Chú thích: VỀ SỰ THÀNH NHÂN
The Korean War/ Chiến tranh Triều tiên của Cumings cung cấp thông tin lịch sử về cuộc chiến cho chương này.
Xem Gooding-Wilpams biên tập cuốn Reading Rodney King, Reading Urban Uprising/ Đọc Rodney King, đọc nổi dậy thành thị để có thêm về những biến cố ở Los Angeles.
Để có một kết toán về những người nhập cư ở Los Angeles, xem Abelmann và Lie, Blue Dreams/ Mộng sầu.
Jager, “Monumental Histories”/ “Những lịch sử về tượng đài,” trang 390.
Moon mô tả tính hiện đại quân sự hoá như vầy trong tương quan với Nam Triều tiên: “Những yếu tố cốt lõi của tính hiện đại quân sự hoá pên can tới việc kiến thiết quốc gia Triều tiên/ Hàn quốc như một tự thân chống cộng giao chiến với kẻ khác cộng sản, sự cấu thành của những thành viên của cơ thể chính trị chống cộng qua kỉ luật và sức mạnh vật lí, cùng sự đan xen của nền kinh tế công nghệ hoá với sự phục vụ quân sự. Sự quân sự hoá của căn cước quốc gia như vậy xoay quanh những ý hệ về chủ nghĩa chống cộng và an ninh quốc gia. Nói cách khác Nam Triều tiên được đặt nền tảng như một quốc gia chống cộng chống lại “kẻ thù đầu sỏ,” là Bắc Triều tiên. Sự kiến thiết về ý hệ của quốc gia cho phép nhà nước canh tân có thể khai triển những kĩ thuật kỉ luật về giám sát và quy chuẩn hoá, cũng như sự bạo động được thiết chế, trong việc khuôn đúc lại những cá nhân và những đoàn thể xã hội. Nó cũng đã có kết quả là sự ưu thắng của an ninh quốc gia quân sự hoá lấn lướt trên bất cứ đề xuất xã hội chính trị nào và đã biện minh cho việc kiến thiết về quân sự hiện đại hùng mạnh và sự hội nhập chế độ quân dịch của nam giới vào sự tổ chức về nền kinh tế” Miptarized Modernity and Genderd Citizenship in South Korea/ Hiện đại tính quân sự hoá và quyền công dân theo phái tính ở Nam Hàn , trang 24).
Cumings pên kết cái kí ức được vệ sinh hoá của Hàn quốc về Chiến tranh Triều tiên với cái kí ức được vệ sinh hoá của nó về vai trò của nó trong cuộc chiến này trong bài của ông “Chiến tranh Triều tiên.”
Xem “Surrogate Miptary, Subimperiapsm, and Mascupnity”/ “Lính đánh thuê, chủ nghĩa đế quốc hạ đẳng, và nam tính” của Lee, trang 657, về đặc trưng của Nam Triều tiên/ Hàn quốc như một đế chế hạ đẳng. Ý niệm về các quốc gia ở Đông Á, đặc thù là Nhật bản, Triều tiên, và Đài loan, như những đế chế hạ đẳng có một mối quan hệ thuộc địa mới với Hoa kì tới từ cuốn Asia as Method/ Châu Á như phương pháp của Chen.
Sách này được dịch ra tiếng Anh lần đầu tiên vào năm 1994 và rồi một lần nữa vào năm 2014, cả hai lần do cùng một dịch giả. Tôi trích dẫn từ bản dịch sau. Để có thêm về sự sáng nghĩa của cuốn tiểu thuyết này, xem “Locating the Revolutionary Subject”/ “Định vị chủ thể cách mạng” của Hughes
Họ và tên của người Triều tiên đã được Latin hoá thành chữ abc trong nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn như, Hwang Suk-Young, cũng xuất hiện trong những ấn bản hoặc thảo luận phê bình khác nhau như là Hwang Suk-Young và Hwang Seok-young. Tôi theo sự abc hoá họ tên của tác giả, đạo diễn, và nhân vật tuỳ theo lối chúng xuất hiện ở các văn bản xuất bản, bìa, và phim ảnh tôi trưng dẫn.
Hwang, The Shadow of Arms / Bóng che vũ khí, trang 65.
Như trên, trang 66.
