← Quay lại trang sách

- IX - (tt) Cuộc Sống Hào Nhoáng Của Barrett

Tại thời điểm này điều gì khiến bạn sợ hãi nhất trong việc nuôi dạy con?

Tôi cố gắng không để bị ảnh hưởng bởi sự sợ hãi hay kích động, nhưng tôi có một vài mối quan ngại. Tôi lo ngại rằng con bé có thể sẽ cảm thấy bị cha mình chối bỏ, nhưng tôi cũng từng bị cha mình chối bỏ và tôi đã tận dụng điều đó. Tôi lo ngại rằng tôi không thể cho con bé mọi thứ nó muốn, nhưng bạn biết không? Tệ thật, Ellie bướng như ranh.

Tại thời điểm này nếu tôi phải sợ điều gì đó hữu hình, thì tôi sẽ nói rằng tôi sợ rằng con bé không vào được trường mầm non. Phải, điều đó làm tôi hơi điên đầu. Tôi đã tìm hiểu xong và đã nộp hồ sơ chủ yếu vào những trường không yêu cầu phí thăm quan. Phí thăm quan - cứ như thể trường học là một loại bảo tàng nghệ thuật vẽ hình que tăm. Tôi cũng nộp hồ sơ vào cả các trường hợp tác, mà không biết mình sẽ xoay xở ra sao với số tiền học phí mười- bảy- nghìn- đô- la mà dường như hầu hết các trường này sẽ yêu cầu. Làm sao mà chúng ta có thể sống sót được ở thành phố này? Điều đó làm tôi khiếp sợ: sự nghèo túng. Và tôi không phải, như kiểu, người có thể chịu đựng được sự nghèo túng. Đôi khi tôi thấy những người vùng ngoại ô vẫy tay chào, nhưng tôi chẳng dám nhìn vào mắt họ. Tôi bảo họ, tôi chưa sẵn sàng. Hay để tôi cố gắng.

Thế là tôi đã chủ động đi thăm quan các trường. Chuyến thăm đầu tiên của tôi là một trường hợp tác nằm ở Outer Sunset, Way Outer. Nó như thể một ngôi trường dành cho những đứa trẻ cuối cùng trên trái đất còn sống sót sau trận dịch bệnh. Các phụ huynh xếp thành một hàng bên ngoài, và tôi nhận thấy mình đang đếm số người và phát hiện ra rằng cứ ba người bọn họ lại có một người bị viêm gan C. Tôi không hiểu tại sao, nhưng suy nghĩ ấy tự nhiên đến với tôi, có lẽ là do nhìn thấy những mái tóc vàng tết kiểu dreadlock[6]. Tôi sẽ không xin lỗi về điều đó. Người ta không thể kiểm soát được suy nghĩ của mình, mà chỉ kiểm soát được lời nói, và tôi thì chẳng nói ra lời mấy chuyện tệ hại ấy.

“Đây là bức tường leo núi,” vị giám đốc nói. “Các tình nguyện viên đã làm việc cả cuối tuần để dựng nó lên, và bọn trẻ thích nó phát điên.”

Đoàn thăm quan đi đến một điểm dừng chân ngoài trời. Tôi nhìn quanh xem có chó không, lo lắng rằng có thể sẽ xuất hiện một con chạy ra ngửi chân tôi. Hay một đứa trẻ bị rối loạn giác quan. Vị giám đốc mỉm cười với tôi, và tôi cố gắng tỏ ra ngơ ngác như các bà mẹ ở đây.

“Tôi nói nhiều quá rồi,” vị giám đốc nói. “Các vị có câu hỏi gì không?”

“Các vị làm gì với cảm xúc của trẻ?” Một bà mẹ hỏi. Cô ta có tóc bạc, điều này có phần thô lỗ, tôi nghĩ. Ý tôi là, sao cô ta không nhuộm đi? Tôi rất thấp, và vì thế tôi luôn mang giày cao gót như một hành động lịch sự. Tôi không hiểu câu hỏi của bà mẹ đó – “Các vị làm gì với cảm xúc của trẻ?”

“Cô đang nói chuyện quái gì vậy?” Tôi hỏi. Không - tôi không nói vậy thật đâu. Hiển nhiên là giám đốc hiểu chính xác Bà Nội kia nói gì, bởi vì bà ta gật đầu và lập tức nói “Chúng tôi tôn trọng chúng. Chúng tôi tôn trọng mọi cảm xúc. Ngay cả sự giận dữ. Nếu có em nào tức giận, chúng tôi sẽ nói ‘Này, khi cô tức giận, cô sẽ ném bóng trong một khu vực mà các bạn khác không bị nguy hiểm. Khi cô tức giận ấy’ - đến đây bà ta làm bộ tức giận, khiến bà ta trông giống như đang cố trợn mắt đọc những dòng chữ nhỏ xíu. – ‘Cô chỉ muốn nhặt một quả bóng và ném nó đi xa hết mức có thể, sau khi đã nhìn ngó xung quanh trước.’ Câu hỏi hay.”

Người đặt câu hỏi gật đầu và có vẻ rất hài lòng, và mọi người xung quanh tôi cũng vậy.

Tôi thấy tôi có thể đi rồi. Tôi đã có quyển giới thiệu. Vị giám đốc chỉ nhắc lại mọi điều trong đó. Giống như buổi học đầu tiên, khi giáo viên chỉ đọc lại chương trình học. Thêm nữa, tôi không thực sự hiểu sự phức tạp của các triết lý giáo dục của các trường học - Waldorf, Montessori, Reggia Emilio. “Chúng tôi giáo dục dựa trên vui chơi là chính”, tất cả bọn họ đều nói vậy, và họ đều khẳng định sẽ cung cấp một môi trường hỗ trợ và phong phú. Họ trân trọng trí tưởng tượng và tính cá biệt của mỗi đứa trẻ. Một số coi trọng sự đa dạng về điều kiện kinh tế, có vẻ như điều đó có nghĩa rằng họ đề cao những người cực kỳ giàu có nên họ có thể cho vài đứa trẻ nghèo vào học, để rồi ghi vào cuốn sách giới thiệu, “Chúng tôi coi trọng sự đa dạng về điều kiện kinh tế.” Họ đều ngụ ý rằng bọn trẻ sẽ phát triển tốt và trưởng thành, ngược lại với sự suy đồi và thụt lùi như những đứa trẻ học ở các trường khác.

“Vậy còn về hội chứng lo lắng khi bị xa cách bố mẹ thì sao?” một người phụ nữ khác hỏi. Tôi trừng mắt nhìn cô ta. Hỏi đủ rồi đấy. Annie đang phải trông Ellie, và tôi không muốn trở thành một sự phiền phức. Thêm nữa, tôi là một người nhanh nhảu - mua sắm nhanh, lựa chọn nhanh, đánh giá nhanh. Một ngày làm việc của tôi trôi qua cũng nhanh, tôi đọc nhanh, viết nhanh, nói chuyện nhanh, rất kiệm lời. Khi mọi việc không diễn ra nhanh chóng, tôi cảm thấy rất căng thẳng và cho là những người khác cũng cảm thấy phần nào, rằng tôi đang vội đi để xử lý một chuyện gì đó khác. Tôi nhìn xung quanh xem có ai cũng buồn chán và hết kiên nhẫn không, nhưng tất cả những gì tôi thấy là sự chăm chú chân thành. Một bà mẹ với mái tóc tém thổi bong bóng cao su và nhai kẹo bằng răng cửa như một con chuột. Cô ta mời người bên cạnh một cái, một người phụ nữ cao lớn đang đứng thõng vai. Cô ta nhận chiếc kẹo mà làm tôi phát gớm.

“Vài đứa trẻ cảm thấy buồn vì chúng nhớ bố mẹ vậy nên chúng sẽ đeo ảnh của bố mẹ trên cổ để khi thấy buồn chúng chỉ cần nhìn xuống”, vị giám đốc nói.

Tôi tưởng tượng Ellie đeo ảnh tôi, Bobby và bà mẹ kế đầy mùi phô mai trên cổ.

Sau khi mọi câu hỏi đã được trả lời, chúng tôi được dẫn đến khu ăn nhẹ, nơi có một bà mẹ đang cho những quả nho vào những chiếc cốc giấy nhỏ xíu. Tôi tập tễnh đi theo.

