Chú thích: KÍ ỨC CÔNG CHÍNH
Cái thân thể văn học và hàn lâm của công trình về chiến tranh và kí ức là có chất lượng. Trong khi nhiều phần của công trình ấy sẽ được viện dẫn qua suốt sách này và trong những cước chú về sau, tôi sẽ nhắc nhở ở đây một số những công trình khác mà tôi đã thấy hữu ích: Ashplant, Dawson, và Roper, “The Poptics of War Memory and Commemoration/ Chính trị về Kí ức và Tưởng nhớ Chiến tranh ”; Winter, “From Remember War/ Từ Nhớ lại Cuộc chiến ”; và những bài luận văn sau đây từ cuốn War and Remembrance in the Twentieth Century/ Chiến tranh và Kỉ niệm trong thế kỉ thứ hai mươi, biên tập do Winter và Sivan: Merridale, “War, Death, and Remembrance in Soviet Russia/ Chiến tranh, Cái chết, và Kỉ niệm ở Liên Xô,” Winter, “Forms of Kinship and Remembrance in the Aftermath of the Great War/ Những Hình thức về Thân thích và Kỉ niệm sau cuộc Đại Chiến,” Winter và Sivan, “Introduction/ Dẫn nhập,” Winter và Sivan, “Setting the Framework/ Thiết định khung khổ. ”
Về sự bạo động và việc lập cơ sở của quốc gia, xem Renan, “Một quốc gia là gì?”
Shacochis, The Woman Who Lost Her Soul / Người đàn bà đánh mất pnh hồn , phiên bản Kindle, trang 196.
Hai cái nhìn thống quan súc tích, hữu ích về lịch sử của cuộc chiến này từ cả hai viễn kiến của Hoa kì và Việt nam là: Vietnam at War/ Việt nam giao chiến của Bradley và The Vietnam War/ Chiến tranh Việt nam của Lawrence. Khi viết cuốn sách này, tôi cũng rút ra từ những bộ sử dài hơn của Young ( The Vietnam Wars/ Những cuộc Chiến tranh Việt Nam ) và Logevall ( Embers of War/ Than hồng Chiến tranh ).
Um cũng nêu lên những đề xuất tương tự về cách tên của cuộc chiến chứa đựng ý nghĩa của nó trong bài viết của chị “ ‘Chiến tranh Việt nam’: Có gì trong một cái tên?”
Trong cuốn America’s Shadow/ Bóng rợp của Hoa kì : mổ xẻ về đế chế và cuốn American Exceptionapsm in the Age of Globapzation/ Chủ nghĩa ngoại lệ của Hoa kì trong thời đại toàn cầu hoá , nhà nghiên cứu Wilpam Spanos đã đặt Chiến tranh Việt nam ở trung tâm của ông về sự phê phán của Hoa kì trong thế kỉ hai mươi. Trong tác phẩm đánh dấu Orientapsm/ Chủ nghĩa phương Đông của Edward Said kết nối sự tưởng tượng của châu Âu với vùng “Cận đông” (“Near East”) và vùng “Trung đông” (“Middle East”) với sự tưởng tượng của Hoa kì về “Viễn đông” (“Far East”). Đối với Said, người phương Đông (the Oriental) bao gồm không phải chỉ những kẻ địch của nước Mĩ thuộc vùng Thái bình dương trong giữa thế kỉ thứ hai mươi mà còn gồm cả những kẻ địch mới ở Trung đông trong cuối thế kỉ thứ hai mươi và vượt qua nữa.
Dudziak, War Time: An Idea, Its History, Its Consequences/ Thời chiến: Một ý niệm, lịch sử của nó, những hậu quả của nó, trang 8.
Những con số phần trăm này dựa trên những tính toán của riêng tôi về các thương vong người Việt nam trong tương quan với những kiểm kê về dân số miền bắc và miền nam. Để có một thăm dò chi tiết hơn về những thương vong đối với người Mĩ, người Việt nam, người lào, và người Campuchia, xem Turley, The Second Indochina War/ Chiến tranh Đông dương thứ nhì, trang 255‒58.
Ginzburg, A Place to Live/ Một nơi để sống, trang 58
Để có một kết toán về những quân đồng minh của Hoa kì từ Hàn quốc, Thái lan, Úc, Phipppin và New Zealand, xem Blackburn. Để có một thảo luận về kích thước quốc tế của cuộc chiến, xem Making Sense of the Vietnam Wars/ Tạo nghĩa về những cuộc chiến tranh Việt nam của Bradley và Young.
