên chiếc Beaver khi cần đưa một tay câu đến với đàn cá của anh ta, hoặc chạy bên chân tôi trong công viên Ahuntsic, khi mà, sau một trận tuyết rơi, cô nàng lăn trong lớp bụi mịn ấy cho đến khi bộ lông dính đầy món quà của mùa đông khiến nó trở nên to xù, rồi vừa khụt khịt vừa tung tăng rải rắc cái đám mây bông tuyết ấy trong bầu không khí lạnh băng.

Nouk ăn với chúng tôi, xem phim với chúng tôi rồi ngủ bên cạnh chúng tôi sau khi đã lăn tròn bốn hoặc năm vòng, giống y như những gì tổ tiên loài chó đã dạy cho nó, theo những nguyên tắc của giống loài và những quy luật của núi rừng.

Buổi tối, trong lúc chúng tôi cùng chờ Winona về, Nouk thường đến sát bên tôi rồi dụi cái mõm của nó vào vùng giữa cánh tay và sườn cụt của tôi. Và trong cái hang tối nơi không gì có thể đến được ấy, cái hang tối mà chỉ mình nó biết đến ấy, cô nàng khiến tôi hiểu ra cả một đống những thứ mà con người thường rất khó giãi bày. Đôi khi nó mở hé một mắt nhìn về phía tôi, chỉ để báo trước với tôi rằng lúc này, nó sẽ im lặng và ngủ một chút. Có biết bao nhiêu ý thức và lòng trung thành trong cái sinh vật nhỏ bé ấy, đến mức mà theo thời gian, tôi đã có thói quen trò chuyện với nó giống hệt như với một con người, cùng nó chia sẻ nhịp điệu và những lộn xộn mỗi ngày của mình. Và đáng ngạc nhiên nhất là điều ấy chẳng có gì phi lý. Tôi giãi bày tâm sự trong góc của mình, còn Nouk lắng nghe và thấu hiểu tôi theo cách riêng của nó. Cái nỗ lực mà hẳn là nó đã thuận tình bỏ ra để giải mã thứ ngôn ngữ pha tạp của con người, đến lượt tôi thực hiện để nhận biết tất cả các kiểu tiếng sủa cũng như đọc ngôn ngữ cơ thể của nó. Giống như trong mọi việc, sau giai đoạn học hỏi, tôi đã đạt được kết quả tương đối đáng khích lệ, cho phép chúng tôi xử lý những điều cơ bản trong cuộc sống hằng ngày, bởi vì lúc này, chúng tôi đã nói cùng một thứ ngôn ngữ. Nó hiểu tôi tường tận, tôi quan tâm đến nó, với vô số cử chỉ dịu dàng mà ta thường làm một cách tự nhiên khi ta yêu một ai đó.

Noël Alexandre quay trở lại L’Excelsior sau chừng chục ngày nằm viện. Thứ mà chiếc xe cấp cứu trả lại cho chúng tôi chỉ là một cái vỏ mỏng manh được người ta nhồi một chút sự sống vào bên trong. Từ khuôn mặt lốm đốm vết đồi mồi gầy hóp đi của ông, giờ đây nhô rõ hai xương gò má, hai vệt xương hàm, vòng cung của đôi hốc mắt. Thái dương ông hõm sâu, và trên làn da cổ, ta gần như không thể đoán nhận được những mạch đập yếu ớt của trái tim ông.

Noël Alexandre đã bị trả về L’Excelsior để chết ở đó.

Tôi kê chiếc giường có gắn các thiết bị y tế cùng dây truyền dịch của ông ngay đằng trước ô cửa kính mà đám cành cao của những cây phong dường như muốn xuyên thủng để lách vào nhà. Các y tá ghé qua căn hộ của ông ba lần mỗi ngày để tận tình chăm sóc cho ông, còn tôi, cả đêm lẫn ngày, kết nối với Noël bằng một sợi dây vô hình hoạt động dựa vào cả phép mầu của ngành điện tử lẫn phép mầu của tình cảm gắn bó. Chỉ cần Noël ấn vào một chiếc nút báo động nhỏ mà ông giữ trong lòng bàn tay, tôi sẽ bỏ mặc tất cả những công việc bảo dưỡng bảo trì để đến với ông.

Chuông báo động reo vang nhiều lần, và mỗi lần tôi lại chế được cho ông ảo tưởng về một tình trạng tiến bộ hơn đôi chút.

Thế rồi một ngày, nó không còn kêu nữa.

Trong suốt những năm ấy, Trưởng ban, theo cách tôi gọi ông, đã thành công trong việc mang lại một tâm hồn và một trí tuệ cho cái tòa nhà này, và rốt cuộc nó trở nên giống ông, dành cho mỗi người một bầu không khí ân cần, che chở và tự do. Chỉ bằng thái độ của ông, và bằng dũng khí khi cần thiết, Noël Alexandre đã lập kỳ tích trong việc điều tiết hoóc môn của sáu mươi bảy cư dân đồng chủ sở hữu còn lại, thường là được thôi thúc bởi những mong muốn và tình cảm đối lập nhau, thuyết phục mỗi người thể hiện sự tôn trọng và bao dung đối với người khác. Ông sử dụng kỹ năng và những phương cách sáng suốt của riêng mình, điều hành ngôi nhà chung của chúng tôi theo cách thức hết sức thông minh, cho đến khi nhiệm kỳ của ông chấm dứt.

Ngay trước khi thiên niên kỷ kết thúc, vài tháng trước phần còn lại của thế giới, chúng tôi đã bước sang một thời kỳ khác, và đương nhiên chúng tôi chẳng biết gì về nó, nhưng đã có điều nhỏ bé nào đó lảng vảng trong không khí khiến chúng tôi tin rằng về rất nhiều điểm, nó sẽ bớt cao quý, bớt dịu dàng và bớt sung túc so với thời kỳ trước đó.

Vào ngày áp chót của năm, ngày 30 tháng Mười hai, đã diễn ra cuộc họp toàn thể các đồng chủ sở hữu, trong đó bản tổng kết chi tiêu được công khai, và nhất là, vào cuối cuộc họp, người ta tiến hành bầu trưởng ban mới cho ban quản trị. Kể cả Kieran Read, toàn bộ cư dân đều tham gia họp và bỏ phiếu. Ba ứng cử viên. Louis Angelin, đại diện cho trường phái cũ, tay cú vọ ở tầng bốn, quan tâm đến chi phí vận hành bể bơi, riết róng trong việc chăm sóc các thảm có, nhà thực vật tồi, gắt như mắm. Edouard Sedgwick, made in New-England, cư dân mới đến, theo trường phái mới, xe hơi mới, vợ mới, và có vẻ là cuộc đời mới, bởi vì ông ta là cựu cư dân của tòa Outremont sang trọng, ngày nay đã bị hạ cấp xuống thành cư dân ở tầng sáu, trong một căn condo ở Ahuntsic. Yêu cầu đầu tiên của ông ta vào ngày chuyển đến L’Excelsior: bản báo cáo mới nhất của ban quản trị. Và cuối cùng là Madeleine Brigg, hội viên được nhiều người thèm muốn trong câu lạc bộ ở tầng trên cùng, chừng sáu mươi tuổi, đã được tân trang, hài hước đến tàn khốc, một phụ nữ ngọt ngào, khó đoán, vừa có đầu óc vừa rảnh rỗi, phụ trách bộ phận Sưu tầm ở MAC, tức bảo tàng Nghệ thuật Đương đại Montréal. Lúc nào cũng thấy tòa nhà quá đỗi buồn tẻ. Và mong muốn đặt những bức điêu khắc của Tinguely gần như khắp khu vườn. Là người kỳ cục, tuyệt đối không đủ khả năng quản lý một tòa nhà như L’Excelsior, dù sao cũng tuyệt vời để sống mỗi ngày.

