Chương II TRỞ LẠI ĐIỆN BIÊN
❖ 1 ❖
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã bước sang tuổi chín mươi hai, những lần ông phải tới bệnh viện kiểm tra sức khỏe qua mỗi năm càng gần nhau hơn. Ông nói vui với những người tới thăm: “Bảy mươi tính năm, tám mươi tính tháng, chín mươi tính ngày”. Tuy vậy, ông vẫn có kế hoạch sẽ trở lại Mường Thanh nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ.
Những tháng cuối năm 2003, bỗng nhiên, rộ lên những tin không lành về sức khỏe tướng Giáp. Tin này được Văn phòng của Đại tướng ở Hà Nội và một số cơ quan có trách nhiệm dùng cách này hay cách khác cải chính. Lúc đó, ông đang tránh rét ở thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 29 tháng 12 năm 2003, báo VietNamNet đưa tin Đại tướng và phu nhân đang thăm tỉnh Đồng Nai, ngài đô đốc Madhvendra Singh, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Ấn Độ, nhân dịp đến thăm và làm việc tại Việt Nam đã đến chào Đại tướng. Phóng viên còn đưa tin thêm, Đại tướng đã nói là có thể trở về chiến trường xưa nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ để cảm ơn đồng bào các dân tộc. Sau đó, phóng viên báo Tiền Phong Chủ nhật từ Hà Nội gọi điện vào thành phố Hồ Chí Minh trực tiếp hỏi thăm sức khỏe Đại tướng. Ông xuất hiện trên trang nhất với nụ cười tươi và câu trả lời in thành tít lớn: “ Cảm ơn Tiền Phong, tôi vẫn khỏe ”. Nhưng dường như càng cải chính, những tin không lành lại càng được khẳng định, người ta cho rằng đây là cách trấn an dư luận của các cơ quan truyền thông trong khi chờ cuộc họp của Trung ương sắp diễn ra.
Chỉ đến 2 giờ 30 phút chiều ngày 3 tháng 3 năm 2004, khi ông xuất hiện trước ống kính của các hãng thông tấn và báo chí tại nhà riêng, số 30 đường Hoàng Diệu, Hà Nội, những tin đồn quái ác này mới được dập tắt. Không biết những tin đồn xuất phát từ đâu. Đối với ông, sự có mặt trong dịp kỷ niệm nửa thế kỷ chiến thắng Điện Biên Phủ, chắc chắn là một niềm hạnh phúc lớn. Có vị Chỉ huy trưởng chiến dịch nào, 50 năm sau, lại có may mắn trở lại chiến trường nơi đã diễn ra trận đánh “còn kinh hoàng hơn so với Waterloo” (1) do mình chỉ huy, trận đánh ngày càng in đậm dấu ấn trong lịch sử võ công của dân tộc? Không phải chỉ riêng ông, nhiều người đã có mặt tại chiến trường Đông – Xuân 1953 – 1954, và rất nhiều người thuộc những thế hệ sau cảm thấy sự xuất hiện của Đại tướng Tổng tư lệnh, Chỉ huy trưởng Chiến dịch Điện Biên Phủ, trong lễ kỷ niệm là một niềm vui lớn. Không ai đi tìm hiểu nguồn gốc một dư luận, nhất là khi nó đã chứng tỏ chỉ là một tin đồn thổi.
Sáng nay, trước lúc ăn đĩa xôi nóng để chuẩn bị lên đường, ông kể với bà về một giấc mơ đêm qua. Giấc mơ rất ngắn ngủi. Ông đang ngồi chơi ở vườn, ông chợt thấy một kẻ lạ mặt nhảy qua hàng rào, nhớn nhác nhìn trước nhìn sau rồi tiến lại căn phòng làm việc. Ông xông lại hỏi nó: “Mày muốn gì?” Nó lộ bộ mặt của kẻ gian. Ông cho nó một cái bạt tai, và nó cắm đầu chạy biến…
Bà nhớ từ rất lâu đã nghe ông kể một chuyện tương tự. Thời còn là thanh niên, một lần ông từ Vinh đi tàu vào miền Nam, mang theo trong vali một số tài liệu của đoàn thể. Đề phòng mật thám khám chiếc vali, ông đặt nó dưới gầm ghế cách chỗ mình ngồi một quãng. Một tên lưu manh đã nhận ra chiếc vali “vô chủ”. Nó nhìn trước nhìn sau rồi nhích lại gần chiếc vali, cúi xuống toan xách đi. Ông bật đứng dậy, tiến lại trước mặt nó, trừng mắt hỏi:
- Mày định ăn trộm hả?
