Chương I MỘT PHÁC THẢO CHÂN DUNG
“Một người dáng vẻ rất giản dị. Một bộ mặt cởi mở. Còn hơn một anh hùng. Tướng Giáp. Ông thuộc dòng những chiến sĩ mà người ta sẽ kể những chiến công từ thế hệ này qua thế hệ khác. Có lẽ ngay cả những nhà sử học cũng cần rất nhiều luận chứng để tránh miêu tả ông như một nhân vật truyền thuyết, để kể lại trung thành những giá trị của ông…” ( Trích xã luận của tờ El moudjahd xuất bản ngày 4 tháng 1 năm 1976, Algeria )
❖ 1 ❖Một tối mùa đông năm 1970, theo triệu tập của Văn phòng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tôi tới làm việc tại nhà riêng.
Sáu năm trước đó, đầu tháng 4 năm 1964, tôi là một nhà văn quân đội được Tổng cục Chính trị cử tới giúp Đại tướng ghi lại một vài kỷ niệm về Điện Biên Phủ để in vào cuốn hồi ức được xuất bản nhân dịp kỷ niệm mười năm chiến thắng lịch sử (1) . Chẳng cần nói, tôi đã hồi hộp như thế nào khi lần đầu được trực tiếp gặp đồng chí Tổng tư lệnh, ước mơ của không ít những nhà văn viết về chiến tranh. Tôi chỉ có một tháng để viết khoảng một trăm trang in. Công việc hoàn thành đã mang lại cho tôi may mắn được tiếp tục làm việc với Đại tướng một thời gian dài.
Người chiến sĩ cảnh vệ đưa tôi vào phòng khách. Đồng chí Chánh văn phòng không có mặt. Tôi biết đây không phải buổi làm việc chính thức. Trong lúc ngồi đợi, tôi băn khoăn không hiểu Đại tướng gọi tới vì việc gì.
Anh Văn từ phòng trong đi ra. Anh vẫn mặc quân phục. Nụ cười tươi làm bộ mặt anh sáng rỡ. Tôi nhìn thấy anh cười lần đầu trong cuộc duyệt binh của tự vệ thành tại Nhà đấu xảo Hà Nội năm 1946. Nụ cười này là của Bác tặng cho anh. Anh Văn vốn có vẻ mặt nghiêm nghị, khiến một số người mới gặp phải e ngại. Anh đã kể với tôi, sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, anh làm việc ở Bắc Bộ Phủ, một hôm Bác nhìn anh, rồi hỏi:
- Sao chú Văn lúc nào cũng có vẻ mặt như đang giận ai?
Từ đó anh hay cười. Nụ cười góp phần cho những buổi làm việc rất có hiệu suất.
Tôi đứng lên chào, rồi hỏi:
- Thưa anh, anh mới ở trong Thành về.
Anh nói:
- Có một vài việc phải giải quyết gấp, ngày mai tôi đi Liên Xô…
Tôi hơi bị bất ngờ. Vì mỗi lần thủ trưởng Bộ ra nước ngoài đều có một thời gian chuẩn bị, gần đây không thấy ai nói chuyện này.
Anh nói tiếp:
- Hôm vừa rồi, Quân Y viện 108 phát hiện ở hàm tôi có một cái nhân. Điện hỏi ý kiến Liên Xô, bạn bảo cần sang ngay.
Tôi bàng hoàng. Nếu có chuyện không may đến với anh giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra quyết liệt…! Với cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân, Tổng tư lệnh chính là linh hồn của quân dội.
Chị Bích Hà cũng ở phòng trong đi ra. Khác với mọi lần, đôi mắt chị lộ vẻ ưu tư. Tôi hỏi chị:
- Chị cũng đi với anh?
Chị nhè nhẹ gật đầu.
Người phục vụ mang ra ba bát chè sen nhỏ. Anh Văn chỉ ăn hết nửa bát. Chị Hà im lặng cầm bát chè của anh ăn tiếp. Anh Văn không nói gì về công việc. Tôi biết cuộc gặp không kéo dài, anh chị còn phải chuẩn bị cho chuyến đi ngày mai.