Mỗi ứng cử viên có mười lăm phút trình bày ngắn gọn về số phận mà người đó sẽ dành cho tòa nhà. Không gây ngạc nhiên, Angelin bàn về những loại hạt giống và phân bón dành cho bãi cỏ, về việc phủ xanh những khu vực chung tại tầng trệt, cửa ra vào, không quên việc giám sát các chi phí đun nước và bảo trì bể bơi. Brigg cho chúng tôi một bài giảng lịch sử ngắn gọn về nghệ thuật trong các “cỗ máy, hoạt động và tiếng ồn” rồi chia sẻ với chúng tôi sự phấn khích của bà với một môi trường kích thích hơn, với một khu vườn rải rác những tác phẩm của Tinguely (1925-1991), đương nhiên. Hoặc nếu không được như thế, bởi vì lúc nào chúng tôi cũng thiếu tiền đầu tư, thì sẽ dùng tác phẩm của các nghệ sĩ điêu khắc trẻ tuổi ở Canada mà tòa nhà có thể mua được, và khoản chi phí này hẳn là có khả năng được miễn thuế. Một ai đó nói: “Nhưng chúng ta không phải trả thuế, vì có thu được khoản lợi nhuận nào đâu.” Brigg liền gạt bỏ lập luận ấy bằng một cú hất cằm đầy nghi hoặc, rồi ngồi xuống.

Ngay trước khi ông ta mở miệng, ngay trước khi ông ta phát ra dù chỉ một lời, tôi đã biết rằng ông ta sẽ được bầu. Toàn bộ nghi trượng của một tay công tử. Hình mẫu lý tưởng của một tay gian giảo xảo quyệt, một con chó rừng ranh mãnh. Với khối kỹ năng của thời hiện đại, pha trộn giữa suồng sã và cao ngạo, giữa chuyên môn và khinh mạn, Edouard Sedgwick chính là người dành cho tòa nhà, tay vô lại nhiệt thành mà Nouk và tôi đã đánh hơi thấy khi còn cách xa cả trăm bước, ông ta tự giới thiệu mình như “người bảo đảm cho sự thoải mái của tất cả mọi người, quyết tâm trông nom chu đáo tất cả các khoản chi để mỗi đô la đều được tiêu một cách có ý thức, và sao cho tòa nhà này, với phương cách quản lý đổi mới, sẽ là ngôi nhà chung của chúng ta.” Amen.

Chiến dịch trồng cỏ của Angelin thu được 14 phiếu, chủ yếu thu hoạch từ vùng đồng bằng rộng lớn của những người theo trường phái Cũ, hẳn là vẫn gắn bó với hoài niệm xanh mướt của thời tuổi trẻ. Brigg gặt hái được 7 phiếu bao gồm phiếu của tôi, phiếu của Read và phiếu của năm cư dân khác tin chắc rằng nếu phải biến mất thì chẳng thà ra đi trong đẹp đẽ. Về phần Sedgwick, với những lời sáo mòn thảm hại, bài thuyết giáo mang hơi hướng công đoàn, ông ta thu được toàn bộ số phiếu còn lại, trừ một phiếu trắng, tức là khoảng 46 phiếu đã bị nẫng mất một cách vừa ghê sợ vừa gần như mầu nhiệm, bởi một tay khoe khoang khoác lác kiếm được cả con thỏ lẫn chiếc mũ kèm theo. 46 phiếu là 46 nắm đất ném lên mộ Noël Alexandre. 46 phiếu bị nhai rau ráu bởi một gã đàn ông không biết từ đâu chui ra, một gã mà mới tháng trước còn chẳng ai biết đến. 46 phiếu sẽ khiến cuộc sống của tôi ngày càng trở nên khó khăn. 46 phiếu mà tôi đã từng, một ngày nào đó, giúp đỡ hoặc sửa chữa cứu nguy.

Một cuộc trưng cầu dân ý cho thời đại mới.

Những năm 2000 và thế giới đi cùng chúng giờ đây đã thuộc về Edouard Sedgwick.

May mắn thay, Winona và Nouk thỉnh thoảng kéo tôi ra khỏi cái vũ trụ nơi tôi đã sống cuộc sống giam cầm từ quá lâu. Chiếc Beaver đôi khi đưa chúng tôi đi nghỉ cuối tuần trong một căn nhà gỗ cho thuê làm nơi câu cá và thư giãn bên bờ hồ Saint-Jean. Tôi rất thích những chuyến đi chìm đắm trong tiếng ồn của cái khoang lái cũ kỹ đầy khí xả tự do của động cơ này. Tôi đã chế ra một thứ mũ bảo hiểm nhỏ mềm giúp loại bỏ tiếng ồn khỏi đôi tai Nouk. Ban đầu, nó rất ghét thứ phụ kiện ấy, nhưng sau rồi cũng quen. Tôi những muốn những chuyến lang thang trong không trung ấy kéo dài suốt nhiều thế kỷ, để có thời gian nhìn ngắm mọi thứ từ trên cao, nào cây cối nào mặt nước, nào đất đai nào muông thú. Chúng tôi có cảm giác mình đang sống bên trên một thế giới bất tận, cái thế giới đang trải cuốn danh mục những điều đẹp đẽ của nó ra cho đến vô cùng. Tất cả đều bát ngát, từ bầu trời, mặt nước cho đến những khu rừng nơi ta đoán rằng đang ních đầy một sự sống hoang dã vô hình mà một ngày nọ chúng ta đã rời bỏ để đến sống trong những ngôi nhà bảy tầng, trang bị hệ thống liên lạc nội bộ, và một cái hồ nhân tạo nhỏ nơi chẳng bao giờ có ai đến lấy nước để uống. Chúng ta sống và bước đi trên bờ những mặt nước nhân tạo ấy mà chẳng để lại bất kỳ dấu vết nào, có chăng thì chỉ là những mật mã số trên bàn phím.

Những gì tôi nhìn thấy từ chiếc máy bay Beaver ấy không thuộc về bất kỳ ai, không thuộc về một hay hai người nào. Và một đất nước thì thiết gì những thứ ấy? Đó là cái thế giới nơi ta không bắt gặp cả nữ hoàng lẫn nghiệp đoàn. Một vương quốc nơi 46 phiếu chẳng có nghĩa lý gì, chẳng mang lại điều gì, chẳng che chở được khỏi bất cứ điều gì. Với 46 phiếu, người ta không ăn, người ta không tự cứu được mình. Với 46 phiếu, ta thu hút lũ gấu, ta nhử lũ chó sói, hoặc đơn giản là ta chết vì lạnh.

Trong chiếc Beaver ồn đến nỗi tai nghe hoàn toàn không có tác dụng gì, đến mức Winona và tôi đã quen trao đổi bằng ký hiệu. Khi nàng chỉ tay về phía dưới, tôi biết rằng chúng tôi sắp bay xuống và hạ cánh. Đó là thời điểm duy nhất tôi e sợ trong những chuyến đi của chúng tôi. Thời điểm những cái phao chạm vào mặt nước. Bất chấp hình dạng của chúng cùng những lời giải thích về khí động lực học mà vợ tôi thỉnh thoảng lại dành cho tôi, tôi luôn sợ rằng một trong số những phụ tùng ấy, giống như những cánh buồm, bị đâm thủng, và, bị bắn vọt đi do tốc độ cao, sẽ lao đầu xuống trước, kéo toàn bộ máy bay cắm đầu theo, đít chổng lên trời. Chính vì thế, trước khi chạm xuống mặt hồ, tôi luôn giữ Nouk trên đầu gối và ôm siết lấy nó cho đến khi chiếc máy bay khẳng định với tôi rằng chúng tôi đã sống sót, rằng nó đã thực hiện một cú trượt thành công.

