← Quay lại trang sách

Chương III CỨ ĐI RỒI SẼ THÀNH ĐƯỜNG
❖ 1 ❖

Chúng ta đã biết cuối thập niên đầu thế kỷ trước, Nguyễn Ái Quốc rời quê hương đi bốn biển năm châu tìm đường cứu nước, năm 1920, đã đến với chủ nghĩa Lenin, đến với Quốc tế III. Người đã tìm được tổ chức Cách mạng duy nhất trên hành tinh lúc này đứng về phía những dân tộc thuộc địa. Người tưởng đã tìm được đường. Nhưng những người Cộng sản thời đó không tin là Cách mạng Vô sản có thể thành công ở một nước thuộc địa nông nghiệp lạc hậu, giai cấp công nhân chưa phát triển. Nhiều người khuyên với những nước như Việt Nam phải chờ ngày Cách mạng của giai cấp công nhân Pháp ở “chính quốc” thành công, thì người dân thuộc địa sẽ được cùng giải phóng. Nguyễn không đồng tình với ý kiến này. Theo Người, chủ nghĩa đế quốc là “con đỉa hai vòi”, một vòi bóc lột giai cấp Vô sản ở chính quốc, một vòi bóc lột người dân ở các nước thuộc địa. Việt Nam phải đấu tranh cắt đứt cái vòi của đế quốc ở thuộc địa để cùng góp phần với anh em Vô sản ở chính quốc trong sự nghiệp đánh đổ hoàn toàn chủ nghĩa đế quốc. Người ta quý tinh thần yêu Tổ quốc, tích cực cách mạng của ông, nhưng không đồng tình với luận điểm của Nguyễn. Nguyễn vẫn tiếp tục nung nấu những suy nghĩ của mình. Người cho rằng dân tộc Việt Nam đang chết dần chết mòn trong xiềng xích của chủ nghĩa đế quốc, không thể bó tay ngồi chờ cho tới lúc được cuộc Cách mạng Vô sản ở chính quốc cứu sống. Nếu chưa có ai cứu mình thì chính mình phải tự cứu. Cách mạng tháng Mười Nga đã mang lại một bài học: Nếu có sự lãnh đạo sáng suốt của một Đảng tiền phong, một dân tộc bị chủ nghĩa đế quốc nô lệ được giác ngộ, khi thời cơ tới có thể đứng lên đoàn kết đấu tranh đánh đổ chủ nghĩa đế quốc. Từ năm 1923, Người đã cho rằng: “Phải mang sức ta mà giải phóng cho ta, có dân là có tất cả”. Và đã không ngừng đấu tranh ở khắp những nơi Người có mặt để thực hiện hoài bão này, tuy thành công không nhiều. Và không chỉ thế, những hoạt động này không ít khi còn gây khó khăn cho Người vì nó không đúng với đường lối của Quốc tế III lúc bấy giờ.

Suốt thời gian đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc rất chú ý tới vấn đề đấu tranh vũ trang. Người đã tìm cách đưa những đồng chí trẻ của mình vào học tập tại một số trường quân sự của Đảng Cộng sản Liên Xô, Hồng quân Trung Hoa, Quốc dân Đảng Trung Hoa. Người đặc biệt tìm hiểu chiến tranh du kích ở Trung Quốc, ở Pháp, ở Nga. Năm 1940, khi cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai đã lan rộng, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy đây chính là cơ hội để thực hiện hoài bão lớn của mình. Có một điều đáng lưu ý, khi về nước, Người chỉ mang theo rất ít những tài liệu về quân sự. Tác phẩm quân sự duy nhất Người mang về là cuốn “ Tôn Tử binh pháp ” mà Người tự dịch để cho cán bộ đọc. Người tự tay biên soạn mấy tập sách nhỏ, đặt tên là “ Cách đánh du kích ”. Đây là tài liệu quân sự duy nhất cán bộ ta dùng trong thời gian hoạt động vũ trang ở Cao – Bắc – Lạng.

