← Quay lại trang sách

Lời kết

KHI VIẾT CUỐN SÁCH NÀY, tôi quay về từ lần này sang lần khác với cái người ta gọi là quê hương tôi, nơi cha mẹ tôi được sinh ra, cũng như tôi vậy. Đối với người Việt nam, quê hương không chỉ đơn giản xứ sở nguồn cội. Đó là ngôi làng sinh quán của cha mình và là nơi cha mình được chôn cất. Cha của cha tôi chết là nơi ông được giả thiết để qua đời, còn cha tôi sẽ không như thế và tôi cũng sẽ không thế, trong cái tỉnh sinh quán của ông, lăng mộ của ông cách ba mươi phút khỏi nơi sinh quán của Hồ Chí Minh. Vùng này nổi tiếng vì đã sản sinh ra những người cách mạng nòng cốt và những người Công giáo nòng cốt. Cha mẹ tôi ở trong số những người nêu sau. Sự cận kề về địa lí của những người cách mạng với những người tông giáo thường khiến tôi tự hỏi đời tôi hẳn có thể mang một định hướng khác ra sao, tôi hẳn đã có thể kế thừa một cuộc chiến tranh khác ra sao.

Tôi đã tới quê hương của cha tôi để kính lễ, chỉ để khám phá ra rằng người cha của cha tôi không được chôn nơi lăng mộ của ông. Đất và khói hương làm ám ngôi mộ, nằm gần dãy nhà mà cha của cha tôi đã xây, nơi các chú bác và phần lớn những người anh em họ của tôi dã sống. Niên đại về cái chết của cha của cha tôi được ghi khắc ở chóp của lăng mộ, và phía dưới có hai nấm mồ. Người cô bên nội của tôi và những người vợ của các chú bác tôi nhổ cỏ, quét bụi và thắp hương. Trên mộ mẹ của cha tôi là một ảnh chụp đen trắng của một khuôn mặt buồn cũng đã ngó tôi từ trên bệ của ngôi nhà thơ ấu của tôi. Nhưng bên cạnh bà mộ của cha của cha tôi trống trơn, không có tấm bia đá nào để đóng ấn của nó, không có một cái tên nào trên nó, không có một thân thể nào bên trong. Những gì còn lại của cha của cha tôi được chôn ở mấy cây số cách đó, trong một cánh đồng bùn lầy gần đường xe lửa, xa với những người sống, được đặt yên nghỉ mười năm trước.

Tôi thắp hương ở mộ ông. Sau đó những chú bác tôi cũng làm như thế trong dãy nhà của cha họ, phía trước ảnh chụp của ông. Tôi chỉ biết người đàn ông này qua danh tước của ông, là cha của cha tôi. Tôi hẳn chẳng bao giờ được trông chờ gọi ông bằng tên dù tôi có được biết ông. Chỉ khi tôi an cư ở California mới nảy ra trong trí tôi rằng tôi không biết tên người cha của cha mình. Nhưng tôi nhớ gương mặt ông một cách sống động từ tấm ảnh chụp trên bệ của cha mẹ tôi. Vài năm sau chuyến tôi viếng thăm, hình ảnh này, ảnh của ông, được đặt bên cạnh ảnh của vợ ông, trên mộ của ông.

tấm ảnh này sẽ trở thành loại kí ức mà nhà làm phim Chris Marker nói về, loại làm tôi mê luyến nhất, “những kí ức kia mà chức năng duy nhất là để lại phía sau không gì ngoài những kí ức.” 1 Tôi đã kế thừa nhiều trong những kí ức này, từ những người tị nạn giữa họ tôi lớn lên, từ những người Mĩ mà tập quán và phong tục tôi lấy làm của chính mình, và từ mẹ tôi và cha tôi. Họ hiếm khi thảo luận về cuộc chiến đã định hình họ một cách không thể phai mờ, nhưng cuộc sống của họ toả ra cái sức mạnh của những kí ức mà hiếm khi họ nói đến.

Tôi còn nhớ những gì đã xảy ra một vài lần sau khi mẹ tôi về nhà từ một ngày lao động mười hai giờ đồng hồ, rồi vẫn còn thêm công việc phải làm ở nhà. Họ lam lũ như thế mọi ngày trong năm trừ ra lễ Giáng sinh, lễ Phục sinh, và ngày Đầu năm. Đã mất mát hầu như tất cả mọi thứ, họ gần như làm việc trối chết để kiếm lại nó. Bà hỏi tôi có muốn lái xe đi một vòng với bà, mà không có cha tôi, chăng. Chắc khi đó tôi được mười một hay mười hai tuổi, có thể còn bé hơn. Chúng tôi lái xe im lặng trong đêm, các cửa kính cuốn xuống để hưởng làn gió mát. Cái đài thu thanh tắt. Cha mẹ tôi chẳng bao giờ nghe đài trong xe hơi. Bà không nói gì với tôi, hay có lẽ bà nói mà tôi đã không lắng nghe hoặc bây giờ không nhớ lại. Dù cho bà đã có nói với tôi, bây giờ tôi không biết là tôi đã nói gì. Chúng tôi lái xe lên đồi trong im lặng và rồi chúng tôi quay về nhà. Có lẽ đây là cách của bà vói tới tôi, đứa con trai đã mất đi tiếng mẹ đẻ, hay đã đoạn tuyệt nó để bênh cái tiếng nói tiếp chọn. Có lẽ bà đơn giản chỉ cần một vài phút xa lìa công việc và cha tôi, là người bà gặp từng phút trong ngày. Bà đã nghĩ đến gì, bà đã nhớ gì. Bây giờ tôi không thể hỏi. Những kí ức của bà đang tiêu biến và thân thể bà chậm chạp để vâng lời bà. Bà sẽ không được kể như là một trong những thương vong của chiến tranh, nhưng bạn có thể gọi thế nào khác một người dã mất xứ sở của bà, tài sản của bà, gia đình của bà, cha mẹ của bà, con gái của bà, và nỗi an bình trong kí ức của bà do bởi cuộc chiến.