Trong một tạp chí chuyên ngành, tôi đã đọc được một tài liệu đáng lo ngại, một nghiên cứu đầy đủ ca ngợi độ bền và vô số khả năng của cỗ máy này, nhưng cũng cảnh báo phi công về việc “do có kích thước nhỏ, dáng xiên, nên khi chở đầy khoang, máy bay Beaver nổi tiếng là đôi khi trở nên phản trắc, và không có bất cứ dấu hiệu nào báo trước cú rơi trệch sắp xảy ra. Cú rơi lộn nhào thường diễn ra đột ngột, và, ở độ cao nhỏ, việc lấy lại độ cao nổi tiếng là mạo hiểm, thậm chí là trí mạng trong một số trường hợp.”

Khi tôi cho Winona xem bài báo này, nàng chỉ nói: “Em biết hết những chuyện đó mà. Mọi người đều biết những chuyện đó, kể từ năm 1946. Nhưng anh thấy đấy, họ thì chỉ viết một lần về máy bay Beaver, còn em thì ngày nào cũng sử dụng nó. Với lại, dù sao, lúc nào em cũng mang theo chim ruồi bên mình.”

Chim ruồi là một chiếc móc treo chìa khóa mà Winona không bao giờ rời. Nàng coi chú chim nhỏ bằng kim loại đó như một kiểu thiên thần hộ mệnh có khả năng bắt một chiếc Beaver phải đi đúng đường. Vợ tôi vô cùng say mê loài chim này, loài chim huyền thoại của toàn bộ vùng Nam Mỹ, loài chim thông báo hàng ngàn tin tức đôi khi trái ngược nhau, con vật trung gian chuyên chở hạnh phúc và thịnh vượng đối với người Taíno, nhưng cũng là nhân viên điện báo của tử thần nếu nó lọt vào trong một ngôi nhà, ở Brazil.

Dù sao, loài chim bé nhỏ này cũng là một bí ẩn của tự nhiên, một cỗ máy khủng khiếp do một chuyên gia khí động lực học bông lơn và cũng là một nhà giải phẫu ranh mãnh thiết kế ra. Con vật có kích thước chừng 5 đến 6 xăng ti mét này sở hữu một quả tim đập 1.260 lần mỗi phút, và những lá phổi hô hấp 500 lần cũng trong từng ấy thời gian. Đôi cánh của nó có thể xoay theo mọi hướng, cho phép nó bay nhanh như nhau, dù tiến hay lùi, dù lên hay xuống, và đạt được tốc độ 100 ki lô mét mỗi giờ trong những tư thế khó tin. Đôi cánh của chim ruồi đập 200 lần mỗi giây, và liên tục giam những bong bóng khí, tạo ra những dòng xoáy theo nhu cầu. Ngoài ra, loài chim này còn là chuyên gia vĩ đại trong việc bay tại chỗ, bay lộn nhào, và sở hữu 6.590.000 đơn vị hồng cầu trong mỗi mi li mét khối máu. Nó cũng có thể di chuyển thân hình chỉ nặng vài gram của mình trên quãng đường 800 ki lô mét, phải ăn tám lần mỗi ngày, và, trước khi đi ngủ, hạ nhiệt độ cơ thể xuống 10 độ đồng thời giảm nhịp tim xuống còn 50 nhịp mỗi phút. Đây chính là loài chim khủng khiếp được vợ tôi giao phó cả sinh mạng lẫn số phận của nàng. Và thế là một chú chim nặng 3 gram chịu trách nhiệm nâng đỡ cho cú rơi bất thần của một chiếc Beaver già nua, to tướng, nặng hai tấn rưỡi. Thế là, mỗi lần nhìn thấy chiếc móc treo chìa khóa của Winona, tôi lại nghĩ đến cha mình, sau khi nghe vợ tôi thổ lộ về tín ngưỡng của nàng, ông hẳn sẽ kết luận rằng hành động tín ngưỡng của một phụ nữ Anh điêng, ngày nào cũng được thử thách trong tiếng ồn của bầu trời, chính là một bài học mang tính cảm hóa đối với một mục sư đeo ống nhòm.

Từ khi ở chỗ ông giám thị về, Patrick chỉ mơ đến một điều: quay trở lại đó. Vài ngày trước, gã đã đưa ra yêu cầu về việc ấy với quản giáo, nhưng cách làm ấy của gã không mang lại kết quả gì. Có vẻ gã đang nung nấu một ý định trong đầu. Gã liền ngồi vào bàn, viết một bức thư cho Sauvage. Gã đã vò nhàu vài tờ giấy trước khi đạt được kết quả mong muốn. Rồi, nhét điều bí ẩn nhỏ bé của mình vào trong chiếc phong bì, gã giao bức thư cho một lính gác, để anh ta chuyển nó đến tay người nhận. Bốn ngày sau gã nhận được thư trả lời. Một phong bì lớn bên trong chứa đựng chính xác thứ mà gã yêu cầu. “Mẹ kiếp, Sauvage đúng là một công tước. Tao không nói đùa đâu, tay này khủng thật. Mày tưởng tượng xem, tao gửi cho hắn mấy dòng, để hỏi hắn xem liệu hắn có thể kiếm cho tao cuốn catalog mới nhất về những mẫu xe cùng phụ kiện của hãng Harley không. Kết quả là, hắn gửi cho tao đây: cuốn catalog những mẫu xe và phụ kiện của năm nay. Thế này có nghĩa là, ngay khi rời văn phòng, hắn đã đi tìm thứ đó cho tao. Mẹ kiếp, chắc chắn là hắn học trường dòng ra, không thể khác được. Tao sẽ viết mấy lời cảm ơn hắn.” Gã ngồi vào bàn và bắt đầu viết một bức thư, công việc khiến hắn bận rộn đến cả tiếng đồng hồ. “Để bắt đầu, tao nên viết ‘Manu thân mến’ hay ‘Thân gửi ông Sauvage’ nhỉ? Mà có gì đâu chứ, giữa dân chơi mô tô với nhau, chẳng có gì khác biệt cả, không có tù nhân cũng chẳng có giám thị, ai cũng như ai, tất cả đều có cùng một khẩu hiệu khắc trên sườn xe Live to ride, Ride to live[1]. Manu tao thấy thân thiện hơn, có chất Harley hơn. Thân gửi ông, nghe hãm quá, nghe như cái thằng gửi cho mày hóa đơn tiền điện ấy. Dù sao hai chúng tao cũng đã nói chuyện với nhau rất lâu. Mày mà nhìn thấy mặt hắn lúc hắn kể với tao về con Heritage của hắn, thì mày sẽ hiểu rằng đương nhiên ‘Manu’ sẽ hay hơn là ‘Thân gửi ông’. Nào, giúp tao với, mẹ kiếp, Manu hay Thân gửi ông?”

Tôi đã thuyết phục được gã rằng cách viết thứ hai đúng là không Cubic inch[2] bằng, nhưng lại có lợi thế là phù hợp với thông lệ hơn. Và rằng hơn thế, nó đảm bảo không gây sốc cho người nhận, để ngỏ khả năng cho một yêu cầu khác. Lập luận cuối cùng này đã kết thúc vụ việc: “Mẹ kiếp, mày đúng là đồ quỷ thực thụ, mày ấy, không khác gì những thằng cha chơi cờ tính được trước đến cả mười bảy nước đi. Mày nói đúng. Thân gửi ông Sauvage nghe hợp lý hơn.” Patrick không nhờ tôi giám sát nội dung bức thư, nhưng tôi sợ rằng bản chất của một tay chơi mô tô sẽ trỗi dậy thắng thế, và một cú xưng hô suồng sã bất thần hoặc một “mẹ kiếp” nào đó theo nghĩa ngợi ca tán tụng sẽ xuất hiện, phá hỏng đôi chút nỗ lực kiềm chế của gã.