Park, “ Narratives of the Vietnam War by Korean and American Writers/ Những tự sự về chiến tranh Việt nam do các nhà văn Hàn quốc và Hoa kì,” trang76.
Hwang, The Shadow of Arms / Bóng che vũ khí, trang 137.
Bởi cả hai Moon ( Miptarized Modernity and Gendered Citizenship in South Korea/ Hiện đại tính quân sự hoá và quyền công dân theo phái tính ở Nam Hàn ) và Choi (“The Discourse of Decolonization and Popular Memory”/ “Diễn ngôn của sự giải trừ thuộc địa và kí ức dân gian”) lập luận trong những đường lối khác nhau, người Nam Triều tiên có một mối quan hệ lưỡng tính đối với phương Tây và cái nó đại diện. Đối với Moon, việc Nam Triều tiên ôm choàng lấy tính hiện đại phương Tây có nhuốm màu do nhận thức rằng tính hiện đại phương Tây là một sự thừa hưởng của chủ nghĩa thực dân. Choi lập luận rằng nam Triều tiên vẫn phải chịu một mối quan hệ tân thuộc địa với Hoa kì. Sự hàm hồ lưỡng tính này về việc trước đây từng bị thuộc địa hoá, nhưng bây giờ lại dinh líu trong việc giúp Hoa kì thực dân hoá hay đô họ những xứ sở khác, góp phần định hình những thái độ của Hàn quốc đối với người Việt nam.
Hwang, The Shadow of Arms / Bóng che vũ khí, trang 41.
Như trên, trang 399
Như trên, trang 46.
Xem Ryu (“Korea’s Vietnam”/ “Việt nam của Hàn quốc,” trang 106) để có trọn vẹn lời bài hát và một kết toán về sự phổ thông của bài hát cùng cuốn phim được thực hiện trên nó. Kwon ( After the Massacre/ Sau cuộc tàn sát, tr. vii) khẳng định tính phổ thông của bài hát, kể lại anh đã hát bài hát đó ra sao khi còn là một thiếu niên trong thời chiến. Trong những kết toán văn hoá đại chúng phổ thông lưu hành bên trong Hàn quốc sau cuộc chiến, người cựu chiến binh Hàn quốc được đặc trưng trong “những tái tạo của nhân vật ROK truyền kì,” tức là người lính của Cộng hoà Triều tiên (Repubpc of Korea, viết tắt là ROK, (Ryu, “Việt nam của Triều tiên,” tr. 102). Có lẽ điều này không gây ngạc nhiên, bởi công chúng Hàn quốc không chống đối cuộc chiến và, theo Moon, không tham gia trong phong trào toàn cầu chống lại cuộc chiến thậm chí mạnh mẽ ngay trong Nhật bản kề cận. Thay vì thế, công chúng đó phải chịu đựng những nỗ lực của nhà nước Hàn quốc về “vận động và tuyên truyền công chúng,” bằng vào đó “học sinh sinh viên được hô hào để gửi những lá thư uỷ lậu và những hàng hoá uỷ lậu tới những binh sĩ Hàn quốc phục vụ ở Việt nam. Những phương tiện truyền thông đại chúng sản sinh một sự thừa mứa về những hình ảnh và những câu chuyện hỗ trợ cho cái huyền thoại hàng ngày về việc những binh sĩ Hàn quốc can trường và dũng mãnh chiến đấu trong cuộc chiến” ( Hiện đại tính quân sự hoá và quyền công dân theo phái tính ở Nam Hàn , trang 26)
Hwang, The Shadow of Arms / Bóng che vũ khí, trang 67.
sự hiện diện của người lính và cô gái điếm là minh chứng cho điều Lee gọi là “sự vô sản hoá về tính dục” (“sexual proletarianization”) ở đó Hàn quốc khuyến khích giới đàn ông nông thôn nghèo tình nguyện qua Việt nam như là “lao động quân sự” và giới phụ nữ nghèo tự xuất khẩu như là lao động tính dục (“Surrogate Miptary, Subimperiapsm, and Mascupnity”/ “Lính đánh thuê, chủ nghĩa đế quốc hạ đẳng, và nam tính,” trang 656). Hwang nhắc tới việc lính Hàn quốc gửi những thiết bị máy móc về nhà trên trang 239 của Bóng che vũ khí
Về những thái độ của Hàn quốc đối với tính da trắng và tính da đen, và cách thế những thứ này đã được định hình bởi Hoa kì và sự hiện diện quân sự của nó ở Nam hàn, xem Imperial Citizens/ Những công dân đế chế của Kim.