Ngay sau ngày về nước, Bác thành lập một tiểu đội vũ trang để bảo vệ khu căn cứ. Hầu hết những đồng chí cùng về nước với Bác được phái đi xuống các làng, bản, xây dựng phong trào, tổ chức phát động quần chúng đấu tranh đánh Pháp đuổi Nhật. Và chính Bác cũng tự đi vào các làng bản chung quanh khu căn cứ phát động quần chúng tham gia tổ chức Cách mạng. Mỗi lần, những đồng chí đi cơ sở về báo cáo, Bác đều chăm chú lắng nghe. Đôi mắt Người thỉnh thoảng lại sáng lên như ngạc nhiên, như thích thú. Sau này, những người như anh Văn mới hiểu đây chính là lớp học chuẩn bị võ trang khởi nghĩa đầu tiên mà Người là thầy và cũng chính là một học viên. Bác đang thể nghiệm và kiểm nghiệm trong thực tế những mong muốn, những ước mơ, những dự kiến của mình. Và có lẽ cũng từ lúc này, những chiến lược, sách lược, chiến thuật đấu tranh giành lại chính quyền và bảo vệ chính quyền như: khởi nghĩa từng phần, tổng khởi nghĩa chính trị, vũ trang, kháng chiến toàn dân, chiến tranh toàn dân, toàn diện và lâu dài bằng cách đánh du kích mới dần dần được cụ thể hóa qua thực tiễn đấu tranh. Và tất cả chỉ xuất hiện lúc thật cần phải xuất hiện.

Ngày 22 tháng 12 năm 1944, khi thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, những người chung quanh Bác mới được biết cuộc kháng chiến của ta sẽ là một cuộc kháng chiến toàn dân, phải vũ trang toàn dân. Lực lượng vũ trang của ta phải gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, và mối quan hệ hỗ tương chặt chẽ giữa ba lực lượng này trong suốt cuộc chiến tranh. Cách đánh của ta sẽ là cách đánh du kích.

Chắc chắn Nguyễn Ái Quốc tin là cuộc đấu tranh của loài người chống chủ nghĩa phát xít sẽ giành thắng lợi, sẽ tạo cho những dân tộc như Việt Nam một cơ may nào đó để giành lại độc lập, nên Người quyết định tìm mọi cách trở về nước. Ở người có những điều lạ lùng mà ta sẽ không bao giờ hiểu được. Từ năm 1941 tại Pác Bó, Người đã tiên đoán: Cách mạng Việt Nam sẽ thành công năm 1945. Nếu Đồng Minh thắng trận, quân Pháp, Nhật tại Đông Dương sẽ hoang mang, sẽ xuất hiện thời cơ quý giá giúp cho Cách mạng giành chính quyền. Chỉ cần có một chính quyền được toàn dân ủng hộ, ta sẽ vận dụng những sách lược khéo léo để duy trì chính quyền dân chủ qua cơn nước lửa. Muốn làm được điều này nhất thiết phải tiến hành một cuộc tổng khởi nghĩa chính trị kết hợp với tổng khởi nghĩa vũ trang của toàn dân. Điều này đã dẫn tới cuộc họp Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ Tám năm 1941.

Có thể thấy ba năm sau đó, Người đã trăn trở như thế nào đối với cuộc tổng khởi nghĩa chính trị và vũ trang giành chính quyền. Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ mới ra đời hơn 10 năm. Tất cả những việc Người sẽ làm đều chưa có tiền lệ trong lịch sử. Người sẽ chịu trách nhiệm với Đảng của mình, với Quốc tế Cộng sản, và trước hết là với dân tộc.

❖ 2 ❖

Tháng 7 năm 1945, Đồng minh họp tại Postdam. Cuộc chiến giữa Đồng minh và chủ nghĩa phát xít chuẩn bị đi vào hồi kết thúc. Đồng minh bàn tới những việc hậu chiến, trong đó có vấn đề những thuộc địa cũ của Pháp. Roosevelt, tổng thống Mỹ, rất không ưa chế độ thuộc địa cũ của Pháp. Roosevelt có lúc đã ngỏ ý muốn tặng thưởng Việt Nam cho Tưởng Giới Thạch, nhưng Tưởng Giới Thạch lễ phép từ chối: “Người Việt Nam không phải người Trung Hoa. Họ bao giờ cũng khác chúng tôi. Họ vẫn nuôi những hận thù lịch sử. Họ không bao giờ hòa nhập với Trung Quốc và không thể cai trị được”. Khi đề cập tới tương lai của Đông Dương và Việt Nam, ý kiến cuộc họp thấy nên chia Việt Nam làm hai phần, lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới, phần đất phía bắc trước kia thuộc quyền bảo hộ của Pháp, nên nhanh chóng được độc lập, phần đất phía nam hiện nay đang thuộc chế độ thuộc địa sau đó cũng sẽ được độc lập. (1)