Bây giờ, khi bức thư cảm ơn đã lên đường đến với người nhận, Patrick lật giở xem từng dòng trong cuốn catalog, thưởng thức nó, nhấm nháp từng mẩu một. Có thể đoán rằng gã đang lắp ghép, trong tâm trí, từng chiếc từng chiếc một, tất cả những phụ kiện đó lên con “Fat Boy” của gã, đánh giá hiệu quả đạt được, rồi lại tháo phụ kiện đó ra để thử lắp một cái khác, một phiên bản khác về mặt thẩm mỹ hoặc cơ khí, những chiếc túi da hoặc một ống xả loại mới, chiếc tay lái sừng trâu hoặc những chỗ để chân thư giãn. Vào lúc này, tôi biết rằng gã đang ở bên trong chiếc két an toàn tinh thần của gã, khóa trái, xoay chìa khóa hai vòng, không thể tiếp cận và đang tận hưởng niềm hạnh phúc hiếm khi thấy được ở gã, đơn độc đến vô cùng, không cha, không ký ức, không tiền án, hoàn toàn thuần khiết và trống rỗng, chỉ sinh ra “để sống và chạy xe mô tô” hoặc đúng hơn là “để chạy xe mô tô và sống”.

Tôi không có thứ đồng cỏ trong tâm trí ấy để thả những suy nghĩ của mình ra cho chúng chạy nhảy. Tôi là một tù nhân toàn vẹn. Bị giam cầm. Nơi này chiếm hữu tôi, và mỗi ngày lại lột của tôi một lớp da. Đúng là tôi vẫn được hưởng những chuyến viếng thăm. Nhưng có những ngày, người chết cũng giống chúng tôi, họ cảm thấy khó sống. Hôm nay, Nouk không đến, cha tôi cũng không. Winona có ghé qua. Nàng không mang theo chìa khóa nhà, không đeo móc treo chìa khóa là con chim ruồi bằng thép. Cũng không muốn trò chuyện cho lắm. Lần này, khuôn mặt nàng đậm nét Ireland đến nỗi nó nhòa lẫn vào với đám bụi nước của đại dương ở Galway và mùi vị của dòng sông Corrib. Tôi nhớ lại rằng một lần, ở Toulouse, không biết nhân dịp gì, cha tôi đã viết một bài thuyết giáo dựa trên than bùn ở Ireland, đồng nhất thứ nhiên liệu hữu cơ hóa thạch đó với chất gì đó mà tôi không rõ, thứ chất phân tầng cuộc sống của chúng ta. Đôi khi, thật khó có thể theo kịp cha tôi trong mê cung những phép đồng hóa bí ẩn của ông.

Bốn tiếng đồng hồ nữa là trời tối. Tôi hy vọng sẽ nhanh chóng tìm thấy giấc ngủ, cái lỗ hồng nhỏ của trí não nơi tôi phải lách vào để có thể đào thoát trong vòng vài giờ. Khi không thể ngủ nổi, khi không thể tìm ra lối thoát, tôi uống chút Lorazepam, với một loại tá dược làm từ lactosa, thứ thuốc này chịu trách nhiệm giải quyết vấn đề cho tôi.

Thỉnh thoảng, tôi nghe thấy tiếng lật giở một trang giấy. Và thế là tôi biết rằng Patrick đang hạnh phúc.

Việc Winona dọn đến ở trong căn hộ của tôi không thực sự làm thay đổi các thói quen của Kieran Read. Chỉ là từ đó trở đi, mỗi khi có nhu cầu tâm sự, ông ghé thăm tôi sớm hơn một chút, và chúng tôi cùng điểm lại tình hình trong thế giới của mình. Ông rất khó chịu với việc Sedgwick được bầu làm Trưởng ban quản trị tòa nhà, vì ông coi ông ta là một gã vừa vô đạo vừa vô lại. “Hắn trình bày chẳng khác nào tờ rơi của nhân viên tư vấn thuế, và tôi có cảm giác hắn sẽ làm cái tòa nhà này loạn hết cả lên. Tôi biết rõ loại người như hắn, ngày nào mà tôi chẳng va chạm với chúng. Lũ cost killer[3]. Chúng sống với những bảng biểu Excel trong đầu, và lúc nào cũng ỉa vấy ra khắp nơi. Anh phải cảnh giác với hắn, Paul ạ. Với tư cách quản gia quản lý ngân sách, chính anh sẽ phải đứng ra chịu trận. Lúc nào hắn cũng sẽ bám theo anh, tính toán lại, kiểm tra lại mọi thứ.”

Thế rồi Winona về nhà, Nouk thể hiện niềm vui được gặp lại nàng, còn Kieran Read, casualties adjuster hơn bao giờ hết, tỏ vẻ sắp rời khỏi căn hộ một cách thiếu nhiệt tình đến nỗi Winona mời ông ở lại ăn tối với chúng tôi. Khi ấy, khuôn mặt ông liền rạng lên vì hạnh phúc và biết ơn, giống như khuôn mặt của một người, ở phút chót, được cứu khỏi một buổi tối phải đối diện với chính mình.

Vợ tôi có vẻ bị thu hút bởi những lát cắt nhân tính mà ông trưng bày ra, bên bàn ăn, trước mặt chúng tôi, trong lúc chia sẻ cùng chúng tôi cuốn catalog những quan sát của ông. “Nghề nghiệp mang lại cho tôi một lợi thế lớn. Nó mở ra cánh cửa dẫn đến sân sau của thế giới chúng ta, nơi giá cả một con người được định lượng, nơi người ta mặc cả giá trị của anh ta, nơi mọi thứ đều được quy thành tiền, mọi thứ đều được trả bằng tiền, và nơi người ta nhắc đến, một cách rành mạch, những căn nguyên mà lẽ ra chúng ta không bao giờ nên biết đến, những câu chuyện mà đôi khi ta khó có thể tin được rằng chúng có thể tồn tại. Hồi đó, tôi từng làm trong vụ Ford Pinto, không biết hai người có nhớ vụ ấy không. Vào những năm 1970, Ford sản xuất ra dòng xe ‘compact’ chẳng ra sao đó, rồi rất nhanh chóng nhận ra rằng nó có một lỗi lớn trong cấu trúc. Do bình xăng được làm bằng thứ kim loại vô cùng mỏng, những chiếc xe này dễ dàng bắt lửa nếu bị đâm từ phía sau. Đã có 180 người chết, tất cả đều bị cháy đen trong xe, 180 người bị bỏng nặng và 7.000 ô tô bị cháy thành than. Đối mặt với vấn đề lỗi cấu trúc này, bộ tổng tham mưu của hãng đã yêu cầu các phòng ban trực thuộc tiến hành một nghiên cứu để đánh giá chi phí cho những chỉnh sửa cần thiết. Câu trả lời của các nhà phân tích, nằm trong một bản báo cáo được đặt tên là ‘Pinto Memo-Chi phí/Lợi ích’, nhanh chóng được đưa ra: khoản tiền bồi thường cho các gia đình nạn nhân thấp hơn rất nhiều so với khoản tiền phải chi ra để triệu hồi toàn bộ xe Pinto và thay thế bình xăng có lỗi. Ford liền xếp báo cáo này vào hầm giam dành cho sự lãng quên, và khách hàng của họ tiếp tục bốc khói trong những chiếc Pinto. Cho đến tận một ngày, khi vụ bê bối thôi thúc hãng xe phải tiết lộ các thông số trong những tính toán và lựa chọn tội lỗi của họ. Khi ấy, Ford rút sổ séc ra và giải quyết vụ việc bằng cách cấp 200.000$ cho mỗi nạn nhân, 67.000$ cho những người bị bỏng, và 700$ cho mỗi chiếc xe bị phá hủy.