“Chúng tôi thay phiên nhau mang đồ ăn nhẹ tới lớp”, vị giám đốc nói. “Nhưng cơ sở của chúng tôi không chấp nhận các loại hạt”. Tôi nhìn quanh căn phòng. Một trong những bà mẹ tình nguyện đang nhảy trong phòng theo nhạc bài Beat it. Không chấp nhận các loại hạt7 ư? Hẳn rồi.

“Đồng thời, ngày bạn chuẩn bị đồ ăn nhẹ cũng là ngày bạn phải cọ nhà tắm”

Bà ta cười với mọi người xung quanh, và tôi cười khúc khích cùng với các phụ huynh khác, nhưng rồi nhận ra rằng bà ta đang nghiêm túc. Tôi sẽ thực sự phải cọ nhà tắm. Các vị đùa tôi đấy à? Tôi đã phải dành cả tuần để cọ rửa và nấu nướng, và giờ tôi sẽ phải cọ rửa cả nhà tắm của trường? Có vẻ như tôi còn phải tiếp xúc với bọn trẻ mỗi tuần một lần, như dạy chúng làm ra thứ gì đó từ dây thép quấn lông để rửa ống và vỏ hộp sữa, hoặc nhảy theo điệu Beat it của Michael Jackson, có vẻ không được phù hợp lắm với trường mầm non.

“Ở đây chúng tôi là một gia đình,” vị giám đốc nói.

Một người hướng dẫn viết đã từng nói với tôi là không được dùng từ rạng rỡ như một động từ, nhưng người phụ nữ này đang rạng rỡ trước tất cả chúng tôi, phát ra tình yêu hào hứng và không các loại hạt. Tôi không muốn cô ta trong gia đình tôi. Tôi không muốn đến ngôi trường này. Tôi đã nói với Georgia rằng tôi sẽ đến xem ngôi trường hợp tác mà cô ấy giới thiệu - sẽ thật tốt nếu tiết kiệm được chút tiền, gặp gỡ các phụ huynh khác, và nhìn thấy Ellie ở trường, nhưng tôi không muốn gặp gỡ các phụ huynh kiểu này. Họ quá hài lòng với bản thân hoặc gì đó tương tự. Tôi sẽ không hòa hợp được. Tôi cho là nó sẽ giống một gia đình thực sự.

Tất cả phụ huynh ở lại để đăng ký. Toàn bộ quy trình như thể chúng tôi đang cố gắng chen chân vào hộp đêm nổi nhất trong thành phố. Tôi đi về, thậm chí còn chẳng lấy bộ hồ sơ. Tôi liều lĩnh, nhưng quỷ thần ơi, tôi đoán mình cũng như tất cả những bà mẹ khác trong Câu lạc bộ Làm mẹ San Franciso mà tôi cười cợt. Tôi muốn con tôi đi học ở một ngôi trường không thèm nghe điện thoại của bạn nhưng lại muốn bạn liên hệ hàng tháng để hỏi thăm về vị trí của mình trong danh sách chờ đợi. Tôi muốn một ngôi trường mà chỉ nhận những đứa trẻ đã được tiêm phòng.

Tôi phải làm sao nếu con bé không vào được trường nào cả? Tôi đã nghe chuyện này mãi rồi, về các bà mẹ và con cái của họ ngồi thụp bên cửa sổ, nhìn những đứa trẻ nhà hàng xóm nhảy chân sáo đi tới trường. Cái gì đó bùng lên trong lòng người mẹ khi thấy con mình phải chịu thiệt thòi.

Trường tiếp theo cũng không khá hơn là mấy, và nó yêu cầu tôi phải trả phí đăng ký 75 đô la trước khi được tham quan trường và trước khi biết liệu tôi thậm chí có muốn đăng ký hay không.

Một trường hợp tác khác, nhưng nơi này nằm ở Laurel Hill. Tôi đến sớm để có thể bước vào đúng giờ. Tôi cần phải xúc tiến ván bài của mình, ngay cả ở những trường hợp tác “an toàn,” và tôi đã nghe nói những điều tuyệt vời về nơi này. Những đứa trẻ học ở đây tiếp tục lên những trường mẫu giáo mà tôi chưa từng nghe nói, nhưng điều đó hẳn sẽ tốt bởi vì cuốn sách giới thiệu liệt kê các trường một cách tự hào như thể chúng là những người nổi tiếng. Tôi đặt nhiều hy vọng và hình dung ra các bậc phụ huynh đi làm ngồi trên ghế lười, uống café và nói chuyện về bất động sản.

Tôi cũng đã nghiên cứu một chút. Tôi học được từ nhóm thảo luận SFMC rằng tôi cần phải mỉm cười và hỏi những câu hỏi hay mang lại cho các vị giám đốc một nền tảng để họ có thể nói dông dài về những phẩm chất có một không hai của trường họ. Họ thích những câu hỏi mà không thực sự là câu hỏi, mà giống như những tấm ván nhảy cầu nhỏ để họ có thể bắn đi những quả đạn đại bác.

Vị giám đốc này có mái tóc cắt ngắn, gọn gàng, và các phụ huynh trong nhóm đi thăm quan có vẻ nhiều thành phần hơn, điều này rất tốt. Chúng tôi đi xung quanh – không gian xinh xắn và thoáng đãng với rất nhiều khoảng trống ở trong và ngoài. Tôi nhìn thấy hai cô bé đang chơi cùng nhau trong hố cát ngoài trời và nhớ lại một tình bạn từ ngày xưa. Có một hôm tôi bị ốm ở trường và nôn vào người bạn tôi Elena, và rồi Elena cũng nôn vào bồn rửa mặt để tôi không cảm thấy cô độc. “Thấy chưa, tớ cũng bị nôn một chút đấy,” cô bé nói. Và tôi vẫn luôn luôn nhớ điều đó.

Ký ức xuất hiện vô cùng đúng thời điểm bởi vì vị giám đốc nhìn thấy và nghĩ tôi đang mỉm cười vì hai cô bé chứ không phải vì quá khứ của tôi. Năm phút sau khi bắt đầu cuộc thăm quan và về cơ bản tôi đã biết mọi thứ mà tôi cần, nhưng cuộc thăm quan vẫn tiếp diễn. Và tiếp diễn. Chúng tôi vẫn tiếp tục được dẫn đi, những cái xe ba bánh nhỏ dễ thương, hố cát, và tác phẩm nghệ thuật bắt đầu trở nên giống như lò luyện ngục.

Vị giám đốc đưa chúng tôi tới “Phòng Cây.”

Bọn trẻ đang chơi đùa. Đã ghi nhận. Rồi tới phòng tiếp theo, nơi chúng tôi phải đi qua một nhà tắm mở. Một dãy bồn cầu thấp dẫn ra một cánh cửa mở khác. Một cô bé đang trần truồng đứng trước một cái bồn cầu, và tất cả chúng tôi quan sát cô bé với tay xung quanh để lau mông. Cô bé nhìn vào tờ giấy vệ sinh sau khi lau, rồi thả vào trong bồn cầu, giật nước, rồi tiến về phía bồn rửa để rửa tay.

“Giỏi lắm, Lily,” vị giám đốc nói. “Chúng tôi để cho các bé trần truồng nếu chúng muốn.” Bà ta nắm hai tay đặt trước ngực như thể đang trong một dàn hợp xướng.

Chờ đã. Gì cơ?

“Đây là một nơi an toàn và được bảo vệ, và nếu đó là điều mà chúng lựa chọn thì chúng tôi sẽ nghe theo ý chí của chúng.”

Một bà mẹ trông có vẻ phấn khích. Một người khác, lo sợ. Tôi thì rất do dự. Ý tôi là, có vô số những bức ảnh chụp chính tôi hồi còn bé chạy xung quanh và trần truồng. Con gái tôi thích ở truồng và đi chân không. Nhưng ở ngoài đang lạnh! Và có thể có những kẻ biến thái với ống nhòm! Sẽ thế nào nếu như bọn trẻ muốn ngâm mình trong nước cam Sunny D, rồi lăn lông lốc giữa đám cá ngừ? Nghe theo ý chí của chúng hả?

Chúng tôi đi ra ngoài và tôi ôm lấy hai vai. Hai cậu bé la lên, “vù vù vù,” và dùng hai tay làm thành cánh máy bay và đâm sầm vào nhau. Tôi giả bộ như chuyện đó thật đáng yêu. Một phụ huynh làm việc ở đây nhìn chúng, hoặc nhìn xuyên thấu chúng, và tôi tự hỏi cô ta đang nghĩ gì – có lẽ là về hàng tạp hóa. Đó là điều mà hầu như lúc nào tôi cũng làm.