Hội nghĩ Postdam quyết định khi Nhật đầu hàng sẽ chia Đông Dương thành hai phần để giải giáp quân Nhật, nam vĩ tuyến thứ 16 được trao cho quân đội Anh, bắc vĩ tuyến thứ 16 sẽ do quân đội Tưởng phụ trách. Chúng ta đã phát hiện ra quãng thời gian rất ngắn từ khi nước Nhật tuyên bố đầu hàng tới lúc quân Tưởng và quân Anh vào Việt Nam, đây chính là lúc quân Nhật mất phương hướng, không còn tinh thần chiến đấu, là thời cơ vô cùng quý giá để huy động lực lượng Cách mạng tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền, như lời Bác nói: “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập, tự do”.

Quân Tưởng và bọn tay sai người Việt kéo vào miền Bắc, sững sờ khi thấy chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được thành lập trên cả nước. Ở miền Nam, quân Pháp bám theo quân Anh không còn cách nào khác là gây lại cuộc chiến tranh cướp nước lần thứ hai và nhanh chóng mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các tỉnh miền Nam.

Sau khi giải giáp quân Nhật tại Nam Việt Nam, quân Anh đã nhanh chóng rút đi. Ngày 28 tháng 2 năm 1946, Paris và Trùng Khánh ký hiệp định Pháp – Hoa thỏa thuận: Quân Tưởng rút khỏi miền Bắc Đông Dương; Pháp trả lại cho Tưởng các tô giới Thượng Hải, Thiên Tân, Hán Khẩu, Quảng Đông… bán lại đường sắt ở Vân Nam, nhận lời với Tưởng là sẽ biến cảng Hải Phòng thành một cảng tự do, hàng hóa của Tưởng chuyển qua miền Bắc sẽ được miễn thuế. Paris và Trùng Khánh làm những việc này không đếm xỉa gì tới chủ quyền của ta.

Nhưng cũng trong chính thời gian điều đình với Trùng Khánh, Pháp lại cử người tới gặp ta tại Hà Nội đề nghị ký một bản hiệp định để mở ra một trang mới trong mối quan hệ Pháp – Việt. Phía Pháp sẽ công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia có chính phủ, Quốc hội, quân đội và tài chính của mình, nằm trong Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp. Về vấn đề thống nhất ba “kỳ”, chính phủ Pháp cam kết sẽ thực thi những quyết định của một cuộc trưng cầu dân ý. Chính phủ nước Việt Nam tuyên bố sẵn sàng đón nhận hữu nghị quân Pháp, theo thỏa thuận quốc tế sẽ tới tiếp phòng quân đội Trung Hoa. Những cuộc đàm phán về quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các quốc gia nước ngoài, quy chế tương lai về Đông Dương, những quyền lợi kinh tế của Đông Dương, văn hóa Pháp và Việt Nam sẽ được bàn bạc. Quân đội tiếp phòng sẽ bao gồm: 10.000 bộ đội Việt Nam, 15.000 quân Pháp, dưới quyền chỉ huy của Pháp với sự tham gia của đại diện Việt Nam. Những đơn vị quân Pháp tiếp phòng sẽ rút dần trong thời hạn 5 năm.