“Vụ Pinto mãi mãi chỉ là một phần rất nhỏ mà ta có thể nhìn thấy trong cả cái lục địa của giới buôn bán làm ăn này, cái thế giới ngầm nơi mạng sống của những con người thực thụ, hữu hình, được tính toán trên cơ sở những hệ số thuần túy kế toán. Tôi còn nhớ cách đây vài năm, một tu chính án giải quyết những vấn đề này đã được đề xuất lên Thượng viện Mỹ. Ngoài những nội dung khác, nó giải thích rằng sử dụng đô la để xác định giá trị của một cuộc đời, khi phải đưa ra chế định, là một ‘sự xúc phạm sâu sắc đến các tín ngưỡng, các đức tin luân lý, đến đạo đức chung của người dân trên đất nước này’. Tu chính án này còn nêu ra rằng việc sử dụng những tiêu chí về sắc tộc, những nhân tố có tính toán đến thu nhập, bệnh tật, tuổi tác hoặc tình trạng tàn phế, cũng phải bị hủy bỏ. Sau khi đi qua chiếc máy cán nhóm lợi ích của các công ty bảo hiểm, hẳn là thế, tu chính án này đương nhiên là bị bác bỏ và xén nát trong máy hủy tài liệu. Tôi hình dung, Paul ạ, là anh sẽ nói với tôi rằng so sánh này không thích hợp, rằng tôi là kẻ ác ý, nhưng một gã như Sedgwick, tôi nói rất nghiêm túc đấy, hoàn toàn có thể là kẻ đã soạn ra bản báo cáo ‘Pinto/Memo’.”

Đã từ lâu, Nouk sục mõm vào cái hõm trên cánh tay tôi để kể cho tôi nghe một lần nữa, theo cách của nó, về cái ngày một con chim lạ lùng có động cơ đặt chân lên mặt nước của cái hồ nơi nó ở, cái ngày mà một phụ nữ Anh điêng có vẻ bề ngoài của một cô nàng Ireland từ đó bước xuống, đi về phía nó, chìa tay ra với nó, cho nó ăn mấy chiếc bánh bích quy, rồi ngồi xuống bên cạnh nó trong khi nó vẫn còn run lẩy bẩy vì sợ, vì mệt và vì sốt, cái ngày mà người phụ nữ ấy xem xét vết thương của nó, vuốt ve nó một lúc, bế nó lên tay rồi đặt nó bên cạnh cô, trên máy bay.

Đến đoạn này của câu chuyện, Nouk nhấc mõm ra khỏi cái túi đầy che chở và êm ái đó trong một lát, nhìn tôi, và tôi tin chắc mình đã nghe thấy cô chó nói: “Sau đó, tôi mệt đến nỗi, bất chấp tiếng ồn của động cơ, tôi đã ngủ thiếp đi.”

Read khen ngợi các món ăn và cảm ơn Winona đã tặng cho ông một buổi tối “trong gia đình” thực thụ. Tôi hiểu rõ vị adjuster này muốn nói gì, nhưng cảm thấy biểu lộ đột ngột về cái tổ ấm mới mẻ này cũng như thông báo về quan hệ họ hàng thân thuộc mới mẻ này có hơi sớm quá.

Bên trong một tòa nhà hoặc một cộng đồng, nỗi bất hạnh thường đến theo giai đoạn. Trong nhiều tháng ròng, nó sẽ lượn lờ trên các tầng, xem xét từ cửa nhà này đến cửa nhà khác, ngấu nghiến trước hết là kẻ yếu, hủy hoại những người đang nuôi hy vọng. Thế rồi, một ngày nào đó, nó chuyển sang con đường khác, khu phố khác, tiếp tục công việc thủ công của nó một cách mù quáng. Ở chỗ chúng tôi, chuyện đó kéo dài gần một năm. Khoảng cuối năm 2002, đủ loại tai ương bắt đầu đổ xuống L’Excelsior, các máy móc, cây cối và con người ở đây.

Mọi chuyện bắt đầu với cơn bão tuyết lớn làm thành phố tê liệt suốt cả chục ngày. Dưới sức nặng của những trận mưa băng giá, mọi thứ đều gục ngã: cột cổng, cáp điện, dây điện thoại, máy biến áp lần lượt nổ hết cái này đến cái khác, và toàn bộ một xứ sở rơi vào bóng đêm. Hệ thống sưởi bị ngắt, các căn hộ nhanh chóng trở thành những phòng lạnh. Các cư dân tìm cách sưởi ấm trong phòng tắm, bằng cách ở lỳ bên cạnh bồn tắm xả đầy nước nóng. Tòa nhà có hai nguồn cung cấp năng lượng. Điện dùng cho hệ thống sưởi đúng nghĩa, và khí đốt cho hệ thống cung cấp nước nóng chung. Mặc áo choàng rồi trùm chăn, trông chẳng khác gì một đám tá điền, các chủ nhà lang thang trong hành lang và những không gian chung, hỏi han tin tức và tìm kiếm chút an ủi. Thang máy không còn hoạt động, những người cao tuổi nhất ở yên trong nhà họ, và tôi xoay xở để mang cho họ chút đồ ăn thức uống. Những người hăng hái nhất cố gắng đến chỗ làm, thách thức thế giới băng giá được tô điểm bằng những thạch nhũ do váng băng chảy từ trên cây xuống tạo thành. Mọi thứ trở nên phi thực. Và tối đến, màn đêm đen đặc. Khắp nơi. Như thể sự sống đã tắt đèn. Thỉnh thoảng người ta nghe thấy một cành cây gãy răng rắc rồi đổ rạp xuống trong tiếng băng vỡ ầm ĩ. Không thể chống chọi lâu hơn nữa với chiếc áo choàng bằng băng, cây bạch dương vàng trong vườn bắt đầu oằn mình, rồi tách làm đôi như bị một chiếc rìu thần thánh xẻ dọc. Sau chừng một tuần tàn khốc, ánh sáng dần trở lại trong khu phố. Những quầng hào quang hy vọng tỏa ra từ chỗ này chỗ kia trên mặt băng. Còn L’Excelsior thì vẫn chìm trong bóng tối. Ngày nào tôi cũng đi đi về về giữa tòa nhà và khu chợ để mua sắm giúp các bà góa và những cư dân cao tuổi nhất. Tất cả các chuyến đều là đi bộ, trên vỉa hè và đường phố bóng loáng như sân trượt băng. Những gói hàng, những cầu thang, lên, xuống, giải thích rằng tôi không thể làm được gì, giải thích lại lần nữa, mở khóa cửa ra vào, rắc cát lên các lối đi trong ga ra và xung quanh sảnh đón tiếp, ngắt toàn bộ hệ thống điện và điện tử, làm tan băng tất cả những gì có thể tan băng, chặt cành của cây bạch dương. Chăm chút cho Winona vì chiếc máy bay không thể cất cánh, và sưởi ấm cho Nouk dường như đang tự hỏi điều gì xảy ra với những người da trắng.

Tôi nghĩ rằng, ở khu phố Ahuntsic, chỗ chúng tôi là một trong những tòa nhà cuối cùng được cung cấp điện trở lại. Và một buổi sáng, cánh cửa các thang máy lại mở ra, những bồn tắm được tháo sạch nước, những ngọn đèn sáng lên, những quạt thông gió lại tiếp tục thông gió. Ống này tiếp ống khác, dòng điện luồn lách giữa các phích cắm và sự sống lại yên vị trong cái tổ kén 21 độ mà hội nghị cư dân đã quy định là nhiệt độ thích hợp cho sự dễ chịu của giống loài.