Tên lưu manh không dám cãi. Ông cho nó một cái tát. Hồi còn ít tuổi, ông có bộ mặt thư sinh, thân hình bé nhỏ, nhưng rắn chắc, và ông rất khỏe. Nhưng có thể là do ánh mắt của ông. Một nữ ký giả nước ngoài đến làm việc với ông, đã nhận xét: “Chưa bao giờ tôi nhìn thấy một đôi mắt đẹp như vậy!”. Nhưng khi ông giận dữ thì cặp mắt ấy trông thật đáng sợ. Tên lưu manh lủi mất. Ông lặng lẽ lui về chỗ mình ngồi. Những người chung quanh nhìn ông với vẻ thán phục một “cậu ấm” giữa đường gặp sự bất bằng. Ông chỉ mong không ai chú ý đến chiếc vali và hỏi chủ của nó. Chuyến đi của ông an toàn.
Bà hơi buồn cười vì trong giấc mơ, ông vẫn thấy mình như một thanh niên. Chính ông cũng có lần tự hỏi: Sao trong những giấc mơ chưa bao giờ thấy mình là một người già?
Lúc này, ông đã ngồi trên máy bay. Bộ Quốc Phòng ưu tiên dành cho ông một chiếc máy bay trong dịp lễ trọng. Cuối cùng, ông quyết định không dùng máy bay quân sự, mà đi bằng máy bay của hãng hàng không Vietnam Airlines . Suốt tháng qua, hãng máy bay này đã dành nhiều chuyến bay miễn phí để đưa những người đã chiến thắng ở Điện Biên Phủ về thăm chiến trường cũ. Tôi giật mình khi nghe tin ông, bà, các con và rất nhiều cháu cùng đi chung trên một chiếc máy bay. Tôi có hỏi bà về chuyện này, bà nói đơn giản: “Không mấy khi có dịp, nên anh Văn và tôi cho các con, cháu cùng đi”. Rồi bà mỉm cười nhắc lại câu bà thường nói: “Ở hiền gặp lành!”. Có lẽ đúng thế. Ông đã nhiều lần gặp nguy hiểm, kể cả vì bệnh tật, nhưng cuối cùng vẫn gặp điều lành.
Năm mươi năm đã trôi qua. Những người gần gũi ông đều ngạc nhiên trước trí nhớ phi thường của ông. Hơn chín mươi năm, ông vẫn nhớ như in những bài vè mẹ và bà ru, những bài học chữ Hán từ thời vỡ lòng rất khó nhớ:
“Ngô tổ Hồng Bàng thị
Triệu Thủy Kinh Dương Vương.
Tích kinh Bắc thuộc thì
Cựu sĩ dĩ nan vong…
Chi Lăng tẩu Tống binh
Bạch Đằng phá Nguyên sư…” (2)
Khi ông hỏi tên một vùng đất, một người nào thì không phải là do thói quen, càng không phải là một cử chỉ xã giao. Những thứ nhiều người thường dễ quên đó sẽ ở lại lâu dài trong bộ nhớ của ông. Dung tích của nó hẳn phải rất lớn, nên ông sử dụng một cách không cần tiết kiệm. Trong đó, những chi tiết về Điện Biên Phủ lúc nào cũng tươi rói.
Lúc này, ông đang nhớ tới một người Thái ở Mường Phăng.
Đó là một người dân địa phương, năm mươi năm trước được kết nạp vào du kích khi bộ đội mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Anh nằm trong số dân quân được phân công bảo vệ vòng ngoài sở chỉ huy chiến dịch. Anh chỉ nhìn thấy Đại tướng trong ngày lễ chiến thắng khi ông đi duyệt bộ đội diễu binh trên cánh đồng Mường Phăng. Bốn mươi năm sau ngày chiến thắng, Đại tướng trở lại Mường Phăng, anh du kích đã trở thành một ông già ngoài bảy mươi tuổi, khá tráng kiện, canh giữ và bảo vệ khu chỉ huy sở được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ, đất, tre lá, đã gần như hóa thân giữa núi rừng. Tên anh là Lò Văn Bóng. Từ sau ngày mở chiến dịch, anh đã gắn bó với khu rừng này. Anh được nhân dân ủng hộ, nên suốt một thời gian dài, nhiều rừng núi chung quanh bị lâm trường, lâm tặc đốn trụi, thì khu sở chỉ huy chiến dịch vẫn giữ được màu xanh nguyên thủy.