Trong Trung ương có nhiều ý kiến khác nhau. Có người nói: “Trong hiệp định, Pháp đã không hề đả động đến những vấn đề cốt tử của Việt Nam là “Độc lập” và “Thống nhất lãnh thổ””. Lại có người khác nói: “Đây là Pháp dùng cách hòa bình đưa quân đội viễn chinh ra miền Bắc”. Bác nói: “Vì Pháp và Tưởng đã ký hiện định Pháp – Hoa, Pháp vẫn có thể đưa quân ra Bắc không cần tới sự thỏa thuận của ta. Phải biết rõ ý đồ của Pháp thì mới có cách giải quyết thỏa đáng. Không phải Pháp đến ta để tìm một chỗ dựa về pháp lý. Trong khi điều đình với Tưởng, Pháp không hề đếm xỉa tới chủ quyền của ta, nhưng tới lúc này Pháp không thể không tính tới sự có mặt trên thực tế của chính quyền, quân đội và nhân dân ta trên miền Bắc. Quân Tưởng không thể là kẻ đón tiếp quân Pháp trên miền Bắc. Nếu xảy ra điều gì va chạm với lực lượng vũ trang ta, Pháp lo quân Tưởng có thể nổ súng vào chính chúng là kẻ tới đẩy quân Tưởng phải ra đi, để gây chuyện dây dưa ở lại. Thường vụ đã cân nhắc rất nhiều. Nếu một cuộc chiến với Pháp nổ ra ngay lúc này thì vô cùng bất lợi cho ta vì nhân dân và quân đội chưa hề được chuẩn bị. Và biết đâu quân Tưởng lại đứng về phía Pháp để kiếm chỗ cho bọn tay sai ở lại. Tình hình rất tế nhị. Ta phải tranh thủ tất cả những khả năng dù nhỏ nhưng có lợi cho ta”.

Người Pháp có vẻ cấp bách hơn, thúc giục ta sớm đi đến ký kết hiệp định. Sau này ta mới biết, những tàu chiến lớn của Pháp ra Bắc, phải cập bến cảng Hải Phòng mà mỗi tháng ở đây chỉ có ba con nước. Về vấn đề thống nhất Việt Nam, phía Pháp cam kết sẽ thực hiện quyết định của một cuộc trưng cầu dân ý toàn dân về thống nhất ba “kỳ”. Cuộc đấu tranh gay gắt diễn ra trên bàn hội nghị cho đến giờ phút cuối cùng về việc nước Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia “độc lập”. Pháp đề nghị dùng chữ “quốc gia tự trị”. Chữ “tự trị” đối với ta là hoàn toàn không thể chấp nhận. Ta biết phái đoàn này đã nhận được những chỉ thị chặt chẽ của nhà cầm quyền, không thể chấp nhận một sự điều chỉnh quá lớn. Cho tới chiều ngày 5 tháng 3 năm 1946, khi quân Pháp đã có mặt ở bến cảng Hải Phòng, một cuộc nổ súng đã diễn ra giữa quân Pháp và quân Tưởng, cuộc đàm phán giữa ta với Pháp cũng chưa kết thúc. Ta nhận thấy không những phía Pháp, mà cả những người đứng đầu quân Tưởng cũng căng thẳng. Lúc này, Bác mới đưa ra công thức Việt Nam có thể chấp thuận là một “quốc gia tự do” trong Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp.

Hiệp định mồng 6 tháng 3 được ký vào một thời điểm khá thuận lợi ở Pháp. De Gaulle vừa rút lui khỏi chính trường. Félix Gouin (Phêlích Goanh) lên cầm đầu chính phủ Pháp là người thuộc Đảng Xã hội. Người cánh tả chiếm đa số trong chính phủ. Hiệp định mồng 6 tháng 3 nhanh chóng được chính phủ mới của Pháp thông qua.

Nhưng ngay sau đó, cánh hữu đã kịp thời phản kích, lên án Leclerc là người theo “chính sách đầu hàng”; Leclerc bị rút khỏi Đông Dương đưa sang Bắc Phi. Valluy lên thay Leclerc, vốn là một môn đệ của De Gaulle. Đặc biệt, D’Argenlieu, từng là Bộ trưởng trong chính phủ kháng chiến của De Gaulle, người kiên trì với chủ trương duy trì chế độ thuộc địa để hàn gắn nước Pháp bị tàn phá trong thời kì phát xít Đức chiếm đóng. D’Argenlieu công khai bác bỏ nội dung bản hiệp định. Y coi Nam Bộ vẫn là một thuộc địa của Pháp và ngày nay đã được giải phóng, không thể bị đặt trong một cuộc trưng cầu dân ý về thống nhất ba “kỳ”. Y coi sự có mặt của quân Pháp trên miền Bắc là đương nhiên vì đây là chủ trương của Đồng minh. Toàn bộ cố gắng của y là thúc đẩy âm mưu dùng sức mạnh quân sự làm chủ từng vùng, lập rất nhiều khu tự trị trên khắp đất nước ta để đưa Việt Minh vào thế bị bao vây, chuẩn bị cho một cuộc lật đổ nhanh chóng.