Cơn bão đã gây ra nhiều thiệt hại và phiền hà, đồng thời cũng làm suy yếu các cơ thể. Trong chưa đầy một tuần, bốn chiếc xe cấp cứu dừng trước sảnh tòa nhà để đưa đến bệnh viện hai bà góa cùng bị viêm phổi kép, một ông lục tuần ở tầng bốn bị nghi nhồi máu cơ tim, và ông Sibelius - một nhân vật ngọt ngào già cả nhưng không rõ bao nhiêu tuổi, xuất thân từ một thế kỷ nào đó không thể xác định, một tay bơi kiên cường, luôn khen ngọi tôi, mỗi lần chúng tôi gặp nhau, về “kết cấu” của nước trong bể bơi - ông bị gãy cổ xương đùi do trượt chân trên dải băng ở vỉa hè đối diện. Trong cái thời kỳ mà đối với cả tôi cũng khá khó khăn đó, tôi không nhìn thấy ở bất cứ nơi nào trong tòa nhà, dù chỉ thoáng chốc, dáng dấp của vị trưởng ban quản trị, người chẳng bao giờ lo lắng gì về tình trạng của cả chúng tôi lẫn mọi thứ trong tòa nhà.

Cuối mùa đông, sau một cơn hấp hối dài phải thở ô xy, một trong số hai bà góa bị viêm phổi, Edmonde Clarence, tắt lịm trong khi một nữ y tá đến kiểm tra để biết chắc là thiết bị hỗ trợ y tế của bà hoạt động tốt. Vài phút sau, con gái bà đến L’Excelsior, nhưng điều khắc nghiệt nhất đã xảy ra từ trước đó rồi.

Lặng lẽ, tất cả những sự kiện này tìm đến tôi. Tôi nhìn thấy cái cộng đồng nhỏ bé của chúng tôi tan rã, và vị trí ở trung tâm cộng đồng đã định sẵn cho tôi là phải chịu đựng những sự kiện ấy. Và đôi khi, vào một số buổi tối, đến lượt tôi gõ cửa căn hộ của Kieran Read để tiết lộ với ông một phần những gì tôi nhìn thấy, những gì tôi nghĩ đến.

Tôi cố gắng giữ Winona ở bên ngoài cái thế giới nhỏ bé chẳng là gì với nàng ấy, hoặc nếu có thì cũng chỉ là cái câu lạc bộ của các đồng chủ sở hữu, và nếu ta nghĩ cho cùng thì những người ấy có lẽ sẽ không sống được lâu trong các khu rừng của nàng.

Chừng ấy mùa đông trôi qua ở đây, giữa những bức tường ấy. Còn cả những mùa thu và mùa hè nữa.

Thời gian trôi đi, và tôi chỉ còn có thể nhìn thế giới từ đỉnh mái nhà hoặc từ đáy bể bơi. Nhiều năm trôi đi, và công việc của một người phục vụ kiểu mẫu tháo dần đi từng ngày của tôi.

Những ngày đầu tháng Bảy được đánh dấu bằng một loạt vấn đề kỹ thuật dường như đã thống nhất với nhau để chặn đứng gần như đồng thời nhiều bánh xe trong cỗ máy của chúng tôi. Đầu tiên là thang máy. Những cánh cửa mở ra, đóng lại, nhưng thang máy vẫn bất động trong khoang. Lỗi bo mạch chủ điều khiển các quy trình lên và xuống của thiết bị. Có vẻ là hậu quả của đám băng đột nhập vào mùa đông, một nửa động cơ của các quạt thông gió bắt đầu bị nóng rồi cháy. Nhiều ngày liền sửa chữa trên mái nhà, nơi vốn là một lò lửa vào mùa này. Cuối cùng, vài ngày sau, toàn bộ các hệ thống mở cửa điện tử trong tòa nhà đều hỏng. Vào buổi tối một ngày mệt nhoài, tôi vừa mới về đến căn hộ thì điện thoại đổ chuông. “Có chuyện gì thế Paul? Lúc này mọi thứ đều hỏng. Mọi người gọi cho tôi để than phiền. Anh đang làm gì thế, anh có làm chủ được tình hình hay không? Phải lập lại trật tự cho mọi thứ càng nhanh càng tốt. Có người nói với tôi rằng anh đã thay hết các quạt thông gió. Toàn bộ những chuyện này sẽ khiến chúng ta tiêu tốn cả một gia tài. Cuối tuần này, anh cho tôi xem các hóa đơn. Mấy gã bảo trì khóa điện đã đến chưa? Không, không đâu, Paul ạ, phải bám riết lấy họ, anh hãy kiên quyết lên, dù sao tôi cũng không làm chuyện đó thay anh được.” Sedgwick. Với toàn bộ những gì là đặc trưng của ông ta. Sedgwick giật dây cương đối với tay quản lý là tôi, kéo anh ta đi đúng đường đúng lối, nhắc để anh ta nhớ ai mới là người dẫn dắt và ai là người đang ngồi trên yên ngựa.

Sự kiện tồi tệ nhất trong cái năm đen tối ấy xảy ra vào tuần đầu tiên của tháng Tám. Để sửa chữa những thiệt hại do mùa đông gây ra ở một góc mặt tiền ngang tầng sáu, tôi đã ủy quyền cho một công ty chuyên nghiệp, họ cử đến ba thợ nề để trét lại những viên gạch ốp đã bị băng làm vỡ. Một tuần làm việc. Họ lắp đặt một giàn giáo hình ống, và cơ quan dự báo thời tiết thông báo rằng thời tiết sẽ tốt cho đến khi hạng mục sửa chữa này hoàn tất, ngoại trừ khả năng rất thấp là có mưa rào.

Vào cuối buổi sáng hôm ấy, tôi đang điều khiển máy cắt cỏ ở khu vực xung quanh lối ra vào chính của tòa nhà. Mặc dù đeo tai nghe chống ồn, nhưng giữa âm thanh gầm gừ của chiếc máy, tôi nghe thấy một tiếng hét.

Anh ta nằm trên mặt đất, trong một tư thế khó hiểu, không hề tương ứng với tư thế khả dĩ của một bộ xương người. Anh ta cố hít thở nhưng khó khăn lắm mới thở được. Tôi không dám đưa cái thân hình trật khớp xương ấy trở lại với trật tự thông thường. Tôi nắm tay anh ta, cử chỉ mà tôi đã thực hiện biết bao lần trong năm. Trên đầu tôi, các đồng nghiệp của anh ta đang hét là anh ta bị ngã. Họ vừa hét về phía tôi vừa cúi người từ trên các lan can của giàn giáo, ở độ cao chừng mười lăm mét. Tôi có quen biết sơ sơ người đàn ông nằm trên mặt đất. Chúng tôi đã trao đổi mấy câu khi anh ta đến đây. Tôi nhớ anh ta đã kể là anh ta sống ở Laval, và ngày nào cũng mất một giờ trên cao tốc Décarie để đến chỗ làm. Một cuộc trò chuyện trước khi bắt tay vào công việc.