Gần đây, con trai ông lên thăm Mường Phăng trở về nói, bác Bóng năm nay đã hơn tám mươi tuổi, vẫn là người bảo vệ khu sở chỉ huy. Ngày trước, bác được địa phương trợ cấp mỗi tháng năm trăm đồng. Số trợ cấp bây giờ là hai trăm nghìn đồng. Bác nói một cách hồn nhiên: “Thời xưa, năm trăm đồng mua được một con trâu, ngày nay giá con trâu là năm triệu đồng. Và số lương hai trăm nghìn bây giờ là của cả năm anh em cùng làm việc ở đây”. Bà Bích Hà sau khi nghe chuyện đã gửi tặng bác Bóng một hộp sâm để tẩm bổ.
Ông đang tự hỏi không biết với suy nghĩ như thế nào mà một người dân Điện Biên đã dành trọn cuộc đời để bảo vệ khu rừng heo hút này…?
❖ 2 ❖Núi rừng Tây Bắc nhanh chóng hiện ra dưới cánh bay. Thời chiến tranh, ông đã nhiều lần qua lại miền rừng núi này. Có thể nói chiến trường Tây Bắc là nơi ông gắn bó nhiều nhất trong kháng chiến chống Pháp.
Tây Bắc được giải phóng muộn nhất sau Cách mạng tháng Tám. Khi ta tiến hành tổng khởi nghĩa giành lại chính quyền từ tay phát xít Nhật, thì một bộ phận đội quân thuộc địa của Pháp trốn chạy sang Trung Quốc sau đảo chính Nhật ngày 9 tháng 3 năm 1945, cũng lập tức quay lại thiết lập quyền thống trị tại Tây Bắc.
Những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến, khi trận đánh ở Hà Nội diễn ra gay gắt, ông phải rút một lực lượng bộ đội tại mặt trận đưa lên Tây Bắc để ngăn quân Pháp tại đây tiến về vùng xuôi. Ông rất yêu bài thơ “ Tây Tiến ” của Quang Dũng:
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm…
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành…
Ông thấy đây chính là hình ảnh của những chàng trai Hà Nội, phần lớn là học sinh, tiến hành cuộc trường chinh lần đầu vào Tây Bắc. Những người không nhất thiết phải sinh ra ở Hà Nội, nhưng khi đã trở thành người Hà Nội, họ có một cái gì riêng khó trộn lẫn. Một chút hào hoa, một chút lãng mạn quyện với khí phách của lòng yêu nước, mà không phải người chiến sĩ nào cũng có. Tây Tiến của Quang Dũng được ông đánh giá là một bài thơ mãi mãi hay về thời kì này.
Mùa hè năm 1948, khi những đơn vị Tây tiến của ta đã bị bật sang tả ngạn sông Đà, ông lại chủ trương mở một cuộc Tây tiến mới. Lần này chỉ có bốn đội tuyên truyền xung phong. Ông đã có kinh nghiệm từ khi Bác trao nhiệm vụ mở con đường Nam tiến từ Cao Bằng về các tỉnh miền xuôi. Đây cũng chính là bài dạy của Bác từ ngày thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Trong khi cả một trung đoàn của ta đã bị địch đẩy ra khỏi Tây Bắc, ta lại chưa có một binh đoàn mạnh để mở đường trở lại vùng địch chiếm, thì cách tốt nhất là dùng phân đội nhỏ thâm nhập vào dân chúng. Kẻ địch dù mạnh, dù đã giăng một mạng lưới tề ngụy dày đặc, cũng khó phát hiện, tiêu diệt. Những người mở đường vào Tây Bắc đã nhận lệnh đem lá cờ đỏ sao vàng cắm trên Điện Biên Phủ, ở tận cùng miền Tây của Tổ quốc.
Trong buổi trao nhiệm vụ cho bốn đội quân Tây tiến, ông chợt nảy ra những vần thơ hào sảng:
Sông Đà, sông Mã uốn dòng
Ghềnh rêu thác bạc ghi công anh hào
Con vàn (3) tung cánh bay cao
Ngọn cờ chỉ hướng, ngôi sao dẫn đường.
Có thời gian, ông đã nghĩ đến một lúc nào đó ta sẽ mở một cánh quân vu hồi từ Tây Bắc lợi dụng thóc lúa dọc triền sông Cửu Long màu mỡ trên đất bạn Lào xuôi xuống Campuchia, rồi đi vào đồng bằng Nam Bộ. Mũi quân này sẽ tránh được những đồn bốt dày đặc suốt dọc đường số 1. Không phải là một ý nghĩ lãng mạn. Nhưng mãi về sau, ý nghĩ này mới trở thành hiện thực trong những năm chống Mỹ.