Ta kiên quyết yêu cầu Pháp mở cuộc đàm phán về việc thực thi các điều khoản của Hiệp định mồng 6 tháng 3 tại Paris, đã được ghi trong hiệp định chậm nhất là tháng 5 năm 1946. Sau những cuộc đấu tranh kiên trì và khéo léo, cuối tháng 5 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn ta do đồng chí Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn lên đường đi Paris. Bác không ở trong đoàn đàm phán và tới Pháp theo lời mời của chính phủ Pháp.

Ngày 1 tháng 6 năm 1946, Bác và phái đoàn đàm phán của Việt Nam lên đường.

Ngày 7 tháng 6, D’Argenlieu cho ra đời ở Sài Gòn cái gọi là “chính phủ lâm thời của nước Cộng hòa Nam Kỳ”.

Ngày 21 tháng 6, Valluy đến Bắc Bộ Phủ gặp Chủ tịch Quân ủy hội Võ Nguyên Giáp. Y nói:

- Hôm nay, tôi chỉ làm nhiệm vụ của một người lính đến chuyển cho ông Chủ tịch một bức công hàm.

Anh Văn đoán đây lại là một hành động khiêu khích của Pháp:

- Xin ông hãy chuyển cho tôi.

Valluy đưa Võ Nguyên Giáp bức công hàm. Công hàm rất vắn tắt: “Ông Cao ủy Pháp ở Đông Dương, đô đốc D’Argenlieu đã ra lệnh cho quân đội Pháp chiếm đóng cao nguyên Mọi (2) như ông đã nói với Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khi ông ở Hà Nội”.

Valluy đứng chờ chắc muốn biết thái độ của ta. Anh Văn nói với Valluy:

- Ông đã hoàn tất nhiệm vụ được giao.

Và kết thúc cuộc gặp.

Ngày hôm sau, cụ Huỳnh Thúc Kháng gửi công hàm kiên quyết phản đối việc làm trái phép đó và bác bỏ luận điệu xảo trá của Pháp: “Chủ tịch Hồ Chí Minh không bao giờ được người Pháp cho biết trước là sẽ chiếm đóng miền Tây Nguyên và Chủ tịch cũng không bao giờ, bằng bất cứ cách nào, lại đồng ý cho một sự chiếm đóng như vậy”.

Và liên tiếp những sự việc khác.

Bác tới Pháp, giữa lúc nước Pháp đang lâm vào một cuộc khủng hoảng chính trị mới. Chính phủ Félix Gouin, người của Đảng Xã Hội đã phê chuẩn bản hiệp định ký kết giữa ta và Pháp, từ chức. Những người Cộng sản Pháp cho biết Bidault, người sắp lên thay Gouin, chịu ảnh hưởng rất nặng của De Gaulle.

Ngày 20 tháng 7, người Pháp mới lập xong chính phủ lâm thời. Bác được mời từ nơi ở tạm, một thành phố biển ở miền Tây nước Pháp, về Paris.

Cuộc đón tiếp Bác đã diễn ra khá trọng thể.

Bidault nói:

- Sự hiện diện của Ngài ở đây đã làm cho dân chúng Pháp vô cùng thỏa mãn. Sự có mặt ấy chứng tỏ tình thân thiện truyền thống giữa hai dân tộc, tuy có lúc bị mờ tối đi, nhưng nó lại trở thành mạnh mẽ hơn và thành thực hơn…Những lời lẽ nhã nhặn và mặn mà của Ngài rất thích hợp với sự tiếp rước mà Paris và nước Pháp muốn dành cho những nước bạn…Khung cảnh nên thơ và oanh liệt của lâu đài Fontainnebleau, nơi hai phái đoàn Việt Nam và Pháp sẽ gặp nhau sẽ là sự gặp gỡ của Khổng giáo và Triết học phương Tây, với những quan niệm mới mẻ về quan hệ giữa người tự do, đến lẽ tiến hóa và lý tưởng của loài người…

Nhưng hội nghị Fontainnebleau diễn ra sau đó thì lại không giống như vậy, vì nó phải đụng tới những điều cụ thể trong việc thi hành hiệp định giữa hai phía.