“Như các vị có thể thấy,” vị giám đốc nói. “Các phụ huynh của chúng tôi ở vòng ngoại vi. Họ không hướng dẫn hay chỉ bảo, hay tiếp xúc. Họ ở đây chỉ để đảm bảo là con cái của họ được an toàn. Họ giữ cho cơ thể và cảm nhận của chúng được an toàn.”

“Vậy là, chúng ta không phải dạy thủ công hay gì hết à?” tôi hỏi.

“Không. Chúng tôi không kỳ vọng các vị dạy dỗ theo bất cứ phương diện nào, và ở các buổi họp mặt của chúng ta, chúng tôi sẽ trang bị cho các vị với những kiến thức cơ bản để giữ cho bọn trẻ an toàn, để thực hiện phân định tranh chấp theo cách để bọn trẻ tự giải quyết vấn đề của chính mình.

Các buổi họp mặt sẽ chứa đựng nhiều thông tin, và chúng sẽ mang lại cho các vị cơ hội để gặp gỡ, vì các vị không thực sự giao tiếp với nhau ở trường. Chúng ta ở đây vì lũ trẻ.

Tuyệt. Thế là đi đời thời gian ngồi đọc tạp chí với các bà mẹ khác và nói chuyện về các nhà hàng.

“Những buổi họp mặt rơi vào hai ngày thứ Ba của tháng, và các vị được kỳ vọng sẽ có mặt ở tất cả các buổi.”

Tôi nhanh chóng quét qua não để nghĩ xem có những chương trình ti vi nào vào tối thứ Ba. Đó là một buổi tối nhàm chán, cảm ơn Chúa, nhưng rồi tôi nghĩ đến mùa xuân. Thần tượng âm nhạc Mỹ! Tất cả những đứa trẻ bị lừa dối!

“Vậy là, bọn trẻ chỉ đi lang thang từ phòng này sang phòng khác làm bất cứ điều gì chúng thích?” một bà mẹ hỏi, chính là người trông lo lắng về vấn đề trần truồng.

“Phải,” vị giám đốc nói. “Chúng ta hướng về tự do ý chí, tự do lựa chọn. Bọn trẻ quyết định những gì chúng muốn làm với thời gian của mình. Vào giờ tập trung, chúng có thể tới tham gia hoặc chúng có thể lựa chọn không tham gia.”

Tôi không thích điều này chút nào, nhưng tôi giả bộ chán nản. Chúng tôi đi bộ trở lại lối vào và bà mẹ đó liên tục phân vân thành tiếng rằng liệu đây có phải là nơi dành cho con trai cô ta hay không, một cậu bé vốn gặp khó khăn trong việc tập trung.

“Tôi chỉ nghĩ là thằng bé cần khung chương trình, và với quá nhiều sự tự do lựa chọn và tự do vui chơi thằng bé có thể sẽ không thể vận hành được.”

Tôi hình dung ra một cậu bé giống robot nhìn xung quanh vào tất cả các tùy chọn của mình rồi nổ lách tách và bốc khói và đi theo vòng tròn, nói với cái giọng đáng sợ của hệ điều hành android, “Quá tải dữ liệu. Quá tải dữ liệu.”

Người phụ nữ này sẽ không nhập học. Tại sao cô ta lại nói ra mối lo ngại của cô ta trước mặt vị giám đốc? Rõ ràng là cô ta chưa đọc những bài báo mà tôi đã đọc, chúng nhắc nhở các bậc phụ huynh rằng chính họ mới đang bị quan sát, chứ không phải là con cái họ. Họ chính là những người đang xin nhập học, và các vị giám đốc đang đánh giá liệu chúng tôi có phải là những tình nguyện viên tốt hay không, liệu có phải chúng tôi giàu có, da đen, người châu Á, người Mexico, đồng tính, ly hôn hay không. Cửa cược tốt nhất của bạn là đồng tính, da đen, nghệ sĩ chết đói vừa nhận nuôi một đứa trẻ. Hãy cố để trở thành như thế.

Tôi đã lấy một bộ hồ sơ, vì sợ hãi. Tôi không muốn cho con gái mình đến học ở cái trường hippie trần truồng này, nhưng tôi lo sợ cho cuộc đời của con bé, đặc biệt là khi tôi tưởng tượng ra Betts và nhóm bạn cũ, những đứa trẻ hôi hám của chúng tất cả đều đi học ở những trường tốt nhất, nơi mà chúng sẽ được học chơi golf và cười ha hả và biến những mảnh đất xanh trở thành những chung cư phát triển. Ellie xứng đáng điều tương tự.

Điều này đã dẫn tôi tới một trường tư ở khu thấp của Pacific Heights. Đây là ngôi trường mà tôi muốn và là ngôi trường mà tôi không đủ khả năng chi trả. Nó được tự xưng là một trong những trường mầm non tốt nhất ở San Francisco, là nơi mà Henry đã cho con cái của anh tới học.

Tôi đi cùng với Barrett. Chúng tôi gặp nhau ở cổng và đi vào cùng nhau.

“Nếu là một người đàn ông dẫn đoàn thăm quan, chúng ta có nên tháo bớt cúc áo sơ mi ra không?” Barrett hỏi.

“Dĩ nhiên rồi,” tôi nói.

“Tớ nghe nói cậu sẽ phải làm cho cán bộ của trường biết rằng cậu có thể xây một sân chơi mới, nhưng phải để một người bạn nhắc tới điều đó.”

“Tớ không thể xây một cái sân chơi mới,” tôi nói. “Tớ có thể xây một cái lâu đài cát.”

Chúng tôi đi vào, đeo biển tên, và sau đó khoảng mười người chúng tôi được dẫn đến một căn phòng nhỏ nơi chúng tôi được nghe một bài diễn văn của giám đốc. Tôi đã tự huấn luyện mình trước đó để giả vờ như mình đang ở trong một buổi đọc thơ: trông như thể bạn hiểu, mỉm cười một cách hiểu biết. Tôi sẽ cố tập trung bởi vì tôi luôn luôn bị sao nhãng. Ngay lập tức tôi phát hiện ra bản thân mình đang chìm trong suy nghĩ khi vị giám đốc phát biểu về những giá trị của ngôi trường: Bà ta không trang điểm chút nào. Không kem nền, kem che khuyết điểm, mascara. Hãy nhìn đám lông mi kia. Trông như hoa bồ công anh.

Tôi quay lại lắng nghe bà ta trao đổi về những thứ gọi là “giao diện,” “giải tỏa sức ép,” và “phòng chơi tổng hợp.” Bà ta nói khoảng hơn nửa tiếng, và Barrett và tôi thực sự phải chật vật. Chúng tôi trợn mắt nhìn nhau, huých cùi chỏ vào nhau, và nín cười. Không có gì tuyệt hơn là có một bạn đồng hành cùng trợn mắt, và Barret còn là một người viết ghi chú truyền tay. Trên một tờ giấy cô vẽ một con khỉ đang ngửi ngón tay của nó, và ý nghĩ cô ấy dành thời gian để vẽ nó khiến ngực và cổ họng của tôi nhói lên. Tôi khó có thể kiềm chế một tiếng cười càng ngày càng mạnh mẽ, và rốt cuộc tôi phải ho để che đậy tiếng khụt khịt của mình.

Cuối cùng chúng tôi cũng được giải thoát khỏi căn phòng tra tấn đó, sau đó được chia thành các nhóm nhỏ. Chúng tôi sẽ được đi qua hết lớp học này đến lớp học khác để “dự giờ” và được chỉ dẫn là không được nói chuyện với bọn trẻ và chỉ được ngồi trên ghế cho người lớn. Điều này là vô cùng quan trọng.

Chúng tôi lặng lẽ đi vào căn phòng đầu tiên và ngồi xem bọn trẻ làm những việc thông thường: vui chơi, nói chuyện. Chúng tôi chỉ ngồi đó như những nhà khoa học quan sát khỉ. Tôi nghiêng người định nói với bà mẹ bên cạnh tôi, “Chúng ta còn phải làm chuyện này bao lâu nữa?” nhưng nhận thấy cô ta đang nguệch ngoạc những lời ghi chú dài dòng và ngăn bản thân lại kịp thời. Ghi chú của cô ta viết những gì? Bọn trẻ đang chơi! Chơi ở đây và ở kia, tất cả mọi nơi!