Armstrong kết toán về tựa đề tiếng Triều tiên của White War (Hayan chonjaeng/ 白色戰爭/하얀 전쟁 tức Bạch sắc chiến tranh hay Chiến tranh màu trắng) trong “America’s Korea, Korea’s Vietnam”/ “Triều tiên của Mĩ, Việt nam của Triều tiên,” 539n22
Ahn, White Badge/ Phù hiệu trắng , trang 289.
Như trên, trang 40.
Xem Cumings (“The Northeast Asian Poptical Economy”/ “Nền kinh tế chính trị Đông Bắc châu Á”), Woo ( Race to the Swift/ Chạy đua với tốc độ, trang 45‒117), và Woo-Cumings (“Market Dependency in U.S.‒East Asian Relations”/ “Sự lệ thuộc thị trường trong những quan hệ Hoa kì‒Đông Á”) để có những chi tiết về mối quan hệ của kinh tế Hàn quốc với Việt nam Cộng hoà trong suốt cuộc chiến và những hậu quả của mối quan hệ ấy với sự thăng tiến của hàn quốc.
Ahn, White Badge/ Phù hiệu trắng , trang 40.
Như trên, trang 155.
Như trên, trang 69, Lee nói, “Đói và nghèo, họ hăm hở để chứng minh nam tính của họ.” Những người lính hàn quốc trở thành những phiên bản tí hon của người Mĩ, “bắt chước và lặp lại một cách trả thù” (“Surrogate Miptary, Subimperiapsm, and Mascupnity”/ “Lính đánh thuê, chủ nghĩa đế quốc hạ đẳng, và nam tính,” trang 663‒64).
Ahn, White Badge/ Phù hiệu trắng , trang 154.
Như trên, trang 155.
Như trên, trang 78.
Như trên, trang 278.
Như trên, trang 314.
Như trên, trang 155.
Cumings, “The Northeast Asian Poptical Economy”/ “Nền kinh tế chính trị Đông Bắc châu Á,” trang 129.
Để có một việc đọc chi tiết về cuốn tiểu thuyết và phóng tác thành phim ảnh của nó, xem Wilpams, “From Novel to Film” / “Từ tiểu thuyết đến điện ảnh.”
Xem những luận văn trong New Korean Cinema/ Điện ảnh mới của Hàn quốc của Stringer để có thêm về chủ đề này.
Jeffords, The Remascupnization of America/ Sự tái nam nhi hoá của Hoa kì , và Kim, The Remascupnization of Korean Cinema/ Sự tái nam nhi hoá của điện ảnh Hàn quốc .
Như Ryu lập luận, hồn ma nữ trả thù tồn tại như một dấu hiệu về điều mà người Hàn quốc tiếp tục vẫn thấy không thể tưởng tược được, sự kiện rằng những người lính Đại Hàn, như được hàm ý trong cuốn phim, thi hành những chuyện “không thể nói được về bạo động giới tính” bao gồm trọn cả “một phạm vi về hoạt động tính dục từ cưỡng bức tới mua dâm tới bỏ rơi những người vợ Việt nam sống chung và những đứa con hình thành cái thực tại tách khỏi chiến trường cho biết bao nhiêu binh sĩ” (“Korea’s Vietnam”/ “Việt nam của Hàn quốc,” trang 111).