Khi tôi sắp về, anh Văn chỉ vào miệng:
- Ở vị trí này, thường là rất nhanh. Nếu qua kiểm tra ở Liên Xô, đúng là có chuyện…, tôi sẽ bàn với anh làm gấp một đôi việc.
Tôi biết anh có điều muốn nhắn gửi lại cho mai sau.
Anh chìa tay cho tôi khi chia tay. Tôi lo lắng nắm tay anh:
- Cầu mong là sẽ không có chuyện gì…
Anh mỉm cười, nụ cười lúc nào cũng tươi, như để an ủi tôi.
Nhưng rồi chỉ vài tuần sau, anh đã trở về. Anh cho biết khi máy bay mới tới Tasken, địa đầu Liên Xô, một đoàn bác sĩ của bạn đã tới đón tại phi trường. Đồng chí trưởng đoàn chăm chú ngắm nhìn anh, rồi nhận xét: “Với thần sắc Đại tướng, tôi cam đoan là không có chuyện đó”. Và qua lần kiểm tra rất kĩ lưỡng, đúng là không có chuyện gì.
Chuyện này qua đi, không ai chú ý. Riêng tôi cứ nhớ mãi. Đây là lần đầu, tôi trực tiếp chứng kiến anh đối mặt với một “tai biến” (cũng may đó chỉ là sự lầm lẫn). Sao một con người có thể thanh thản đến như vậy? Và sau này, tôi có dịp chứng kiến thái độ của anh trước những thử thách trong chiến tranh, trong cuộc sống, có trường hợp vượt quá sức chịu đựng của con người, anh đều có một thái độ cực kỳ bình thản. Nhưng, như lời anh nói: “Sau lúc đó, thì tôi mệt”. Cái mệt chỉ đến sau với anh.
Đây là một đức tính rất lạ ở anh. Đức tính góp phần giúp anh vượt khó trong cuộc hành trình xuyên thế kỷ.
❖ 2 ❖Sau khi chiến tranh kết thúc, nhiều người trong nước cũng như ngoài nước hỏi Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn Đại tướng làm người đứng đầu lực lượng vũ trang?” Có lần anh mỉm cười trả lời: “Điều này phải hỏi Bác…”
Tôi cũng đã có lần hỏi anh Văn: “Xin anh cho biết vì sao Bác đã chọn anh phụ trách đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân?” Anh nói: “Tôi đã suy nghĩ về chuyện này, cũng chưa thật hiểu vì sao, bây giờ Bác đã đi xa, chỉ còn là ức đoán”.
Năm 1940, Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng được Trung ương Đảng ta cử sang Vân Nam gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Khi đó, anh hai mươi chín tuổi, đầy nhiệt huyết. Bác đã năm mươi, với ba chục năm đi tìm đường cứu nước đầy gian nan. Phạm Văn Đồng đã biết Bác từ năm 1927 tại Quảng Châu khi anh dự một lớp huấn luyện chính trị mà Bác là một giảng viên, và là người tổ chức “Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội”. Võ Nguyên Giáp mới gặp Bác lần đầu. Nhưng Nguyễn Ái Quốc đã trở thành thần tượng của anh từ đầu những năm hai mươi của thế kỷ khi còn ngồi trên ghế trường Quốc học Huế. Anh chỉ mong một lần được gặp Nguyễn Ái Quốc. Người thanh niên trong ảnh ngày trước, đội mũ phớt, mặc Âu phục có cặp mắt sáng quật cường, lúc này đã trở thành một ông già Á Đông rất bình dị, cái khác ở Bác là sự trầm lắng của một nhà Cách mạng đã được tôi luyện. Anh chưa biết cuộc gặp sẽ mang lại một bước ngoặt quyết định trong cuộc đời mình.
Qua vài lần gặp, Bác nói: “Chú Văn sẽ lên Diên An học quân sự”. Phản ứng đầu tiên của anh là: “Từ trước tới giờ chỉ quen cầm bút chưa quen cầm kiếm”. Anh tốt nghiệp cử nhân Luật và Kinh tế, tham gia hoạt động Cách mạng từ năm mười bốn tuổi khi còn ngồi trên ghế nhà trường, thường viết báo và dạy học. Sau đó, anh lên đường đi Diên An. Dọc đường, Bác gọi quay lại. Nước Pháp đã đầu hàng phát xít Đức, Bác thấy mọi người cần trở về nước ngay để chuẩn bị đón thời cơ. Nhiều người tiếc cho chuyện đi học quân sự không thành của anh.