“Tớ không thể diễn tả đủ chuyện này nhàm chán tới mức nào,” tôi thì thầm với Barrett.

“Ngày nào chúng ta cũng xem con cái của chính mình làm những việc này,” Barrett nói. “Trên đời này có cái gì chúng ta có thể học hỏi được ở đây cơ chứ?”

Chúng tôi làm điều tương tự ở bốn phòng học nữa. Tôi đi vào phòng học nghệ thuật và quan sát bọn trẻ ở đó. Kiệt sức, tôi ngồi xuống.

“Xin hãy ngồi vào ghế của người lớn!” một giáo viên nói.

“Ôi,” tôi nói. “Được được!”

“Lạy Chúa,” Barrett nói. “Cậu vừa bị đánh vào mông bằng lời.”

Tôi ngồi vào một cái ghế người lớn chết tiệt và xem những đứa trẻ mặc áo rộng thùng thình vẽ vời. Như là chuyện khỉ gió gì to tát lắm.

Tôi ngáp một cái rõ to.

Sau mục “dự giờ” tất cả chúng tôi đi cùng nhau tới quan sát một lớp học tổ chức họp mặt nói về buổi đi dạo ngày hôm qua ở pháo đài Presidio và hậu quả của việc chen ngang khi xếp hàng; sau đó vị giám đốc dẫn chúng tôi ra khu vực vui chơi ngoài trời và dành thời gian nói về từng cấu trúc đồ chơi.

“Đây là xe đạp,” bà ta nói. “Bọn trẻ đạp xe trong khu vực này. Đây là những thanh ngang mà chúng sẽ bám để đu người.”

Barrett và tôi dừng lại, nhìn nhau, và trợn mắt. “Chúng tôi luôn tìm cách cải thiện khu vực này,” vị giám đốc nói.

“Các phụ huynh có được phép tài trợ cho việc tu bổ không?” một người phụ nữ hỏi. Chúng tôi quay phắt đầu lại về phía cô ta. Cô ta có mái tóc nâu mượt mà và quần áo giống như của Tory Burch. Cô ta trông giống vị hôn thê vủa Bobby – cùng cái vẻ hoàn hảo bóng bẩy đó. Tôi có thể hình dung ra cô ta trên Instagram, nhìn xuống đất, cười nhạo một vũng nước.

“Trường học đánh giá cao mọi sự đóng góp, đặc biệt là vì rất nhiều trong số các em thuộc diện học bổng. Chúng tôi yêu mến sự giúp đỡ từ các phụ huynh!” Vị giám đốc cười. Người phụ nữ cười. Ha ha ha! Ha ha! Ha ha!

“Tớ đã bảo cậu mà,” Barrett nói. “Về cơ bản cô ta vừa hứa hẹn một sân chơi mới. Cô ta được nhận rồi.”

Tôi nhìn cái túi xách bằng da họa tiết thổ cẩm của người phụ nữ đó, bên cạnh hông của cô ta. Có phải nó vừa mới đánh bật tôi không? Tôi tin là thế.

Sau đó chúng tôi lại trải qua một trong số những phần hỏi và trả lời dài dằng dặc và rỗng tuếch, và cuối cùng, hai tiếng sau, chúng tôi được giải thoát. Trên đường đi ra tôi để ý thấy quý cô Quyên Góp Hào Phóng nói chuyện với vị giám đốc.

“Tớ có vài mánh khóe,” Barrett nói. “Cậu đừng lo.”

Chúng tôi đón bọn trẻ từ nhà của Annie, sau đó đi tới chỗ tôi để điền vào hồ sơ xin học.

Tôi luôn lo lắng một chút khi bọn trẻ ở cùng nhau. Điều này khiến mọi thứ với tôi hơi khó chịu một chút khi ở bên Barrett. Tôi không biết cái nghi thức để nói với con của bạn mình rằng làm ơn đừng có bắt nạt con của tôi nữa. Thật may mắn bọn trẻ rất hòa thuận, đang vẽ tranh ở hai đầu của bàn ăn.

Tôi dành thời gian để điền vào hồ sơ, sử dụng chữ viết tay gọn gàng nhất của mình.

“Sau khi gửi cái này đi cậu cần phải gọi điện cho họ mỗi tháng.” Barrett chỉ cây bút về phía tôi.

“Bắt đầu một mối quan hệ, một tình bạn. Cho họ thấy cậu nhiệt tình tới mức nào.”

“Henry nói tớ cần bảo với họ rằng tớ là một nhà văn thuộc dân tộc khác.”

“Anh ấy đúng đấy.”

Tôi cố gắng mường tượng làm thế nào để tôi có thể đưa vào tất cả những thông tin này: “Xin chào, tôi là Mele Bart, một nhà văn người dân tộc khác hơi hơi tham vọng, và tôi gọi điện đến để kiểm tra tình trạng hồ sơ của mình bởi vì tôi vô cùng hào hứng về ngôi trường của các bạn.”

“Tớ viết một trang blog về đồ ăn,” tôi nói. “Và tớ chưa từng xuất bản bất cứ thứ gì. Và tớ chỉ là có một chút Hawaii một chút Trung Quốc.”

“Cậu đang viết một cuốn sách nấu ăn,” Barrett nói. “Vậy nên về chuyện dân tộc cậu chỉ cần gấp đôi công thức lên.”

Tôi nhìn con gái mình, quý cô Dân Tộc Thiểu Số. Làn da của cô bé giống như những tờ giấy này: màu vải lanh yến mạch. Tóc của cô bé là tóc tơ, mỏng, và thẳng, có màu rơm khô, nhưng trên giấy tờ cô bé sẽ là người da nâu với cội nguồn xa xôi. Polynesia, Trung Quốc.

“Cậu đã mời Henry đi cùng tới lễ cưới chưa?” Barrett hỏi.

“Chưa,” tôi đáp. Tôi chưa gặp anh hơn một tuần rồi. “Đó là một ý tưởng ngu ngốc.”

Cô ấy không phản đối.

“Mánh khóe của cậu là gì?” tôi hỏi.

Cô ấy đang viết rất nhanh, rồi dừng lại và nhìn lên. “Tara là người Mỹ gốc Phi,” Barrett nói, rồi tiếp tục điền tiếp.

“Cậu sẽ không thực sự viết nó vào đấy chứ?” “Đương nhiên là có rồi. Tớ đã xét nghiệm DNA Địa lý Quốc Gia. Họ nói rằng tổ tiên của tớ khởi nguồn từ Kenya.”

“Họ có thể tìm ra chuyện đó à?” “Rõ ràng là như thế.”

“Phải, nhưng tổ tiên của tất cả chúng ta đều đến từ nơi nào đó như vậy.”

“Thế thì cô bé cũng là người Mỹ gốc Phi,” Barrett nói, nghiêng đầu về phía Ellie.

“Tớ không nghĩ trường học muốn biết quốc tịch của bọn trẻ từ hàng ngàn năm trước.”

“Ừ thì, họ đâu có nói cụ thể đâu.”

Tôi chỉ vào Tara tóc vàng, mắt xanh. “Tớ nghĩ họ sẽ hơi bối rối khi họ gặp học viên da đen mới của mình.”

“Điều đó sẽ tốt cho họ. Dạy họ hiểu thêm một chút.”

“Chị gái ơi, tớ không chắc về chuyện này lắm,” tôi nói. “Mặc dù như mọi khi thì tớ khá là vô đạo đức.”

Barrett thở dài. “Xem này. Con gái tớ độc đáo và thông minh. Con bé là người đa chủng tộc; là một sự hỗn tạp, và nếu cái thành phố này khiến cho con cái của chúng ta không thể đi học, thì tớ sẽ đấu trí với họ và đánh bại họ trong chính trò chơi của họ. Còn cậu, cậu nói cậu một phần là người Hawaii? Người Hawaii thì chẳng có cái quái gì đáng để nhắc đến. Họ không bị đàn áp một cách hoàn toàn. Họ không sống ở khu vực dành riêng cho họ. Họ không phải ngồi ở cuối xe buýt. Mặc dù vậy, họ là người bản xứ của Hawaii. Hawaii thuộc về Mỹ. Và do đó, con gái cậu là một người Mỹ Bản Xứ. Cậu đã hiểu lý lẽ chưa?”