Ngay sau diễn văn của trưởng đoàn Pháp, với những câu chúc mừng hào nhoáng mong sao hội nghị sẽ thành công, trưởng đoàn của ta, đồng chí Phạm Văn Đồng, tố cáo Pháp hiện đang tiếp tục chiến tranh ở Tây Nguyên, có nhiều hành động bạo lực ở miền Bắc, rõ ràng nhất mới đây là hành động chiếm dinh toàn quyền cũ tại Hà Nội. Đặc biệt đoàn ta phản kháng kịch liệt âm mưu chia cắt Tổ quốc Việt Nam; việc nhà chức trách ở Sài Gòn vừa cho ra đời một “nước Nam Kỳ tự trị” và tuyên bố thừa nhận cái gọi là “chính phủ lâm thời” của nó.

Cuối cùng, trưởng đoàn Phạm Văn Đồng nói thẳng:

- Hiệp định ngày mồng 6 tháng 3 không phải là để cho quân đội Pháp bình yên kéo vào miền Bắc Việt Nam và chính sách “việc đã rồi” của người Pháp ở Đông Dương không thể làm dễ dàng cho cuộc thương lượng…

Trước những vấn đề cấp bách do ta đưa ra như: đình chiến tại Nam Bộ, thời hạn và cách thức tổ chức trưng cầu dân ý tại Nam Bộ…, đoàn Pháp đều tìm mọi cách lẩn tránh. Ta nhanh chóng nhận ra chính sách đối với các lãnh thổ ở hải ngoại của Pháp, ngoài ít nhiều thay đổi trong tên gọi và hình thức tổ chức, thực chất vẫn là tiếp tục duy trì chế độ thuộc địa cũ, đặt nhân dân ba nước Đông Dương dưới sự thống trị của một thứ chính phủ liên bang, đứng đầu là một viên toàn quyền.

Dân chúng Pháp không biết gì về diễn biến cuộc đàm phán giữa hai phái đoàn Việt Nam và Pháp. Chủ trương của nhà cầm quyền Pháp đưa cuộc hội nghị ra cách xa Paris 60km, nơi giới truyền thông không thể lui tới, nhằm bưng bít trước dư luận những điều đang diễn ra tại hội nghị. Một tuần sau khi hội nghị Fontainnebleau khai mạc, Bác tổ chức một cuộc họp báo tại Paris. Giới truyền thông kéo tới rất đông.

Bác trình bày rõ lập trường hòa đàm của Việt Nam. Rồi kết thúc:

-Về phần chúng tôi, chúng tôi rất thật thà. Chúng tôi mong rằng người khác cũng thật thà với chúng tôi…Nhưng chúng tôi muốn nói với họ, các người hãy phái đến nước chúng tôi những người biết yêu chuộng chúng tôi…Chỉ có lòng tin cậy lẫn nhau và sự cộng tác thật thà, bình đẳng thì mới đi đến kết quả thân thiện giữa hai nước.

Sau những lời tuyên bố thẳng thắn của Bác, giới báo chí bàn tán rất sôi nổi.

Qua hơn nửa tháng trời, hội nghị vẫn dậm chân tại chỗ. Có ngày một nửa số đại biểu không tới họp. Ta yêu cầu bàn bạc về việc thực hiện các điều khoản của Hiệp định 6 tháng 3, người Pháp viện lý do họ không thể tạo ra một tiền lệ cho những thuộc địa khác của nước Pháp chống lại chính quốc!

Ngày 23 tháng 7, báo chí Paris đưa tin D’Argenlieu sẽ triệu tập một hội nghị Liên bang ở Đà Lạt vào ngày 1 tháng 8. Thành phần hội nghị gồm các đại biểu Lào, Campuchia, Nam Kỳ, Nam Trung Kỳ, Tây Nguyên…Rõ ràng Pháp không chỉ muốn tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam mà còn muốn chia cắt Tổ quốc ta thành nhiều vùng, nhiều “nước” khác nhau.