Gần đây, một nhà nghiên cứu về quân sự người Mỹ hỏi: “Ông đã là giáo sư lịch sử, được biết ông giảng dạy rất hay về Napoléon, xin ông cho biết đã chịu ảnh hưởng gì về mặt quân sự của vị tướng này?” Anh trả lời: “Tôi chưa hề nghĩ là về mặt quân sự mình có chịu ảnh hưởng gì của Napoléon hay không. Khi đó tôi ít chú ý đến công tác quân sự vì không hề nghĩ sẽ có ngày mình làm công tác quân sự. Còn công tác quân sự của Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến cứu nước, rất khác với những gì Napoléon đã làm”.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám năm 1941 tại Cao Bằng, dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền.
Võ Nguyên Giáp được Bác trao nhiệm vụ đi xây dựng cơ sở Cách mạng, thành lập những hội cứu quốc ở Cao Bằng. Những đồng chí ở địa phương rất thương anh cán bộ nước da mỏng như da con gái, đôi chân trần chưa một vết chai, lội suối sâu giá buốt, trèo núi đá tai mèo nhọn sắc, và họ ngại ngùng trong những đêm đông lạnh cùng đắp chung với anh chiếc chăn sui. Anh học tiếng Tày, tiếng Mán, tiếng Mông, dịch “Việt Minh ngũ tự kinh” (chương trình Việt Minh bằng thơ năm chữ) thành tiếng địa phương để đồng bào vừa cán bông, giã gạo vừa hát. Những nơi anh tới, phong trào phát triển rất nhanh. Địch phản ứng quyết liệt. Có lần anh đang công tác tại bản Nà Dú thì địch tới càn quét truy lùng cán bộ Cách mạng. Bác cử người đến bảo anh trở về căn cứ. Anh đề nghị Bác cho ở lại cùng đồng bào chèo chống qua cơn nước lửa. Rồi Bác trao nhiệm vụ cho anh mở con đường Nam tiến qua vùng địch chiếm, bắt liên lạc với miền xuôi, trước hết là hai tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang. Anh đã hoàn thành tốt nhiệm vụ khó khăn này. Một lần, anh Phạm Văn Đồng ở với Bác tại khu căn cứ, kể lại với anh: “Bác nói: chú Văn công tác rất tốt”.
Năm 1942, Bác ra nước ngoài gặp Đảng Cộng sản Trung Quốc, trên đường đi bị Quốc dân Đảng Trung Hoa vu cho là Hán gian, bắt giam một thời gian dài. Tại Cao – Bắc – Lạng, phong trào Cách mạng phát triển rất sôi nổi, rộng khắp. Địch lo sợ, tiến hành khủng bố trắng. Liên tỉnh ủy Cao – Bắc – Lạng quyết định khởi nghĩa để bảo vệ phong trào. Tháng 9 năm 1944, chỉ còn chờ qua mùa gặt, đồng bào thu hoạch thóc lúa xong, thì cuộc khởi nghĩa sẽ bắt đầu. Giữa lúc đó, có tin Bác thoát khỏi ngục tù Quốc dân Đảng trở về. Đồng chí Vũ Anh và anh Văn lên Pác Bó gặp Bác.
Đồng chí Vũ Anh (2) báo cáo với Bác về tình hình Cao – Bắc – Lạng và ý định của Liên tỉnh ủy muốn tiến hành khởi nghĩa. Bác cân nhắc rồi nói là điều kiện tổng khởi nghĩa chưa chín muồi. Nếu bây giờ khởi nghĩa đơn độc nổi lên ở Cao – Bắc – Lạng nhất định kẻ địch sẽ tập trung lực lượng đàn áp. Hiện nay không thể tiếp tục đấu tranh theo phương thức hòa bình, mà phải từ hình thức chính trị tiến lên quân sự. Chính trị còn trọng hơn quân sự. Ta sẽ lập đội quân giải phóng, lúc đầu chỉ cần tổ chức một lực lượng nhỏ. Dùng hình thức vũ trang gây ảnh hưởng Cách mạng sâu rộng trong quần chúng, sau đó mở rộng, phát triển dần lên.