“Con có thể vẽ!” Ellie nói. “Con sẽ vẽ hết chúng lên.” Con bé quệt bút lông lên mặt. Tôi không ngăn con bé lại. Tôi nhớ ở các lễ hội tôi để người ta vẽ lên mặt mình, màu lạnh và ẩm ướt, những sợi lông mềm mại của bút vẽ.

“Cậu thấy chưa!” Barrett nói, bật cười. “Người Vẽ trên Mặt!”

Tôi nhìn xuống vào ô dân tộc (đó sẽ là một cái tên hay cho ban nhạc.) Đôi khi tôi chọn Người dân Đảo Khu vực Thái Bình Dương cho Ellie và chính mình, nhưng trong thâm tâm tôi biết rằng điều này cũng không thực sự có ích là mấy. Khi họ nhìn thấy ô này được đánh dấu, cán bộ tuyển sinh hẳn sẽ hình dung ra những quả dừa và những vũ công điệu hula, một cuộc sống bình dị, ấm áp, trước khi đóng dấu TỪ CHỐI NHẬP HỌC lên Keolani Miller hay bất cứ ai khác.

“Tên của con bé nghe không giống người Mỹ Bản Xứ,” tôi nói.

“Không quan trọng,” Barrett nói. “Tên tuổi có thể thay đổi được. Hãy nhìn Đảo Ellis mà xem. Họ của cậu có thể là Wolfe Range, nhưng cụ ông của cậu đã thay đổi nó để tránh bị áp bức, hoặc bị một ông sếp theo chủ nghĩa thủ cựu bắt đổi. Tất cả những gì họ có thể biết là ông của Tara có thể là Suge Knight. Họ không thể đặt câu hỏi với cậu.”

“Cậu mất kiểm soát rồi,” tôi nói.

“Mất kiểm soát,” Ellie nói.

Tara trừng mắt nhìn Ellie và giữ chặt cọ vẽ trước ngực. “Của tớ!”

“Một số trường cậu phải trả phí đăng ký thậm chí chỉ để được thăm quan,” Barrett nói. “Vài chỗ thu 17 nghìn đô la một học kỳ. Cho trường mầm non! Henry đã chi tiền cho cái phòng nghệ thuật mà cậu đã thấy đấy. Nếu muốn được nhận, cậu cần phải hoặc xây một phòng chơi tổng hợp giải tỏa sức ép mới hoặc đánh dấu vào ô thích hợp, và đừng áy náy về chuyện đó. Làm đi!”

Tôi đã điền tất cả mọi thứ trừ ô dân tộc. Bài luận của tôi dài hai trang. Nó bao gồm phần luận đề, thân bài, và kết bài. Nó nhấn mạnh tôi có rất nhiều thời gian để làm tình nguyện viên.

“Cậu có từng làm việc này cho Jake không?” Tôi hỏi.

“Jake á? Không. Và tớ đã phải cố gắng 3 lần để có thể xin cho thằng bé vào học ở trường tiểu học trước đây của nó, vậy nên thằng bé nhập học muộn và không có bạn bè. Thằng bé không thể lắng nghe hay tập trung. Nó đánh những đứa trẻ khác. Nó ngửi tất cả mọi thứ, như thể bị ám ảnh.

Vợ chồng tớ nghĩ rằng thằng bé bị tự kỷ một thời gian ở đó. Tớ sẽ không để cho Tara phải trải qua sự chối bỏ đó.”

Cô ấy nhìn tôi với sự xúc động mạnh mẽ. Như thể chúng tôi đang ở chiến hào và cô ấy đang che chắn cho tôi để chạy thoát. “Hãy làm đi,” cô ấy nói. “Cậu có muốn con bé không có bạn bè như con trai của tớ không?”

Tôi nghĩ đến Betts xin học cho Bella khi con bé vẫn còn trong bụng mẹ. Tôi nghĩ đến người phụ nữ hôm nay, ám chỉ rằng cô ta sẽ chi trả cho khu vực vui chơi mới. Tôi nghĩ đến tất cả các bà mẹ từng thuê người tư vấn về trường mầm non và đến những cuộc thăm quan trường học.

“Làm đi,” Barrett nói. “Thành phố này là một chiến trường. Và chúng ta là những chiến binh.”

Tôi nhìn vào vết màu vẽ màu đen trên mặt con gái và cầm cây bút.

Người Mỹ Bản Xứ. Đánh dấu.

Vậy đó là những gì làm tôi sợ hãi nhất – không chỉ là trường mầm non mà còn là những lựa chọn mà chúng tôi đã đưa ra, dẫn dắt chúng tôi tới một điểm nhất định, khiến cho những địa điểm và nơi chốn khác bị lùi ra xa. Tôi sợ những lựa chọn của mình. Tôi sợ những gì tôi có thể làm cho con mình, tôi e là mình đã lựa chọn quá nhiều ngã rẽ tồi tệ và con bé sẽ nhìn lại bản đồ và nói, “Tại sao mẹ không đi tới đây? Tại sao mẹ lại rẽ ở kia? Và “Tại sao chúng ta không thể quay lại?”

Tôi biết chúng ta không nên dùng diễn đàn này để quảng cáo cho công việc kinh doanh của mình, nhưng vì có quá nhiều bài viết về đào tạo trẻ dùng bô nên tôi nghĩ sẽ hữu ích nếu các bạn biết về công ty do tôi thành lập, công ty TNHH Mãi mãi Trong Bô, chuyên cung cấp dịch vụ giáo dục cá nhân và trại bô. Quy trình của tôi bao gồm phỏng vấn, quan sát, giáo dục con bạn về bàng quang và ruột của chúng, và đặt ra một chương trình dành riêng cho học viên bé nhỏ của bạn. Hãy liên hệ nếu tôi có thể giúp ích cho các bạn!

- Tư vấn viên Linda York, MA

Tôi muốn cảnh báo mọi người về một công ty tên là Chúng tôi Sửa Cửa. Tôi đã đặt lịch hẹn với họ, nhưng lại tìm thấy một công ty khác làm được với giá tốt hơn. Khi tôi gọi điện để hủy lịch hẹn, người thợ sửa dập máy. Tôi gọi lại và anh ta đáp trả trên điện thoại, “M* mày. M* mày, đồ con điếm.” Vậy nên tôi sẽ không giới thiệu Chúng tôi Sửa Cửa.

- Email trả lời cho một bà mẹ hỏi SFMC về địa chỉ gợi ý để sửa cửa gara

Mele hoàn thành bài viết về súp lơ trắng tẩm nghệ tây bỏ lò. Cô yêu thích món súp lơ bỏ lò làm sao! Cảm giác giống như thuần phục một người đàn bà khó tính.

Ellie đi vào bếp trong bộ đồ thứ tư trong ngày. “Hãy để cho nó diễn ra,” cô bé nói.

Mele không biết câu đó ở đâu ra, có thể là từ Michael, cậu bé ở nhà trẻ có cái đầu hình quả bóng bầu dục. Một lần cô đã nghe thấy bà mẹ nói với cậu bé, “Hãy biến hôm nay thành ngày tuyệt vời nhất của con,” nên cô nghĩ đó là một trong những câu châm ngôn nhàm nhán của gia đình cậu. Có lẽ cô có thể bảo Ellie truyền lại một câu cho Michael. Cậu bé có thể về nhà và nói, “Hãy sống như ngày mai bạn sẽ chết” hoặc “Con không đổ mồ hôi, con tỏa sáng.”

Mele nắm lấy túi bỏng Pirate’s Booty và đổ bỏng vị carrot vào một cái túi. “Con có chắc là mình không cần đi vệ sinh đấy chứ?”

“Con chắc,” Ellie nói và nâng váy lên.

“Vậy thì chúng ta đi thôi.” Lại một buổi chiều nữa làm những việc của một người mẹ. Đậu xe, tắm, bữa tối, ngủ, lặp lại, lặp lại, lặp lại. Họ đang để cho nó diễn ra.