Ngay sáng hôm đó, đoàn ta đưa ra tại hội nghị lời phản kháng kịch liệt. Giống như mọi lần, phía Pháp lại nói là họ sẽ chuyển lời phản kháng này lên chính phủ của họ. Ta đề nghị cuộc họp sẽ tiếp tục khi có ý kiến trả lời của chính phủ Pháp.

Hội nghị thực sự đã trở nên bế tắc. Chính quyền Bidault hoàn toàn im lặng trước những lời phản kháng của ta. Về thực chất, hoạt động của phái đoàn Pháp tại Fontainneleau đã được chính phủ Bidault chỉ đạo rất chặt. Bidault đã đánh giá việc ký Hiệp định mồng 6 tháng 3 là sai lầm có thể dẫn đến sự đổ vỡ của chính nền cộng hòa Pháp.

Đầu tháng 8, tại Bắc bộ, quân Pháp liên tiếp gây những vụ khiêu khích trên con đường Hà Nội – Lạng Sơn. Xe vận tải nhà binh Pháp bắn vào trạm gác của ta rồi bỏ chạy. Những đoàn xe vận tải của Pháp từ Hà Nội lên Lạng Sơn vừa đi vừa bắn phá những nhà cửa hai bên dọc đường. Quân Pháp ngang nhiên đòi chính quyền ta ở Bắc Ninh để cho chúng vào đóng ở trại khố xanh cũ. Yêu cầu vô lý này bị khước từ. Pháp cho bốn máy bay tới ném bom vào trong thành và nhà dân.

Tại Paris, Hội đồng liên bộ họp dưới quyền chủ tọa của Bidault từ ngày 10 đến 12 tháng 8 để bàn về cuộc đàm phán đã bị bỏ dở. Hết tháng 8, hội nghị Fontainnebleau đã không thể họp trở lại.

Đêm 14 tháng 9, Bác ký với Moutet, đại diện chính phủ Pháp một bản tạm ước: Đôi bên tạm thời thỏa thuận gác lại những vấn đề đang tranh chấp để tiếp tục họp bàn vào đầu năm 1947 giữa chính phủ Pháp và chính phủ Việt Nam. Pháp cam kết thi hành những quyền tự do dân chủ ở Nam Bộ, sẽ đình chỉ mọi hoạt động võ lực.

Ngày 16 tháng 9 năm 1946, Bác xuống chiến hạm Dumont d’Urville để trở về Việt Nam. Khi chiếc chiến hạm đi vào vùng biển miền Trung Việt Nam, người Pháp cho biết cai ủy D’Argenlieu và trung tướng Morlière, người mới từ Pháp sang thay Valluy làm Tư lệnh miền Bắc Đông Dương, đã có mặt trên tuần dương hạm Suffren đợi ở Cam Ranh để đón Bác.

Thủy thủ Pháp đứng xếp hàng trên boong hô những loạt “hourrah!” nồng nhiệt. Bác duyệt đội quân danh dự rồi vào dự tiệc chiêu đãi. Viên thủy sư đô đốc nâng cốc rượu chúc mừng sức khỏe của Chủ tịch Hồ Chí Minh rồi hỏi thăm Người về hành trình. Bác trao đổi với viên thủy sư đô đốc trong hai giờ về việc thi hành Tạm ước 14 tháng 9. Người yêu cầu D’Argenlieu tổ chức ngay Ủy ban hỗn hợp để giải quyết vấn đề xung đột tại Nam Bộ như trong điều khoản Tạm ước đã quy định. D’Argenlieu đáp lại bằng một giọng êm dịu rất “thầy tu”, y nói rằng mình rất buồn vì sự khủng bố (những hoạt động diệt tề trừ gian của ta) từ sau ngày ký Tạm ước đã tăng lên một cách ghê gớm. Bác biết là mình đang chạm vào đá. Sau cuộc hội kiến với nhiều lời chúc tụng, hai người cùng ra gặp các nhà báo. D’Argenlieu nói với các nhà báo:

- Tôi tin rằng đã có một bước tiến thật sự trên con đường hợp tác.

Đây là lần gặp cuối cùng giữa D’Argenlieu với Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Chú thích:

1. “Giap, les deux guerres d’Indochine”. Peter Macdonald. Trang 53.

2. Tức Tây Nguyên của ta.