Chương IV “TRÙNG ĐỘC CHIẾN”
❖ 1 ❖
Những sự kiện dẫn tới cuộc chiến diễn ra dồn dập.
Theo Tạm ước 14 tháng 9, chính phủ Pháp nhận thi hành ở Nam Bộ những điều chính: 1. Thả những người bị bắt vì chính trị và vì kháng chiến. 2. Người Việt Nam ở Nam Bộ được hưởng các quyền tự do, dân chủ như là tổ chức, hội họp, viết báo, đi lại…3. Hai bên thôi đánh nhau.
Ngày 26 tháng 10 năm 1946, Chủ tịch Quân ủy hội Võ Nguyên Giáp gửi thư cho Tổng chỉ huy quân đội Pháp Valluy đề nghị cùng ngừng bắn vào 0 giờ ngày 30 tháng 10. Vài ngày sau, Valluy báo cho ta y đã hạ lệnh cho quân đội Pháp tại Nam Bộ thực hiện ngừng bắn theo thời gian quy định. Về sau ta mới biết, cũng chính lúc này, Valluy chỉ thị cho Dèbes, tư lệnh ở Hải Phòng, phải thực hiện quyền kiểm soát thành phố và làm tê liệt sự đề kháng của ta tại đây.
Trong ngày 20 tháng 11 năm 1946, một chiếc cano của người Trung Hoa có giấy phép Sở thuế quan Việt Nam chở xăng vào bến Cửa Cấm – Hải Phòng thì bị quân Pháp kéo xuống lục soát, tịch thu. Nhân viên công an của ta tới can thiệp. Quân Pháp lập tức nổ súng. Một chiến sĩ công an hy sinh. Các chiến sĩ tự vệ của ta ở gần đó bắn trả. Cuộc xung đột bắt đầu.
11 giờ trưa, quân Pháp đưa một đơn vị xe bọc thép đánh chiếm nhà ga Hải Phòng, cách xa Cửa Cấm. Tiếng súng bắt đầu nổ ran khắp thành phố. 2 giờ chiều, quân Pháp đưa một lực lượng bộ binh lớn, có xe tăng trợ lực, tiến đánh vào Nhà hát Lớn ở trung tâm thành phố. Các chiến sĩ tự vệ bảo vệ Nhà hát Lớn đánh bật nhiều đợt xung phòng của quân địch.
Tại Hà Nội, ngay sau khi cuộc xung đột ở Hải Phòng nổ ra, đại diện của chính phủ ta ở Ban Liên kiểm Trung ương đã yêu cầu Bộ chỉ huy quân đội Pháp can thiệp, tránh để cho cuộc xung đột lan rộng.
Buổi chiều, Morlière cử đại tá Lami, là người phụ trách vấn đề chính trị quân đội Pháp, đến gặp ta bàn việc đình chỉ cuộc xung đột ở Hải Phòng. Một ủy ban hỗn hợp được thành lập do ông Hoàng Hữu Nam và đại tá Lami cầm đầu sẽ có mặt ở Hải Phòng vào sớm hôm sau.
Những quyết định này được phía Pháp thông báo ngay cho Dèbes, chỉ huy Hải Phòng.
Sáng ngày hôm sau, khi phái đoàn hỗn hợp tới Hải Phòng thì tiếng súng vẫn chưa ngừng nổ. Đoàn yêu cầu phải ngừng bắn ngay và đưa quân đội đôi bên về vị trí cũ. Dèbes từ chối không chịu rút quân khỏi những vị trí mới chiếm đóng mà y cho rằng phải đổ xương máu mới giành được. Y đòi phải để quân Pháp chiếm Nhà hát Lớn, bộ đội ta phải rút khỏi khu phố người Âu đã ở trước kia.
Cuộc chiến ở Hải Phòng tiếp diễn. Dèbes khước từ chấp hành những mệnh lệnh của Morlière, với lý do mình đã nhận được chỉ thị của cấp cao hơn là phải đánh chiếm toàn bộ thành phố Hải Phòng. Cuộc chiến diễn ra quyết liệt trên từng đường phố, từng ngõ ngách, từng ngôi nhà. Hải quân Pháp dùng trọng pháo đánh phá hủy diệt những đường phố ở Hải Phòng.
Cũng trong ngày 20 tháng 11, quân Pháp tìm cớ khiêu khích lực lượng tự vệ ta ở Lạng Sơn rồi đánh chiếm thị xã Lạng Sơn. Tiếp đến, chúng tiến công ta ở Tiên Yên và Đình Lập thuộc Quảng Ninh.
Ngày 28 tháng 11, trước quân địch trong thành phố quá mạnh, lực lượng vũ trang ta ở Hải Phòng phải rút về tuyến chiến đấu mới bên ngoài thành phố.
D’Argenlieu đang ở Pháp lại có dịp rêu rao: “Quân đội viễn chinh Pháp lại một lần nữa là nạn nhân của một âm mưu Việt Minh!”.
Với việc dùng vũ lực đánh chiếm tỉnh cửa ngõ Lạng Sơn, và đặc biệt là Hải Phòng, cảng lớn duy nhất trên miền Bắc của ta, D’Argenlieu và Valluy coi như đã chính thức tuyên chiến với ta!
Tại Hà Nội, quân Pháp bắt đầu đẩy mạnh những hoạt động khiêu khích. Bọn lính lê dương mũ đỏ kéo đi hàng bầy trên phố Tràng Tiền, xông vào hiệu buôn cướp hàng hóa, xé báo, xé ảnh, xé cờ Việt Nam trưng bày tại nhà thông tin. Lính tuần cảnh Pháp phóng moto với tốc độ lớn bừa bãi ở các phố đông cố tình gây ra tai nạn và khiêu khích công an tuần cảnh của ta. Chúng đặt súng trên những nhà cao tầng bắn vào tàu điện đang chạy trên đường.