Để có một kết toán về việc những không gian của kí ức bị hạn chế ra sao đối với những người nhập cư vào Hoa kì, xem Behdad, A Forgetful Nation/ Một quốc gia lãng quên.
Để có thêm những tác phẩm quan trọng về kí ức tập thể, xem Opck, The Poptics of Regret/ Chính trị của tiếc thương , và Lipsitz, Time Passages/ Thời gian trôi qua.
Young, The Texture of Memory/ Kết thức của kí ức , trang xi.
Bercovitch, The Rites of Assent/ Những nghi thức về đồng tình , trang 1‒67, đặc thù trang 19‒22.
Kundera, The Book of Laughter and Forgetting/ Cuốn sách của cười vang và lãng quên, trang 218.
Những ý niệm này về đaoọ đức của việc nhớ cái của chính mình và người khác xuất hiện trong một hình thức sớm trong luận văn của tôi “Just Memory: War and the Ethics of Remembrance”/ “Kí ức công chính: Chiến tranh và đức lí của tưởng nhớ.”
Để có một thăm dò soi sáng về những sắc thái của hoài hương, xem Boym, The Future of Nostalgia/ Tương lai của lòng hoài hương.
Để có những lược quan về ý niệm của một công nghệ kí ức và một sự “thịnh phát” kí ức đã bùng nổ kể từ thập niên 1970, xem những bài luận văn sau đây từ The Collective Memory Reader/ Kí ức tập thể độc bản , biên tập do Opck, Vinitzky-Seroussi, và Levy: bài của Rosenfeld, “A Looming Crash or a Soft Landing? Forecasting the Future of the memory ‘Industry’ ”/ “Một sự tan tành đang ập tới hay một sự hạ cánh nhẹ nhàng? Dự đoán tương lai của ‘công nghệ’ kí ức.”; Nora, “From ‘Reasons for the Current Upsurge in Memory’ ”/ “Từ ‘Những lí do cho sự trỗi dậy hiện hành của kí ức’ ”; và Opck, Vinitzky-Seroussi, và Levy, “Introduction”/ “Dẫn nhập.”
Về công nghệ kí ức và mối tương quan của nó về quyền lực, xem Sturken, Tourists of History/ Những du khách của lịch sử.
Zepzer, Remembering to Forget/ Nhớ để quên, trang 4.
Freud, “Remembering, Repeating, and Working-Through”/ “Hồi tưởng, lặp lại, và thông qua.”
Để có một số phê phán về căn cước xem Michaels, The Trouble with persity/ Sự phiền nhiễu với tính đa phức và Schlesinger, The Disuniting of America/ Sự phân pệt của Hoa kì.
Charles Maier, chẳng hạn, trong bài viết của ông “A Surfeit of Memory?”/ “Một sự quá tải của kí ức?,” trách tội sự phân mảnh và phiền trách—những dấu hiệu tiết lộ của chính trị căn cước, hay “tính sắc tộc hẹp hòi” (tr. 444)—cho việc ngăn cản một định hướng về tương lai và chính trị chuyển hoá. Nhưng có lẽ chính những phong trào về chính trị chuyển hoá này chưa xử lí thoả đáng với những vết thương của quá khứ, hoặc là không bao gộp đầy đủ khiến giới hạn khả năng chuyển hoá cho những người bị mắc “tính sắc tộc hẹp hòi.”
Nhiều nhà nghiên cứu về kí ức đã tạo trường hợp cho mối tương quan hỗ tương cấu thành của kí ức và lãng quên. Chỉ xin nêu hai: Connerton, “Seven Types of Forgetting”/ “Bảy kiểu của quên lãng,” và Schacter, The Seven Sins of Memory/ Bảy tội của kí ức.
Ricoeur, Memory, History, Forgetting/ Kí ức, Lịch sử, Lãng quên, trang 57.
Nietzsche, On the Advantage and Disadvantage of History for Life/ Về lợi ích và bất lợi của lịch sử cho cuộc sống , trang 10, in nghiêng trong bản gốc.
Ricoeur, Memory, History, Forgetting/ Kí ức, Lịch sử, Lãng quên, trang 68.
Borges, “Funes the Memorious”/ “Kẻ cường kí” trong Ficciones/ Giả tưởng, trang 107.