Theo lời anh kể lại, anh hoàn toàn bất ngờ khi được Bác hỏi:
- Việc này trao cho chú Văn. Chú Văn có làm được không?
Anh trả lời ngay:
- Thưa Bác, có thể được.
Sự thay đổi này cũng dễ hiểu. Từ sau khi có Nghị quyết 8 của Trung ương, suốt bốn năm qua, anh đã trực tiếp tham gia công cuộc chuẩn bị tổng khởi nghĩa ở Cao – Bắc – Lạng, và đã được thực tế rèn luyện, đấu tranh võ trang là phần quan trọng trong chương trình chuẩn bị khởi nghĩa mà mọi người đã từ lâu chuẩn bị.
Bác hỏi tiếp:
- Mình còn yếu, địch mạnh, nhưng nhất định không để địch tiêu diệt, có thể như thế được không?
- Thưa Bác, nhất định kẻ địch không thể tiêu diệt ta được.
Anh đã nghĩ đến lực lượng Cách mạng bị địch khủng bố rất gắt gao những năm qua vẫn tồn tại thì đội quân Cách mạng đầu tiên sẽ không thể bị chúng tiêu diệt.
Bác đặt tên đội quân chủ lực đầu tiên là Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân.
Võ Nguyên Giáp được trao nhiệm vụ đơn giản như vậy. Lúc này, anh cũng chưa hiểu hết những kỳ vọng Bác đặt vào đội quân nhỏ bé này.
Đêm hôm đó, anh ở lại với Bác tại hang Pác Bó. Hai người trao đổi tới khuya về đội quân sắp ra đời. Câu chuyện rất hào hứng khi bàn về tiền đồ của đội quân. Bác bỗng trầm ngâm rồi nói: “Người làm Cách mạng phải “Dĩ công vi thượng” (đặt lợi ích chung lên trên hết). Sau này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thường nói: “Dĩ công vi thượng, suốt đời vì nước vì dân, không mảy may có chút suy nghĩ nào khác, là đạo đức cao cả nhất của người Cách mạng. Tôi nhớ mãi câu này của Bác và phấn đấu suốt đời để làm theo”.
Đặc điểm của thời đại hiện nay là tốc độ vận hành của lịch sử mỗi lúc một nhanh, nhiều cái đã qua đang nhanh chóng chìm sâu vào quên lãng, không biết sau này có ai tin rằng một con người góp phần làm nên một sự nghiệp kì vĩ chỉ nhờ vào một câu nói như vậy!
❖ 3 ❖Những người đã có dịp làm việc nhiều với anh Văn, đều thấy trong mỗi việc làm, dù lớn hay nhỏ, anh đều muốn đạt tới sự toàn thiện, tất nhiên là sự toàn thiện trong giới hạn thời gian cho phép.
Anh sớm có niềm đam mê đối với công việc ngay từ thời thanh niên. Dường như anh không thể có lúc nào đó ngừng làm việc. Công việc đối với anh đã trở thành niềm vui, thành lẽ sống. Người ta có thể rối mắt khi nhìn tấm bảng ghi chương trình làm việc của anh hàng ngày. Những công việc rất khác nhau. Có lẽ anh đã tìm cách giải trí bằng sự sắp xếp những nội dung khác nhau trong một ngày làm việc. Đối với người phụ trách về sức khỏe, anh luôn luôn vi phạm giờ giấc. Tôi đã chứng kiến nhiều lần anh cố gắng thuyết phục bác sĩ: “Chỉ một chút nữa thôi, sắp xong rồi.” hoặc: ”Làm việc này có gì mệt đâu!”.