“Henry!” Cô nói khi nhìn thấy anh ngồi ở một chiếc bàn ăn dã ngoại. Cô phóng đại sự nhiệt tình của mình, như thể họ là những người bạn thân và mọi thứ đều bình thường, và tim cô đang không hề đập mạnh, cơ thể cô đang không hề căng thẳng. Thật là kỳ lạ khi bạn phát hiện ra một sự thật, rằng bạn đang bị hấp dẫn bởi một người bạn. Nó giống như khám phá ra điều gì đó vốn đã luôn hiện hữu. Như tiền trong túi bạn chẳng hạn, hoặc thứ gì đó trong túi xách nhỏ bạn không nhớ đến nhưng lại vui mừng khi tìm thấy. Henry! Cảm giác thật là tuyệt khi muốn thứ gì đó, được tiếp năng lượng bởi thứ gì đó, để cô biết rằng phần nữ tính của mình vẫn còn sống. Mele đã bắt đầu chấp nhận một cuộc sống kiểu như một bà xơ, nhưng ngay khi nhìn thấy anh, cô nghĩ, Tạm biệt các xơ, tôi sẽ bỏ rơi các vị như một thói quen xấu.

Cô bước vào, đóng cánh cửa lại đằng sau. Lần đầu tiên cô cảm thấy mình đang độc thân và hạnh phúc vì điều đó. Các bậc phụ huynh đã kết hôn không thể nào nhận ra tầm quan trọng của ý nghĩ đơn giản này và động lực lành mạnh có được từ niềm tin vào nó.

“Chào em,” Henry nói, suýt nữa thì đứng lên. Họ đập tay nhau một cách vụng về. Anh luôn có vẻ ngoài bảnh bao, không bị phong cách thái quá.

Anh đeo kính Ray-Ban, mặc một cái áo sơ mi có cổ, và quần jean.

“Bọn em nhớ hai bố con anh lắm đấy,” cô nói, nhìn Tommy.

“Bọn anh đi cắm trại,” Tommy nói. “Bọn anh chơi rất nhiều hoạt động. Ở đó ăn kẹo bông, còn có một cái xe kéo nữa. Đó là xe kéo ngày xưa của anh.”

“Bọn con cũng đi cắm trại nữa,” Ellie nói. “Bọn con đã xây một cái pháo đài.”

Tommy đứng chống nạnh, xem xét liệu cậu có nên bỏ qua chuyện này không. Mele có thể đọc được suy nghĩ của cậu bé. Cậu ấy thực sự cũng đi cắm trại à? Điều đó làm cho việc mình đi cắm trại chẳng có gì là to tát cả. Mình nên khẳng định bản thân như thế nào đây?

“Cậu có muốn chơi trượt xuống bằng cột không?” Ellie nói. “Chỉ có tớ mới biết trượt thôi.”

“Tớ cũng làm được,” Tommy nói, nhận thấy một cơ hội để phục hồi phong thái đàn ông của mình, và chúng bỏ đi. Mele nhìn theo chúng, tưởng tượng chúng với tư cách là anh em, rồi nhanh chóng dừng lại trước khi đi quá xa. Làm thế nào mà từ sự hấp dẫn kiểu bạn bè đã biết thành mẹ kế rồi? Dường như giữa tình cảm tuổi trẻ và tình cảm của người lớn không khác nhau nhiều lắm: ở cả hai độ tuổi bạn đều sẵn lòng thỏa hiệp quá nhiều ở bản thân. Mele nhớ khi còn học năm nhất trung học, cô bỏ khiêu vũ, một môn nghệ thuật mà cô yêu thích và có tài năng, chỉ để cô không lỡ cuộc gọi của Jared Terra. Điện thoại di động hẳn đã thay đổi cuộc sống của những mối tình thời trẻ.

“Xin lỗi,” Henry nói. “Anh đã không báo cho em biết.”

“Về chuyện gì?”

“Vụ cắm trại,” anh đáp.

Cô bật cười và khoanh tay ngồi xuống bên cạnh anh. “Tại sao anh lại cần phải báo cho em?”

Cô không tin tưởng bản thân khi nhìn anh hoặc di chuyển. Cô sẽ trở nên suy sụp nếu cô đang đọc vị anh sai. Anh ấy như một món đồ uống nóng. Cô cần phải từ từ.

“Chúng ta đã cùng ăn tối hôm đó và anh quên không nhắc đến việc bọn anh sẽ đi cả tuần.”

“Anh không cần phải thông báo với em,” cô nói. Giọng cô hơi xúc động, như thể cô đang chực trào nước mắt! Thật là tồi tệ. Cô hắng giọng. “Chuyến đi có vui không?” Chúa ơi, giờ thì giọng cô trở nên khàn khàn. Cô kéo khóa áo lên tới tận cổ.

“Anh cần phải đưa bọn trẻ ra ngoài,” anh nói. “Ở ngoài, không nghĩ về mọi thứ. Cô ấy đã cặp với gã đó suốt một năm rồi.” Anh nhìn về phía khu vui chơi. “Tuần qua của em thế nào?”

Cô không đáp. Ai mà biết giọng cô sẽ nghe thế nào chứ? Anh quay đầu lại. “Em đã làm những gì?” Thôi được rồi. Cô sẽ không đề cập đến mối tình kéo dài cả năm đó. Họ lúc nào cũng có thể quay lại chủ đề này. “Em đã đi tham quan các trường mầm non. Thật kinh khủng.”

“Thành thực mà nói thì anh không rõ,” anh nói. Anh gác mắt cá chân bên này lên đầu gối chân bên kia, chạm lướt qua chân cô. “Kate đã ghi danh cho đứa nhóc đầu tiên và những đứa còn lại cứ thế đi theo.”

Đây chính là cơ hội. Trên hồ sơ rốt cuộc cô cũng không ghi Ellie là người Mỹ Bản Xứ. Barrett cũng hoảng sợ mà rút lui, sau khi Gary hỏi liệu đầu cô ấy có vấn đề gì không.

“Em có thể nhờ anh một chuyện được không?”

“Em cứ nói.” Gương mặt anh giãn ra và thư thái như thể đây là một điều giải thoát cho anh.

“Em đã tới thăm trường mầm non của Tommy và em thực sự rất thích nó. Anh chắc hẳn vẫn được liên hệ thường xuyên, và em không biết liệu—”

“Anh sẽ gọi Cô Eldridge vào sáng mai,” anh nói và lấy điện thoại ra, có lẽ là để ghi nó vào lịch của anh.

Cô ngăn bản thân không nói gì hết ngoài “cảm ơn anh.” Đây là cách mà thế giới vận hành.

“Em đã hoàn thành cuốn sách của mình chưa?” anh hỏi.

“Em đã có câu chuyện của tất cả mọi người,” cô đáp, “Vậy à?” Anh nhìn sang cô, thực tâm tỏ ra sốt sắng.

“Vâng,” cô nói, năng lượng của anh đang tác động tới cô.

“Thi thoảng em nên qua nhà anh, nấu một vài công thức. Cho tất cả chúng ta,” anh thêm vào. “Georgia, Annie, Barrett. Cả hội.”

“Dĩ nhiên rồi,” cô đáp. “Nghe hay đấy.”

Họ ở lại thật lâu ngày hôm đó. Tommy và Ellie đu trên những cái xà, vượt qua cây cầu gỗ, cầu trượt, và ngồi trên những gốc cây. Có một cậu bé lớn hơn ở gần chúng, đá cát và mút một cây kem Popsicle. Cậu bé mặc quần đùi và chân có những vết thương còn mới. Tóc cậu dài, bẩn, và phần da quanh miệng bị loang màu đỏ. Trông cậu giống như diễn viên Faye Dunaway trong phim Mẹ yêu quý khi cô ta phát điên với đống đồ trang điểm. Cậu bé nhét cây kem Popsicle vào giữa miệng. Ở đại học, Mele biết có những cậu trai vì sợ trông giống đồng tính nên họ không mút kem Popsicle hoặc ăn chuối.

“Ở đây nhiều trẻ con quá nhỉ,” cậu bé nói với một cậu bé khác đi ngang qua. Henry và Mele nhìn nhau.

“Cậu có muốn biết một nơi mà không có trẻ con không?” cậu bé vừa nãy nói. Cậu mặc quần kaki, tóc đen dài, và đôi mắt buồn.

“Ở đâu?”

“Dưới kia.” Mele nhìn bên dưới đường dốc bằng gỗ dẫn lên cái chòi. “Cậu biết tại sao không?”

“Tại sao?”

“Bọn trẻ con không thể đào lên.”

“Chẳng có nghĩa gì cả,” cô nói với Henry.

“Nếu chúng có thể đào cái gì lên,” anh nói.

“Những cậu bé này trông có vẻ quá lớn để chơi ở đây. Chúng nên chơi bóng rổ hoặc hút thuốc hoặc gì đó.”