Năm 1949 và đầu năm 1950, chỉ với những chiếc mác búp đa, ít khẩu sơn pháo chiến lợi phẩm chắp vá lại, và một số súng cối tự tạo, bộ đội ta đã liên tiếp mở những chiến dịch nhỏ trên phòng tuyến sông Thao. Chúng ta đã dành những thắng lợi quan trọng, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch trên chiến trường Tây Bắc.
Cuối năm 1950, một vùng đất đai quan trọng của Tây Bắc được giải phóng. Có thời gian Tây Bắc dường như bị quên lãng, khi ta tưởng có thể kéo quân từ miền núi về đồng bằng thử sức với quân địch trong một vài chiến dịch quyết định.
Nhưng chỉ tới mùa thu năm 1952, bộ đội ta đã quay lại chiến trường Tây Bắc.
Trung tuần tháng 10 năm 1952, tiếng súng của bộ đội ta bắt đầu nổ ở Nghĩa Lộ. Chỉ hơn một tháng sau, bộ đội ta đã giải phóng hầu hết Tây Bắc rộng lớn. Địch chỉ còn co lại ở thị trấn heo hút Lai Châu, và một thung lũng nhỏ hẹp: Nà Sản, chỉ còn một mối liên hệ duy nhất với quân đội viễn chinh là đường hàng không. Nhưng rồi tập đoàn cứ điểm Nà Sản xuất hiện và sau đó là tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, ta và quân Pháp đi vào trận đánh cuối cùng.
Những hình ảnh về Tây Bắc trong những năm chống Pháp hiện ra liên tiếp trong ký ức của ông.
❖ 3 ❖Ông nhìn qua cửa sổ máy bay núi rừng trùng điệp của Tây Bắc phía dưới. So với lần trước ông lên đây thì màu xanh cây cối đã thay thế cho màu cháy xám của những khu rừng. Cũng đã làm được khá nhiều. Lòng ông vui lên.
Đã mười năm ông mới trở lại miền đất này. Mỗi lần có người ở Điện Biên về, ông thường hỏi: “Điện Biên bây giờ như thế nào rồi?”. Ông đặc biệt chú ý đến công trình tôn tạo những di tích chiến tranh ở Điện Biên trong dịp kỷ niệm này. Ông đã dành thời gian, nghe ý kiến nhiều người để lựa chọn một tượng đài cho Điện Biên Phủ…
Cô chiêu đãi viên đi lại nói với Đại tướng:
- Thưa bác, máy bay sắp chuẩn bị hạ cánh.
- Đã tới rồi ư?
Ông ngồi trên máy bay chưa kịp uống hết cốc nước mát.
- Hà Nội lên Điện Biên chỉ có bốn mươi phút bay.
- Thảo nào hồi đó máy bay nó tới đánh mình nhanh thế!
Cô gái mỉm cười vì biết ông nói đùa.
Chiếc máy bay bắt đầu lượn vòng.
Ông chăm chú nhìn qua ô cửa máy bay. Con sông Nậm Rốm nho nhỏ màu ánh bạc, uốn khúc trên cánh đông Mường Thanh đã qua mùa gặt hái, có khá nhiều ngôi nhà mới xây. Sân bay Mường Thanh dễ nhận ra nhất với con đường đôi chạy về thành phố Điện Biên Phủ.
Ông hỏi Hồng Nam, người con trai thứ hai, đã qua lại Điện Biên Phủ nhiều lần:
- Dãy đồi phía Đông ở chỗ nào?
Hồng Nam trỏ một dải rừng xanh rậm phía dưới như bị những ngôi nhà lố nhố chen lấn:
- Nó ở đây ạ.
Ông mở to mắt ngạc nhiên:
- Bây giờ nó như thế này à?
Chú thích:
1. Nhận xét của Jules Roy trong cuốn La Bataille Dien Bien Phu.
2. Sách Ấu học tân thư. Dịch nghĩa:
Tổ ta là Hồng Bàng
Triệu Thủy Kinh Dương Vương
Sự tích thời Bắc thuộc
Mối nhục cũ khó quên …
Chi Lăng đuổi quân Tống
Bạch Đằng phá quân Nguyên …
3. Theo tác giả thì đây là một loài chim ở Tây Bắc