Đề tài về những hồn ma ám ảnh và chấn thương cũng nổi trên bề mặt trong một vở ca kịch của hàn quốc về Chiến tranh Việt nam, Blue Saigon/ Điệu buồn Sài gòn , được trình diễn vào năm 2002 ở nhà hát quốc gia tại Seoul và được cho là những người tạo phim Điểm-R có biết đến. Vở ca kịch đi theo người sống sót duy nhất của một đơn vị Đại Hàn, Trung sĩ Kim, khi anh nằm hấp hối ở Hàn quốc đương đại vì căn bệnh mang đến do Chất độc màu Da cam Hoa kì đã phun rải ra (một quy chiếu khác về Trung sĩ Kim mặt đen của ca khúc đại chúng). Người con gái của Trung sĩ Kim cũng mang thương tật do những tác hại của Chất độc màu Da cam lên cha của cô, trong khi đứa con trai nửa phần (half-son) của anh từ một cô gái phục vụ trong một quán rượu Việt nam và một nhân viên Việt cộng cuối cùng đã tới thăm Hàn quốc, nơi cậu ta bị tỉnh mộng do những gì thấy ra. Khi Trung sĩ Kim nằm hấp hối, một người đàn bà như hông ma xuất hiện cạnh bên giường của ông, hát bài Điệu buồn Sài gòn . Vậy là, trong nhiều đường lối , Điệu buồn Sài gòn chiếm cùng cái lãnh thổ của kí ức như những tác phẩm khác được nêu lên ở đây. Để có bảng tóm tắt về vở ca kịch này và những ý hướng của những nhà sản xuất ra nó, xem Kirk, “Confronting Korea’s Agony in Vietnam”/ “Giáp mặt với sự khắc khoải của Hàn quốc ở Việt nam.”
Chủ đề về “hoả lực bạn” (“Friendly Fire”) là nổi trội những kí ức của Hoa kì về cuộc chiến, như Kinney phô ra trong tác phẩm Hoả lực bạn. Những phim về về cuộc chiến gợi những chủ đề này của Hollywood cho cùng mục đích, để tạo cuộc chiến về những người Đại Hàn hơn là người Việt nam.
Jager và Jiyul trong “The Korean War after the Cold War”/ “Chiến tranh Triều tiên sau Chiến tranh Lạnh,” trang 234, mô tả tuyên xưng này.
Trong tiếng Việt, phần về binh sĩ Đại Hàn gọi họ là “Park Chung Hee’s mercenaries” ( bọn lính đánh thuê Pắc Chung Hy )
Kỳ viết rằng “nhiều người lính tình nguyện Đại Hàn và Thái... đã mua những máy móc rẻ trong các quân tiếp vụ của Mĩ và hoặc là gửi chúng về quê nhà để được bán trên chợ đen hoặc bán chúng cho một người Việt nam gấp ba lần phí tổn mua. Nhưng những người này... là nghèo và lương thấp, và tôi thông hiểu từ kinh nghiệm thiết thân tại sao họ làm điều sai trái ( Buddha’s Child/ Con cầu tự, trang 164)
Brigham, ARVN: Life and Death in the South Vietnamese Army/ Quân lực Việt nam Cộng hoà: Sống và chết trong quân đội Miền nam Việt nam , trang 60.
Đoạn của Michèle Ray trong cuốn phim phản chiến gồm nhiều tiết mục Loin du Vietnam/ Xa Vệt nam (được đạo diễn do Joris Ivens và những người khác) thảo luận về cách “người Việt nam không ưu và sợ những người Đại Hàn này” (vào lúc đánh dấu 1 giờ 11 phút).
Hayspp, When Heaven and Earth Changed Places/ Khi đất trời đảo lộn , trang 198.
Kwon, After the Massacre/ Sau cuộc tàn sát , trang 29.
Ryu gọi ca khúc này là một sự đại ăn khách (“Korea’s Vietnam”/ “Việt nam của Hàn quốc, trang 104).
Về cách những kí ức về các binh sĩ Đại Hàn và những hành động của họ tác động ra sao lên những mối quan hệ hậu chiến giữa thường dân Việt nam và nhà nước Việt nam, xem After the Massacre/ Sau cuộc tàn sát của Kwon.
King, “Phát biểu tại Đại hội Thường niên lần thứ Tư của Học viện về Bất Bạo động và Thay đổi Xã hội tại Nhà thờ Bethel Baptist.
Như trên, trang 339.
Để có viễn kiến của người Mĩ gốc Hàn quốc về cuộc bạo loạn ở Los Angeles và một kết toán về cái chết của người Hoa kì gốc Hàn quốc duy nhất, xem phim tài pệu Sa-I-Gu.
Tôi rất đội ơn Heonik Kwon đã cung cấp cho tôi những hướng dẫn về đài tưởng niệm. Tác phẩm của ông về đài tưởng niệm trong After the Massacre/ Sau cuộc tàn sát đã cho thông tin nhiều cho sự thảo luận của tôi về đài tưởng niệm, cũng như “ ‘Vấn đề Việt nam’ của Hàn quốc” của Kim.