Tôi gọi cấp cứu và vẫn nắm chặt tay anh ta, an ủi anh ta bằng những lời vô nghĩa. Đã bao lần tôi kề cận trợ giúp những người ốm và những người hấp hối như thế này, trong thời gian vừa qua? Sau này, Sedgwick sẽ gán cho bản thân trách nhiệm phải nhắc nhớ tôi rằng đó không phải đặc quyền của một quản lý chung. Ở trên cao, các thợ nề sững sờ nhìn chăm chăm xuống cảnh tượng. Mỗi lần hít thở, người đàn ông nằm trên mặt đất chỉ hít được một làn không khí mảnh. Khuôn mặt anh ta ngả sang một thứ màu kỳ cục, bàn tay anh ta vẫn nằm trong tay tôi và co giật từng cơn không đều. Bất chấp cái thân hình bị trật khớp nơi dường như không còn thứ gì ở đúng vị trí, anh ta vẫn cố gắng nhấc đầu lên, mở to đôi mắt, và nói với tôi câu nói cuối cùng của một người còn sống: “Con chó của tôi ở nhà một mình.” Và thế là hết. Gáy anh ta rơi trở lại mặt đất theo cách thức khiến anh ta, trong tư thế nằm dài đó, trông như đang nhìn lên các bạn thợ của mình, ở tít trên cao.

Mặc dù việc đó có vẻ phi lý, nhưng các nhân viên cấp cứu vẫn cố xoa bóp tim, với sự hỗ trợ của máy khử rung tim và giữ thoáng cho nạn nhân. Họ làm theo những gì người ta đã dạy họ, cái công việc thực hiện trong thứ bóng tối trước màn đêm và nhằm hồi sinh những người đã chết.

Với những người đến sau đó để mang xác người thợ nề đi, tôi truyền đạt lại lời nhắn cuối cùng của anh ta, và còn tự cho phép mình nhấn mạnh. Con chó của anh ấy đang ở nhà một mình. Phải báo cho ai đó. Cái khóa trên body bag[4] được kéo lên, và người đàn ông vỡ vụn đó, tối ấy, không trở về khu nhà đông đúc nhộn nhịp nằm bên quốc lộ Décarie nữa.

Lúc 21 giờ, Sedgwick gõ cửa nhà tôi, hùng hổ chẳng khác nào một tay mõ tòa. Ông ta không hỏi tôi làm sao người đàn ông đó lại bị ngã, cũng không hỏi xem anh ấy có đau đớn gì không, liệu có phải báo tin cho ai không. Ông ta cầm độc trong tay bản hợp đồng với hãng bảo hiểm của tòa nhà, và chỉ muốn biết thông tin chính xác về mức độ trách nhiệm của chúng tôi trong trường hợp xảy ra tai nạn lao động với các nhà cung cấp dịch vụ bên ngoài. Khi đã có được những thông tin ấy rồi, ông ta tỏ ra thư thái hơn đôi chút. “Nếu tôi không nhầm, Paul ạ, thì về nguyên tắc, chuyện đã được giải quyết xong, chúng ta vô can. Tốt rồi. Chúng ta chẳng dính dáng gì đến chuyện này. Chính công ty bảo hiểm của chủ công ty có người chết kia phải xử lý hồ sơ. Dù sao, về phần mình, chúng ta cũng phải rút kinh nghiệm về vụ tai nạn này. Lúc nào cũng phải kiểm tra điều kiện hành nghề và trách nhiệm của các công ty mà ta thuê. Tại sao anh lại chọn họ, hả? Họ đã làm việc cho chúng ta bao nhiêu lần rồi? Ba lần trong mười năm. Kể từ ngày hôm nay anh lập tức gạch bỏ họ ra khỏi danh sách của chúng ta. Ngoại trừ việc này, thì công việc xong xuôi cả rồi chứ? Không, không, không, anh gọi lại cho họ, và yêu cầu họ hoàn thành công việc đúng thời hạn. Nếu một công nhân của họ bị chết thì cũng đáng buồn, hoặc anh muốn cảm thấy thế nào cũng được, nhưng họ mới là người phải tìm giải pháp và thay thế anh ta.”

Sedgwick. Một Gauleiter[5] bất hủ. Một tên khốn sục sôi.

Sự việc ấy khiến tôi vĩnh viễn trở thành kẻ bỉ ổi và tên không chơi nổi. Kieran Read cùng khoảng chục đồng chủ sở hữu khác góp tiền mua hoa và ủy quyền cho tôi mang đến đám tang người thợ nề. Read đi cùng tôi, và cả đám chúng tôi, một nhúm người xa lạ cùng con chó của người quá cố, tập hợp bên chân một ngôi mộ trong nghĩa trang Laval. Tôi đặt hoa lên mộ. Tên của người đã khuất được khắc trên bia. Jérome Aldegheri.

Hai ngày sau, Sedgwick gọi tôi lên căn hộ của ông ta. Ông ta giận dữ vì việc tôi đến dự đám tang người thợ nề. Và chẳng khác nào một chúa đất trong cơn thịnh nộ, ông ta la mắng gã tá điền của mình. “Phải nói thật rõ ràng mọi chuyện, một lần cho xong, Paul ạ. Tôi không trả tiền để anh đi dự đám tang hoặc dành tới phân nửa thời gian để chơi trò nhân viên hỗ trợ ở các tầng. Tôi nhắc để anh nhớ rằng công việc của anh chấm dứt ở ngưỡng của các căn hộ. Và mỗi đồng chủ sở hữu ở đây phải có nghĩa vụ tự giải quyết những vấn đề về sức khỏe hoặc tình trạng phụ thuộc của bản thân. Có các hiệp hội, các tổ chức chuyên lo việc đó. Công việc của anh, đấy là bảo trì tòa nhà, chứ không phải bảo trì những người đang sống ở đây. Và anh đừng có nảy ra bất kỳ sáng kiến nào mà không nói với tôi. Chẳng hạn như mang hoa đến đám tang một công nhân làm việc ở đây chưa đầy một tuần. Anh có những cỗ máy, một khu vườn, những khoảng không gian chung, một ga ra và một bể bơi để mà chăm lo, thế còn chưa đủ hay sao? Nhân nói đến bể bơi, có một điều khoản: theo như quy định trong hợp đồng của anh, cả anh lẫn vợ anh đều không được sử dụng bể bơi. Nhờ anh vui lòng nói rõ điều đó với chị Hansen. Còn về con chó của anh, phải dùng dây dắt nó trong các hành lang của tòa nhà. Và nó không được ra vườn. Tóm lại, chấm dứt việc hỗ trợ, và anh sẽ quay trở lại vai trò quản lý chung, tôi đã trả chi phí khá đắt để anh làm việc đó. Mỗi tuần, anh cung cấp cho tôi danh sách các khoản mục chi tiêu, và sau đó chúng tôi sẽ xem đâu là những khoản mà chúng tôi sẽ giảm bớt, thậm chí cắt bỏ. Tôi muốn tòa nhà này phải sẵn sàng hoạt động hai mươi tư trên hai mươi tư giờ. Còn các cư dân ở đây, cho dù tình trạng của họ thế nào, cũng không được khiến anh xao nhãng khỏi nhiệm vụ của mình. Về phần tôi, tôi đã được bầu ra để đảm bảo cho L’Excelsior vận hành trơn tru, và tin tôi đi, bắt đầu từ ngày hôm nay, tôi sẽ luôn để mắt đến thời gian biểu của anh cũng như tất cả những đồng đô la mà anh sẽ chi ra.”

Tôi ra khỏi căn hộ của ông ta, nhục nhã và vỡ vụn sau cuộc đối mặt ấy. Vài câu đối đáp chua gắt mà tôi dùng để chống chọi lại Sedgwick hôm ấy không trả lại cho tôi chút phẩm giá đáng kể. Buổi tối, tôi kể lại mọi chuyện với Winona và Read, đồng thời thông báo với họ rằng tôi muốn nghỉ việc. Họ xoa dịu tâm trạng của tôi, nói đến chuyện khác, ăn một miếng pizza, rồi tôi cùng vợ, hai chúng tôi dắt cô nàng chó Nouk đi dạo dọc những con phố, trong cái đêm mùa hè đó.