Sự di chuyển, sự thay đổi không khí mang lại cho anh thích thú trong công việc. Tôi đã theo anh nhiều lần trong những chuyến công tác. Bao giờ cũng có một số cán bộ cùng đi. Người này làm việc xong lại tiếp người khác. Những năm chiến tranh, anh làm việc cả trên đường đi. Xe anh chạy trước, một cán bộ ngồi cùng anh. Một số cán bộ khác ngồi ở chiếc xe sau sẵn sàng chờ đến lượt. Không phải ai cũng quen với cách làm việc này. Làm việc với anh, thường là những giây phút căng thẳng. Anh hay có những câu hỏi bất chợt, mà người được hỏi không thể tùy tiện trả lời, vì anh nhớ rất lâu, và khi có dịp sẽ kiểm tra lại. Nhiều người không giấu được vẻ lo lắng khi nghe gọi tên. Một lần đoàn xe đổ dốc Tam Đảo, xe anh đi trước bỗng dừng lại. Một cán bộ xuống xe, mặt xanh xám. Anh Văn cũng xuống theo, thái độ rất băn khoăn. Hình như anh không hiểu tại sao lại có những người không thể làm việc khi ngồi trên xe!
Những văn bản do anh làm chỉ được coi là hoàn thành khi nó đã được gửi đi hoặc in ra.
Tuổi tác không làm mất đi của anh niềm đam mê này. Chỉ có sức khỏe là hạn chế được nó. Những người có trách nhiệm đã tìm mọi cách rút bớt chương trình làm việc của anh, nhưng đôi lúc họ cũng nhận thấy: để anh làm việc ở một chừng nào đấy mới là cách bảo vệ sức khỏe tốt nhất cho anh.
❖ 4 ❖Tôi đang làm công việc phác họa chân dung đồng chí Tư lệnh chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, cũng là đồng chí Tổng tư lệnh của hai cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.
Có lẽ cần bổ sung thêm một nét.
Tôi kém anh mười lăm tuổi.
Vào những năm tôi đã lớn tuổi rồi, có lúc anh bỗng dưng hỏi:
- Năm nay anh bao nhiêu tuổi?
Tôi biết là anh rất ít quên tên, quên tuổi những người anh đã hỏi một lần. Tôi đáp lại để nhắc anh là mình không còn trẻ nữa.
Anh mỉm cười nói:
- Thích nhỉ!
Dường như anh thèm được ở tuổi như tôi. Và có thể anh muốn nhắc đối với công việc, đừng bao giờ coi là mình đã già, hãy nhìn anh. Tôi cảm thấy anh không muốn người khác nhắc đến tuổi tác của mình, cái tuổi cần nghỉ ngơi, vì anh vẫn có khát khao được làm việc.
Sau ngày đất nước thống nhất, anh Văn nói với tôi là muốn viết lại về cuộc chiến này, trước hết là kháng chiến chống Pháp và đặc biệt về Điện Biên Phủ. Anh nói: Muốn hiểu Điện Biên Phủ thì phải nhìn lại toàn bộ cuộc chiến tranh Cách mạng giải phóng dân tộc của ta, và phải giải đáp được ba câu hỏi:
1.Vì sao phải đánh?
2.Vì sao đánh lâu đến thế?
3.Cuối cùng, quan trọng nhất, vì sao đánh thắng?
Tôi đã dành hàng chục năm để giúp anh viết những tập hồi ức về kháng chiến chống Pháp. Mỗi lần sách tái bản, anh lại thấy cần được sửa chữa, bổ sung.
Điện Biên Phủ đã đưa tôi đến với Chỉ huy trưởng chiến dịch. Chính là trong thời gian giúp anh làm bản tổng kết thực tiễn về cuộc kháng chiến, tôi đã tiếp tục khẳng định hướng đi của mình trong nghề cầm bút. Tôi gần như quên chuyện văn chương mà chỉ nghĩ làm cách nào ghi lại thật nhiều những gì mình đã nghe, đã biết về hai cuộc kháng chiến.
Đã có không ít những cuốn sách ở trong nước, cũng như ở nước ngoài viết về Điện Biên Phủ. Nhưng hình như vẫn còn không ít những huyền thoại “đa chiều” về chiến thắng lịch sử. Tôi không mong mang lại cho người đọc những điều mới lạ, chỉ muốn làm rõ hơn một số sự thật để xóa bỏ những huyền thoại không nên có về những sự kiên có thật, những con người có thật đã làm nên lịch sử.
Chú thích:
1. Một vài hồi ức về Điện Biên Phủ, Tập 1. Nxb Quân đội nhân dân. 1964.
2. Đồng chí Vũ Anh khi đó là Ủy viên Trung ương Đảng.