Tôi hồi tưởng những gì Marker cũng đã nói về “chức năng của việc nhớ, vốn không phải là cái tương phản với việc quên, mà đúng hơn là lớp lót cho nó.” 2 Vâng, nhớ và quên quấn quít lấy nhau, một chuỗi xoắn kép tạo ra chúng ta là ai, chẳng bao giờ có chuỗi này mà không có chuỗi kia. Tôi muốn nhớ, nhưng quá nhiều đã bị quên hoặc lặng yên. Kí ức thiết thân của chính tôi có khuyết điểm. Suốt thời thơ ấu, tôi đã có một kí ức về những người lính nổ súng từ chiếc thuyền của chúng tôi vào một chiếc thuyền khác khi chúng tôi bồng bềnh trên biển Nam Hải (Biển Đông). Tôi lên bốn, anh tôi, lớn hơn bảy tuổi, bảo rằng việc bắn súng đã chẳng bao giờ xảy ra. Khi trưởng thành tôi đã nhớ là mẹ tôi phải nằm nhà thương khi tôi còn bé. Vài năm trước, khi tôi khám phá một luận văn tôi đã viết ở đại học, tôi đọc trong chính những lời của mình rằng bà ở bệnh viện khi đó, không phải nhiều năm về trước. Căn bệnh của bà và khu bệnh viện lạ lẫm kia với những bệnh nhân thều thào đã khiến tôi cảm thấy giống như tôi là một đứa bé hoảng sợ. Cái cảm giác ấy là điều tôi đã nhớ.

Còn về cha tôi, hỏi ông về quá khứ là vô bổ. Mối quan hệ của ông với quá khứ là bịt mõm nó, ít nhất khi tôi có mặt. Mặc dù tôi đã viếng thăm quê hương của ông, tôi chưa từng bao giờ viếng thăm cội nguồn của chính mình, cái thành phố nơi tôi đã được sinh ra, bởi vì ông đã cấm đoán điều đó. Hơn một lần ông đã nói với tôi, “Con không bao giờ có thể quay lại nơi đó!” Quá nhiều người sẽ còn nhớ ông và hành hạ tôi, hoặc ông tin là như thế. Tôi nghĩ về điều mà nhà hí hoạ Art Spiegelman nói về người cha của ông, là kẻ sống sót vụ Tế thiêu (the Holocaust): “Tôi không có được một manh mối về cách nào tìm ra những nơi mà cha tôi đã bảo tôi là ông trưởng thành ở đó, và ông cũng chẳng giúp ích gì mấy ngoại trừ việc bảo chúng tôi chớ hề đi bởi vì họ giết người Do thái ở đó. Sử dụng thời hiện tại: ‘Họ giết người Do thái ở đó. Chớ có đi!’ Ông đã sợ cho chúng tôi.” 3 Giống như người cha của Spiegelman, cha tôi phải tin vào những kí ức hồi tưởng (rememories) vốn không chết đi, những đe doạ thuộc trí nhớ đó vẫn giữ nguyên cái sức mạnh trí mạng của nó. Và trong khi tôi không vâng lời cha tôi về nhiều điều, tôi không thể làm riêng trong điều độc nhất này. Sự cấm chri của người cha là quá mạnh, cái bóng ma của quá khứ không được biết là quá gây bất ổn. Điều gì là cái ông nhớ về nơi chốn này, điều gì ông sẽ không bảo tôi, ngộ nhỡ nếu ông đúng thì sao? Sự vắng mặt này như một sự hiện diện cấm kị là cái tương phản với kí ức. Có lẽ một số điều sẽ chẳng bao giờ được nhớ, thế nhưng cũng sẽ chẳng bao giờ bị quên. Có lẽ một số điều sẽ vẫn không được nói ra, thế nhưng vẫn luôn được nghe thấy. Có lẽ tôi sẽ chỉ viếng thăm nơi tôi đã được sinh ra sau khi cha tôi đã qua đời. Khi đó sẽ là quá trễ để thấy những gì ông còn đang nhớ, cái kí ức hồi tưởng rốt cuộc đã trút hơi thở cuối cùng. Đây là cái nghịch lí của quá khứ, của chấn thương, của mất mát, của chiến tranh, một chuyện chiến tranh chân thực nơi không có kết thúc ngoại trừ cái không biết, không có đàm thoại ngoại trừ cái không thể chấm dứt.

Tôi nghĩ lại về người cha của cha tôi và điều gì đã xảy ra với hài cốt của ông. Người Việt nam tin rằng người nên được chôn cất hai lần. Lần đầu tiên, trong một cánh đồng xa cách khỏi nhà và làng, đất ăn thịt. Lần thứ hai, những người sống sót phải bốc mộ lên những gì còn lại. Nếu họ định thời gian chính xác, chỉ còn có xương cốt. Nếu họ định thời gian sai lầm, sẽ còn thịt. Bất kể họ tìm được những gì, họ phải rửa xương cốt bằng chính đôi tay mình, và rồi họ chôn xướng cốt một lần nữa, lần này gần gũi hơn với người sống. 4