“Mẹ cậu có ở đây không?” họ nghe tiếng cậu bé thô lỗ hỏi.

Cậu bé mặc quần kaki chỉ về phía băng ghế. “Bà ấy ở đằng kia.”

Mele nhìn người phụ nữ ở đằng xa ngồi trên băng ghế màu xanh lá. Cô thích nghe những cuộc đối thoại của bọn trẻ.

“Nhưng đó không phải là mẹ của tớ. Bà ấy là người trông trẻ. Tớ có hai người trông trẻ.”

“Tại sao?”

“Vì tớ được nhận nuôi.”

“Ồ,” cậu bé thô lỗ nói. “Làm sao mà cậu biết được?”

“Người mẹ thứ hai đã bảo với tớ thế.” “Làm sao mà cậu lại được nhận nuôi?” “Tớ không biết. Ai đó cần tiền.”

Các cậu bé bỏ đi, để Henry và Mele lại với một chút hoang mang.

“Cái đó đáng suy nghĩ đấy,” Henry nói. “Anh thích những thứ như thế.”

“Em cũng vậy,” Mele nói. “Anh nghĩ bọn trẻ mấy tuổi?”

“Khoảng 9 tuổi,” Henry nói không chút lưỡng lự. Cô đoán chắc bởi vì anh đã biết về lứa tuổi đó. Cô không thể tưởng tượng được Ellie khi 9 tuổi. Con bé sẽ trông như thế nào nhỉ? Có lẽ một mánh khóe trong việc nuôi con là nhìn đứa trẻ và tự nghĩ rằng: Con sẽ lớn hơn bây giờ 5 tuổi. Cái tuổi này sẽ trôi qua và bạn sẽ hân hoan đồng thời tiếc nuối.

Ellie đi tới và mỉm cười với Henry và vỗ vào đầu gối anh. Henry đột ngột bế con bé, hôn lên đầu, rồi trao trả con bé cho mẹ. Đó dường như là hành động thân mật nhất trên thế giới.

“Bọn em có lẽ nên đi thôi,” Mele nói, đứng dậy. “Không!” Ellie nói và chạy hết tốc lực về phía Tommy đang ở cạnh thang.

“Em đã tới Nopa chưa?” Henry hỏi. “Ngay dưới phố. Chúng ta có thể đi bộ tới đó cùng bọn trẻ.”

“Bọn chúng sẽ thích lắm,” cô nói và nghĩ tới những lúc Courtney nói thay cho con mình. Các phụ huynh lúc nào cũng lợi dụng con mình. “Ellie cần đi ngủ” thường có nghĩa là “Tôi chỉ muốn thoát khỏi đây.”

“Trông chúng ở bên nhau thật dễ thương,” cô nói, nhìn Tommy đẩy mông Ellie để con bé có thể với tới nấc thang tiếp theo.

“Chúng có thể có cuộc hẹn thứ hai,” anh nói. Rượu vang, bữa tối, bạn bè. Không phải tắm, bữa tối, lặp lại. Đôi khi cô cảm thấy được sưởi ấm bởi những gì cuộc sống có thể mang lại, và bằng ly cabernet thứ hai.

Bọn trẻ chia nhau một đĩa mỳ ý sợi to, gợi nhớ lại bộ phim hoạt hình Tiểu thư và Chàng Lang thang. Cô và Henry chia sẻ món măng tây với trứng vịt và tỏi tây chiên, bánh mỳ nướng ăn kèm quả bơ với ớt xanh cay ngâm dấm và phô mai cheddar hun khói, và trong khi bọn trẻ vẫn đang hài lòng, vẫn cư xử một cách văn minh và im lặng, họ tiếp tục chuyển sang món thịt ba chỉ cuốn bỏ lò và cá bơn.

Mele kể cho anh nghe về câu chuyện đánh cắp tạm thời sợi dây lưng.

“Anh biết tất cả bọn họ,” anh nói. “Bạn của vợ anh.”

Cô nhìn xuống, tránh đưa ra bình luận. Cô tưởng tượng Kate cũng giống như Betts, một món khai vị dù nhỏ nhưng đắt tiền. Khi nó được đưa ra bạn biết rằng nó rất giá trị, nhưng bạn vẫn cảm thấy kiểu như, “Mình sẽ làm gì với nó đây?”

Henry quay lại đề cập tới Kate, mặc dù anh dùng những mật ngữ cho tên và một số từ, vậy nên Mele cảm thấy mình như một gián điệp. Kate là “Karl.” Ly hôn là “Bệnh tiểu đường.”

“Karl nói rằng Chúa đã đưa họ đến với nhau,” Henry nói. “Karl và gã đó. Hắn ta có một hình dán khẩu hiệu trên xe viết rằng LƯỚT SÓNG BẰNG DIỀU LÀ THỰC TẾ.”

“Chà,” cô nói. “Có lẽ nó nghe hay hơn là ĐI BỘ NHANH hoặc NGẮM CHIM LÀ THỰC TẾ.” Chúa ơi, câu đó có tẻ nhạt không? Cô kéo tóc lên và buộc thành đuôi gà. Giá mà cánh đàn ông biết rằng phụ nữ đụng chạm vào tóc khi họ thấy như thế là hấp dẫn.

“Thế là cô ấy nói cô ấy không thể phớt lờ món quà tình yêu của Chúa.”

“Anh đã nói gì về chuyện đó?” Cô cắn một miếng nấm đùi gà và cảm nhận vị húng quế, hạt thông, và hy vọng.

Henry nhoẻn cười và chớp mắt, góp nhặt một khoảnh khắc cá nhân nào đó. “Anh nói, ‘Lạy Chúa Jesus,’ rồi làm dấu thập tự bằng ngón tay giữa.” Răng của anh nhuốm màu rượu vang đỏ nhàn nhạt. Điều đó gợi nhớ hình ảnh Bobby, về nhà khi đêm đã khuya, răng màu tím, áo phông ám khói. Cô nhìn thấy Henry làm điều tương tự, loạng choạng về nhà cùng với những bí mật. Câu chuyện từ phía Kate là như thế nào? Henry đặt tay mình lên đầu con trai, nụ cười của anh biến mất, và Mele đột nhiên ý thức rằng mình đang ngồi đối diện anh. Cô chắc hẳn thật nhỏ bé và nhếch nhác so với vợ anh. Cô lau miệng bằng khăn ăn của mình.

“Em không thể tin nổi cô ấy lại là bạn của những người phụ nữ trong nhóm cũ của em. Bọn em không chừng đã có thể chơi cùng một nhóm.” Cô cười và nhìn xuống. “Em không phù hợp với nơi đó cho lắm.”

Ellie và Tommy đang xử lý rổ bánh mỳ thứ tư của chúng.

Henry nghiêng người về phía trước. “Họ lớn tuổi hơn, đó là tất cả,” anh nói nhưng nhìn đi chỗ khác. Dường như anh đang từ bỏ thứ gì đó. “Em sẽ tìm thấy lối đi của mình.”

Cô nghĩ đến anh trong căn bếp của mình, trao lời khuyên cho con trai và bạn bè của cậu bé, và cô hơi hơi cảm thấy mình giống như một cô sinh viên. Cô chợt tự hỏi liệu đó có phải cách mà anh nhìn nhận cô hay không, như là một người bạn để anh chăm sóc, còn anh là một người cố vấn – một người có thể giúp đỡ cô. Cô thích ý tưởng đó, nhưng nó đẩy cô xuống một tầm thấp hơn.

“Cảm ơn trời em đã không hòa nhập được,” Henry nói. “Chúng ta đã không thể gặp nhau.”

“Phải rồi!” cô nói. “Và mọi người sẽ làm gì cùng nhau cơ chứ?” Ellie và Tommy đang chọc những cái lỗ trên bánh mỳ và đưa lên mặt để nhìn xuyên qua.

Tim của cô đập nhanh. Cô tháo tóc ra rồi buộc thành búi thấp. Chân cô đụng vào chân anh ở dưới gầm bàn.

“Xin lỗi,” cô nói.

“Anh không phiền đâu,” anh nói.

Đây đơn giản không phải là một ý tưởng hay. Họ là bạn. Chuyện này là lành mạnh. Hiện tại thì chưa có gì xảy ra cả. Cô có thể phớt lờ sự tán tỉnh trong sáng và họ có thể chia nhau trả hóa đơn và coi đó chỉ là một buổi tối bình thường. Anh đã kết hôn. Anh đang lấy lại tinh thần. Ai dám nói là anh sẽ không giống như Bobby?

