← Quay lại trang sách

Chú thích: VỀ NHỮNG SỰ PHI NHÂN

Solzhenitsyn, The Gulag Archipelago 1918‒1956/ Quần đảo Gulag (Lao cải) 1918‒1956 , trang 168.

Một số các nhà nghiên cứu đã làm việc về sự phân biệt giữa giữa đồng cảm (sympathy) và cảm thông hay thông cảm (empathy), hay là trên quyền lực hoặc những vấn đề của một hay cả hai tình tự này, bao gồm Bennett, Empathic Vision/ Thị kiến thông cảm ; Berlant, “Introduction: Compassion (and Withholding)”/ “Dẫn nhập: Từ bi (và rút lại)”; Garber, “Compassion”/ “Từ bi”; và Woodward, “Calculating Compassion”/ “Từ bi tính toán.”

Để có một khảo sát bức thiết về một trường hợp khác khi những người sống sót chiến tranh ngần ngại tự xem mình là những kẻ gây nạn nhân, thay vì thế chuyển sang chỉ làm nạn nhân, xem Yoneyama, Hiroshima Traces/ Tàn dư Hiroshima.

Butler Precarious Life/ Đời sống mong manh , trang 150.

Chong, The Girl in the Picture/ Cô gái trong bức ảnh.

Turse, Kill Anything That Moves/ Giết bất cứ cái gì nhúc nhích.

Để có một kết toán về cách phụ nữ miền Nam Việt nam đóng chức năng gì trong trí tưởng tượng của người Mĩ, xem Stur, Beyond Combat/ Vượt ngoài giao tranh, trang 17‒63. Để có những kí ức của chính phụ nữ Việt nam, xem Nguyễn, Memory is Another Country/ Kí ức là một xứ sở khác.

Levinas, Totapty and Infinity/ Toàn thể tính và vô hạn, trang 23.

Như trên, trang 51.

Như trên, trang 47.

Levinas nói rằng “tự do tới từ một sự vâng phục với Hữu thể; không phải con người sở hữu tự do; ấy là tự do sở hữu con người” với “sự nhất hạng của cái đồng nhất, đã đánh dấu chiều hướng của và xác định toàn thể triết học phương Tây” (45); “định nghĩa của tự do là như thế: duy trì tự thân chống lại người khác” (46). Triết học như thế không chất vấn sự bất công và dẫn tới “quyền lực để thống trị đế quốc chủ nghĩa, để bạo tàn” (47).

Như trên, xem tr. 26–27 để có một thảo luận về vô biên và quan hệ của đồng với dị.

Như trên, tr. 225.

Xem An Ethics of Betrayal/ Một đức lí về phản bội của Parikh để có một cách đọc và áp dụng khác của Levinas về vị trí của các thiểu số và các người khác. Trong Toàn thể tính và vô hạn , Levinas nói như thế này về công lí và sự kết hàng của nó với Tha nhân: “công lí bao gồm sự nhìn nhận trong tha nhân người chủ của tôi. Sự bình đẳng giữa những con người tự nó không có nghĩa gì cả; nó phải có một ý nghĩa kinh tế và giải thiết trước về tiền bạc, và ngự sẵn trên công lí—là cái, khi có trật tự tốt, bắt đầu bằng Tha nhân (72); “công lí là một quyền để cất tiếng nói” (298); “điều thiện của việc hiện hữu vì Tha nhân, trong công lí (302).

Từ cuốn phim Derriad, Derrida nói: “Nói chúng, tôi cố gắng và phân biệt giữa những gì người ta gọi là the Future [Tương lai, trong tiếng Anh] và “l’avenir” [cái ‘đương tới’, trong tiếng Pháp]. Tương lai là cái—ngày mai, sau này, thế kỉ kế tiếp—sẽ hiện hữu. Có một tương lai có thể tiên đoán, lập chương trình, lên thời khoá biểu, nhìn thấy trước được. Nhưng khi có một tương lai, l’avenir (cái đương tới) quy chiếu về một ai đó đi tới mà sự tới của người ấy là hoàn toàn không ngờ. Đối với tôi, điều đó mới là tương lai thực sự, là cái hoàn toàn không thể tiên đoán. Tha nhân đi tới mà tôi không có thể dự đoán sự tới của kẻ ấy. Vậy nếu có một tương lai thực sự, vượt ngoài cái tương lai được biết kia, nó là l’avenir (đương lai) trong việc đó là sự đi tới của tha nhân khi tôi hoàn toàn không thể nhìn thấy trước việc tới của kẻ ấy.” Nhưng như tôi biện luận ở một nơi khác trong cuốn sách này, Tha nhân có thể không chỉ là một dấu hiệu của công lí mà là của khủng bố.

Herr, Dispatches/ Những bản tin phát đi , trang 20

Xem On Kilpng/ Về việc giết của Grossman để có một sự khảo sát về việc khoảng cách với đích nhắm tác động như thế nào lên kẻ giết.

Dương, Novel without a Name/ Tiểu thuyết vô đề , trang 237.

Levinas, Totapty and Infinity/ Toàn thể tính và vô hạn, trang 225.

Như trên, trang 262.

Kundera, The Book of Laughter and Forgetting/ Cuốn sách của cười vang và lãng quên, trang 4.

Foucault, The History of Sexuapty/ Lịch sử về tính dục , trang 93.

Đây là bài học đầu tiên mà McNamara cống hiến trong phim The Fog of War/ Sương mù chiến tranh của Morris.

Voices from S-21/ Những tiếng nói từ nhà tù S-21 của Chandler, là một kết toán uy thế về nhà tù này và những nạn nhân của nó, cũng như là Facing Death in Cambodia/ Giáp mặt cái chết ở Campuchia của Maguire.

When the War Was Over/ Khi chiến tranh kết pễu của Becker hữu ích trong việc thông hiểu lịch sử này.

Ratner, In the Shadow of the Banyan/ Dưới bóng cây đa, trang 277.

Panh và Bataille, The Epmination/ Cuộc thanh toán, bản Kindle, định vị số 2110.

Như trên, định vị số 418

Michael Paterniti, “Never Forget”/ “Đừng bao giờ quên,” trang 9.

Panh và Bataille, The Epmination/ Cuộc thanh toán, bản Kindle, 678.

Như trên, định vị số 3098

Như trên, định vị số 1298

Như trên, định vị số 2998

Như trên, định vị số 3004

Như trên, định vị số 2866

Như trên, định vị số 2164

Như trên, định vị số 1881

Như trên, định vị số 928

Như trên, định vị số 1736

Như trên, định vị số 2195

Như trên, định vị số 2202

Dunlop, The Lost Executioner/ Đao phủ thất tung , trang 23.

Sebald được trích dẫn trong Schwartz, The Emergence of Memory/ Sự hiện xuất của kí ức , định vị số 591‒93.

Panh và Bataille, The Epmination/ Cuộc thanh toán, bản Kindle, 1547.

Kundera, The Book of Laughter and Forgetting/ Cuốn sách của cười vang và lãng quên, trang 85‒87.

Levinas, Totapty and Infinity/ Toàn thể tính và vô hạn, trang 303.

Như trên, “Tha nhân không phải là sự nhập thể của Thượng đế, nhưng chính bởi khuôn mặt của y, trong đó y không nhập thể, là biểu hiện của độ cao trong đó Thượng đế được mạc khải” (79).

Như trên, tr. 261

Như trên, tr. 233

Như trên, tr. 71

Như trên, tr. 51