Ngay ngày hôm sau, ngẫu nhiên, định mệnh, bất hạnh, bất kể là gì, đã bỏ công nhắc nhở tất cả chúng tôi, không ngơi nghỉ dù chỉ một thoáng chốc, và theo một cách đầy kiên quyết, rằng nó vẫn luôn cư ngụ trong tòa nhà, rằng nó mới là kẻ làm chủ thời gian của chúng tôi. Và rằng cho dù Sedgwick có nói gì đi nữa, chúng tôi vẫn phải để tâm đến nó.

Ông Seligman sống ở tầng bốn, cùng với vợ. Ông nghỉ hưu sau khi làm việc cho công ty điện Hydro Québec. Ông ưa thích mọi thứ - bánh vòng, bò hun khói, gan bằm, khúc côn cầu, những chuyện cười Do Thái và nhất là chiếc xe 2 cầu Lexus của ông. Mỗi tuần hai lần, thứ Hai và thứ Sáu, ông xuống ga ra, lái chiếc xe ra tận chỗ rửa, hạ tấm bạt bảo vệ xuống và bắt đầu công việc rửa dọn điểm trang trong gần một giờ đồng hồ. Ông hút bụi ở thảm, dùng mỡ lau lớp da của các ghế ngồi, và đánh bóng tất cả những gì chỉ chờ được sáng loáng lên. Tầm thường hơn, tôi đang loay hoay với một đường ống dẫn nước nóng cách cái nơi dành riêng cho công việc làm sạch xe hơi đó vài bước chân.

Khi nhìn thấy tôi đứng chênh vênh trên chiếc ghế đẩu, ông Seligman bỏ ngang công việc đang làm để đến chào tôi rồi chuyện phiếm mấy câu. Trước khi quay về với công việc, ông không thể kìm nổi, liền kể với tôi một trong những câu chuyện lúc nào cũng chực chờ trên môi ông:

“Một gã chơi gôn với ba giáo trưởng Do Thái, ba vị này lúc nào cũng đánh được những đường bóng tuyệt hảo, trong khi gã kia thì chẳng đánh được cú nào ra hồn. Gã liền hỏi xem ba vị giáo trưởng có bí quyết gì không. Họ liền trả lời gã: ‘Đơn giản lắm: ngày nào chúng tôi cũng đến hội đường và cầu nguyện thật nhiệt thành. Gã kia liền mò đến hội đường gần nhà gã nhất rồi ra sức cầu nguyện. Sáng nào gã cũng đến đó, sùng kính trò chuyện với Chúa trong suốt một năm ròng, cầu xin Người giúp gã cải thiện những đường bóng, nhưng khả năng chơi gôn của gã vẫn thảm hại như trước. Gã liền quay lại gặp ba vị giáo trưởng, những người vẫn xuất sắc trên sân gôn, và kể với họ rằng mặc dù đã dồn hết tâm sức vào việc cầu nguyện, gã vẫn chơi tệ như cũ. Ba vị giáo trưởng liền hội ý với nhau, rồi một trong số họ hỏi gã: ‘Nếu không quá tọc mạch, thì xin hỏi anh đến cầu nguyện ở hội đường nào vậy?’ Gã kia trả lời: ‘Hội đường Outremont.’ Vị giáo trưởng mỉm cười: ‘Thế thì anh không tiến bộ gì là đúng rồi, hội đường đó là dành cho môn quần vợt.’ ”

Tự hào với thành công nho nhỏ vừa đạt được, vẫn cười khoan khoái vì sự hài hước của chính mình, Thomas Selgman, người như thể được tạc ra từ một khối tử tế và lạc quan, ranh mãnh rỉ tai tôi: “Đến mai tôi sẽ kể một chuyện cười khác, Paul nhé, ngày mai.” Rồi ông quay trở lại đánh bóng chiếc Lexus.

Đôi khi, tôi thấy cuộc đời lựa chọn tôi cho những nhiệm vụ kỳ lạ. Chẳng hạn như đón nhận, nhiều lần chỉ trong vòng một năm, những lời cuối cùng của tất cả những người sống xung quanh tôi và rời bỏ cuộc sống đúng vào thời điểm họ bắt gặp tôi trên đường đời.

Chính dòng nước mạnh từ vòi xịt rửa xe phụt vào mặt trong tấm bạt bảo vệ đã thôi thúc tôi, một lát sau, đi đến xem đang có chuyện gì diễn ra đằng sau nó.

Seligman nằm dài trong dòng nước trộn lẫn xà phòng. Đôi mắt ông nhìn sững lên bóng đèn nê ông gắn trên mui xe.

Sau khi kéo tấm bạt ra, tôi quyết định bắt đầu xoa bóp tim cấp cứu, mặc dù không biết gì về các quy tắc liên quan. Một chiếc xe đi vào trong bãi đỗ, một người đàn ông bước ra rồi tiến về phía chúng tôi. Đó là Sedgwick. Ông ta lại một lần nữa thấy tôi rời xa nhiệm vụ của mình, quỳ gối bên một người chết, vụng về tìm cách hồi sinh người đó, kéo ông ấy trở lại với chúng tôi, ngay trước ngày Shabbat[6], để ông có thể hoàn tất công việc mà ông đã bắt đầu. Sững sờ, tay trưởng ban quản trị đứng câm lặng, không thể hỗ trợ hay đưa ra bất cứ sáng kiến gì. Tôi gào lên: “Ông có biết làm việc này không? Ôi! Ông có biết hay không?” Ông ta lắc đầu. Tôi nói: “Gọi cấp cứu đi. Nhanh lên! Mẹ kiếp!” Ông ta lấy điện thoại ra, bấm số, rồi đứng bất động, vô tích sự, chờ ai đó nhấc máy.

“Tao vừa xem một thứ cực kỳ khó tin trên ti vi. Một phim tài liệu về ‘Thời kỳ tăm tối’. Mày có biết cái thứ ấy không, hả? Nghe đáng sợ khủng khiếp. Họ nói rằng lúc đầu tiên ấy là vào khoảng 300 hay 400 nghìn năm sau vụ nổ Big Bang, tao không chắc về con số lắm, tao toàn bị lẫn thôi, cũng giống như những số không trong vụ khoản cho vay dưới chuẩn ấy, nhưng cũng chẳng làm thay đổi gì nhiều đâu. Dù sao, sau cái vụ nổ trứ danh đã làm bắn tung mọi thứ trong vũ trụ ấy, bầu trời đã nguội đi, và tất cả chìm trong bóng tối hoàn toàn. Tối đen ấy. Mày có hình dung ra cảnh tượng đó không? Không sự sống, không gì hết. Mẹ kiếp, khi mày xem cái đó, mày sẽ thôi giở trò và tự nhủ là chúng ta đã thoát chết trong gang tấc đấy. Mày có hiểu cái thứ gọi là vô tận không, mày ấy? Tao thì chẳng bao giờ hiểu nổi. Một thứ không bao giờ kết thúc, nó chẳng bao giờ vào đầu tao được. Bắt buộc phải có một cái kết thúc ở đâu đó chứ. Chỉ có điều người ta còn chưa đi đến chỗ ấy thôi. Nhưng nếu mày đến đó, đến cái chỗ tận cùng ấy, dĩ nhiên là phải thế rồi, mày lại tự hỏi: có cái gì đằng sau điểm kết thúc này? Một cái kết bất tận chăng? Và thế là lại bắt đầu từ đầu.”

Thỉnh thoảng, Patrick vô cùng bối rối sau khi trở về từ những chiế