Dù vậy anh cũng không giống như Bobby. Sâu thẳm bên trong, ngay từ lần đầu gặp mặt cô đã biết Bobby là người như thế nào và anh ta có thể làm được điều gì. Bobby là một xu thế. Henry là một chiếc dập ghim. Henry là một chiếc bánh mỳ sandwich cải tiến kẹp thịt hun khói và phô mai, là điều khiến bạn thèm muốn được về nhà sau khi thoát ra khỏi bộ váy và chui vào trong một cái áo phông rộng.

Mele hít một hơi thật sâu, cảm thấy một sự căng thẳng, một sức nóng ngọt ngào, và đặt chân của mình bên cạnh chân anh.

Mục tiêu của bạn đối với cuốn sách này là gì?

Tôi có thể lấp đầy một cuốn sách với sự lãng mạn. Tôi chưa từng nghĩ mình muốn thêm điều đó vào cuốn sách này; tôi những tưởng tôi đã chán những chương về ham muốn được yêu, nhưng thứ gì đó vừa mới gợn lên, và phải, Henry là chất xúc tác, nhưng chính cảm giác về anh ấy, chính niềm tin rằng tôi có thể tiến về phía trước đã làm rạng rỡ ngày hôm nay của tôi. Không hẳn là tôi đang mong có chuyện gì xảy ra với anh, mà sự tán tỉnh khiến tôi cảm thấy xúc động, giống như một đêmmát lành và bóng dáng của những ngôi sao.

Tối nay, tôi làm món Cà Tím Xào lăn giống như lần cuối khi tôi đi tẩy lông, nhưng giờ thì nó có một ý nghĩa cao cả hơn hẳn. Việc tẩy lông không còn đồng nghĩa với Bobby, với sự cô đơn, và sự tủi nhục. Nó không còn tác động tới Ellie và sự tách biệt giữa chúng tôi. Việc tẩy lông tương đương với niềm hy vọng, hạnh phúc, những điều khả thi, và cũng có thể nó đồng nghĩa với Henry Hale.

Vậy nên, mục tiêu cho cuốn sách nấu ăn này. Đương nhiên tôi hy vọng rằng những món ăn sẽ thành công. Tôi hy vọng rằng chúng sẽ khiến bạn vui. Mục tiêu của tôi là bạn sẽ thích đồ ăn, và bạn sẽ thích chúng tôi, tôi cho là thế. Nhóm bạn bè của tôi. Chúng tôi ở đây – như một gia đình.

Mục tiêu của tôi là thu nhỏ cuộc sống của chúng ta trở thành thứ gì đó hữu hình, có thể ăn được. Làm thế nào để chúng ta có thể nướng những niềm vui và sự phiền toái trở thành thứ gì đó mà ai đó sẽ muốn cầm lên và đặt vào trong miệng? Hãy ăn tôi đi. Đó là điều tôi muốn nói bằng cuốn sách này. Hãy cắn một miếng và thưởng thức tôi.

Ngoài ra cũng còn một điều khác nữa. Việc này xảy ra từ nhiều tháng trước và tôi ghét phải nghĩ đến nó. Tôi đã tức giận với Ellie của tôi. Tôi không nhớ tại sao. Con bé chạy biến khi tôi muốn rời nhà Annie. Con bé khiến tôi không thể đi được. Một việc nhỏ có thể trở thành to tát vào lúc đó. La hét luôn làm cho mọi thứ tồi tệ hơn, nhưng đôi khi tôi đơn giản chỉ là chịu thua cơn nóng giận, bởi cảm giác về nó khiến tôi như sống lại. Con bé rít lên trong xe, khiến cho tôi căng thẳng, và cái hormone adrenaline đó đã truyền điện vào tôi. Tôi quay lại và đánh vào tay con bé. Rồi tôi bảo con bé rằng tôi sẽ bỏ đi và không quay lại nữa. Con bé bắt đầu khóc, và một phần trong tôi cảm thấy thật thỏa mãn, thật vui mừng rằng ý nghĩ tôi bỏ đi khiến cho con bé buồn. Đó là điều tồi tệ nhất mà tôi từng làm đối với con bé. Nhưng nhiều giờ sau, tất cả trở về tờ giấy trắng. Con bé chạy tới chỗ tôi sau khi ngủ dậy, ôm chân tôi và gọi, “Mẹ ơi.”

Bất cứ khi nào tôi gặp khó khăn với con bé, bất cứ khi nào tôi cảm thấy thương hại bản thân vì phải làm chuyện này một mình, tôi nghĩ, Thời điểm hiện tại sẽ kết thúc. Biến mất. Con bé thường quấn chân quanh tôi và nhún nhảy trên hông tôi. Biến mất. Con bé thường ngồi trên ghế ăn và kêu lên, rồi nhìn quanh như thể nó không biết tiếng động phát ra từ đâu. Biến mất. Con bé thường ngủ với hai cánh tay giơ lên như cửa gôn bóng bầu dục. Biến mất.

Có lẽ mục đích của tôi là giữ cuốn sách này như một vật lưu niệm, biết rằng thời điểm này sẽ biến mất như ngày hôm nay và ngày hôm qua. Giống như dấu vân tay trên cửa kính lạnh. Đây là minh chứng rằng con bé là đứa con bé nhỏ của tôi, là cô gái bé nhỏ của tôi. Đây là bằng chứng rằng tôi có những người bạn đã đồng hành cùng tôi và để cho tôi thấu hiểu họ. Đây là những người bạn, và một buổi tối nọ tôi đã làm đồ ăn cho họ ở nhà của Henry.

Thời khắc tự hào nhất của bạn là khi nào?

Cái ngày mà tôi sinh con. Không, không hẳn. Tôi chắc rằng mọi người đều sẽ nói thế, nhưng khi tôi sinh con tôi đã không cảm thấy tự hào. Tôi sợ phát khóc. Tôi không chắc phải bế con bé như thế nào, và con bé khiến cho ngực tôi đau quá thể. Cơn đau còn tồi tệ hơn cả lúc sinh nở. Tại sao không ai nói cho tôi biết rằng tôi cần một mũi gây tê ngoài màng cứng chết tiệt để cho con bú? Mỗi lần cố gắng mang lại cho con bạn dưỡng chất khiến cho bạn khóc trong đau đớn. Không có ông chồng nào cầm tay tôi và đút cho tôi đá viên. Bobby ở chỗ làm trong hầu hết khoảng thời gian tôi đi đẻ. Không có bố mẹ cầm tay tôi hoặc cầm gương để tôi có thể xem quá trình sinh nở. Tôi phải tự giữ tấm gương và không hề tự hào về những gì tôi nhìn thấy trong hình ảnh phản chiếu. Và rồi khi con bé ra đời và được đặt trên cái bụng phẳng lỳ của tôi, tôi vẫn chưa hẳn tự hào. Mẹ xin lỗi, Ellie. Con rất xinh đẹp, nhưng khi lần đầu mẹ bế con, con dinh dính, đỏ hỏn, ướt nhẹp, và con kêu như một chú mèo con.

Nhưng mũi gây tê – nó thật đáng kinh ngạc. Ngay bây giờ tôi cũng muốn một mũi. Không gì tệ hơn những bà mẹ huyênh hoang về việc sinh nở không gây tê của họ. Có lẽ họ cũng chính là những người làm khuôn thạch cao từ bụng của mình hoặc chụp những bức ảnh chuyên nghiệp khi họ đang đi dạo trên bãi biển trong chiếc váy trong suốt, dùng ngón tay để tạo thành hình trái tim quanh rốn, òa lên hạnh phúc khi họ có thể thực sự xì hơi và nghĩ tới tóp mỡ.

Tối hôm qua tôi đã làm cho bạn bè của mình một vài món ăn được truyền cảm hứng từ họ, và tôi đoán rằng mình tự hào vì đã bắt đầu tất cả những chuyện này.

Đó là lần đầu tiên bất cứ ai trong chúng tôi nhìn thấy nhà của Henry.

Annie và tôi đến nơi cùng một lúc.

“Thật là điên rồ,” Annie nói, cô vốn đã có một căn nhà tráng lệ thuộc về mình, nhưng nơi này hơi vượt tầm. Đó là một ngôi nhà bốn mặt thoáng trên con phố yên tĩnh và rộng rãi,