Từ những ngày đầu tháng 11, Đảng ta đã nhận thấy cuộc chiến tranh giữa ta với Pháp là khó tránh. Thường vụ Trung ương họp dưới sự chủ tọa của Bác để bàn cách đối phó với chiến tranh.
Chiến tranh nổ ra lúc này vô cùng bất lợi cho ta. Kẻ thù đã có mặt trên khắp đất nước: từ Thủ đô, các thành phố lớn, sân bay, bến cảng đến các đường huyết mạch thông thương với nước ngoài. Từ sau ngày quân Tưởng rút, lực lượng quân đội quốc gia mới xây dựng, còn rất bé nhỏ của ta, buộc phải phân tán để bảo vệ các cơ quan Nhà nước tại Thủ đô, đồng thời chia thành nhiều bộ phận nhỏ để làm nhiệm vụ tiếp phòng với quân đội Pháp. Vũ khí, trang bị của quân đội ta cực kỳ thiếu thốn. Một khó khăn nữa là địch dùng chính sách hai mặt, vừa ráo riết chuẩn bị chiến tranh, vừa duy trì những liên lạc giả dối với chính quyền ta, mong khi khởi hấn có thể bắt được bộ máy lãnh đạo đất nước và tiêu diệt lực lượng bộ đội bé nhỏ của ta ngay tại thành phố, cố gắng tránh điều mà Leclerc trước đây lo sợ là: những lực lượng vũ trang của ta chạy vào rừng tiến hành cuộc chiến tranh du kích lâu dài. Ta biết điều này, nhưng thời gian qua vẫn phải hạn chế việc chuẩn bị những công trình phòng thủ, vì Pháp đang cần một cái cớ để nổ súng tại Hà Nội như chúng đã làm ở Hải Phòng.
Bác và Thường vụ nhận thấy nếu nổ ra chiến tranh, ta buộc phải chấp nhận khởi đầu cuộc kháng chiến toàn quốc ở ngay tại các thành phố, thị trấn là nơi tập trung lực lượng quân Pháp, một điều mà nhiều nhà quân sự Cách mạng nói là rất bất lợi cho nghĩa quân.
Riêng tại Thủ đô Hà Nội, lực lượng vũ trang ta có nhiệm vụ phải dùng mọi cách kìm chân quân địch một thời gian để tạo điều kiện cho các cơ quan đầu não di chuyển về nơi an toàn, đồng thời chuyển toàn bộ đất nước từ trạng thái hòa bình sang tình thế chiến tranh.
Từ khi chuyển sang chuẩn bị tổng khởi nghĩa, Bác và Đảng ta đã tập trung suy nghĩ về chiến lược, chiến thuật tiến hành một cuộc chiến tranh toàn dân, cách duy nhất để đối phó với sức mạnh của kẻ thù trong thời đại ngày nay. Điều này đã được Bác nói rõ trong Chỉ thị Thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ngày 22 tháng 12 năm 1944. Chúng ta chủ trương tiến hành một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ với cách đánh du kích . Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân là chỉ thị thành lập nòng cốt của một đội quân quốc gia chứ không phải là một đội quân du kích. Chỉ thị chỉ rõ: lực lượng vũ trang của ta phải gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, và mối quan hệ hỗ tương chặt chẽ giữa ba lực lượng này trong suốt cuộc chiến tranh . Bản chỉ thị kết thúc bằng câu: “Nó (Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân) là khởi điểm của Giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam” .
Trung tuần tháng 11 năm 1946, Bác và Thường vụ một lần nữa khẳng định lại đường lối kháng chiến đã lựa chọn, và quyết định phải tiến hành xây dựng ngay những công trình phòng thủ tại Hà Nội. Ta không thể rơi vào tình thế bị động như ở Hải Phòng. Việc xây dựng những công trình phòng thủ của ta tạm thời không đụng vào những con đường nối liền các vị trí của địch trong thành phố, cũng như những nơi quân địch thường phải đi lại như chợ, nhà ga, những con đường nối liền những nơi có quân Pháp đóng trong thành phố.
Trong cuộc họp, một ý kiến được nêu ra: “Nếu xảy ra chiến tranh thì ai sẽ là Tổng chỉ huy lực lượng vũ trang?”. Bác nói: “Chú Văn làm được!”. Trong thực tế, từ sau ngày thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Võ Nguyên Giáp vẫn là người phụ trách quân sự của Đảng. Sau Cách mạng tháng Tám, anh trở thành Bộ trưởng Nội Vụ trong chính phủ Cách mạng lâm thời, nhưng vẫn được Đảng phân công phụ trách những vấn đề quân sự. Từ tháng 3 năm 1946, anh là Chủ tịch Quân sự ủy viên hội trong Chính phủ liên hiệp.
Sau khi ở cuộc họp ra về, Võ Nguyên Giáp suy nghĩ rất lung. Những nét lớn về đường lối kháng chiến Bác đã dần nêu lên từ sau hội nghị Trung ương 8, được mọi người tán thành về tính thực tế, tính khả thi của nó, nhưng chưa ai hình dung nó sẽ triển khai trong thực tế ra sao. Cuộc chiến tranh sẽ cùng một lúc nổ ra trên cả nước, ở tất cả những nơi có quân địch đóng, phần lớn là thành phố, thị trấn. Với chiến lược đánh du kích, chúng ta cần tránh những nơi địch tập trung đông quân, những nơi địch dễ triển khai lực lượng cơ động, xe tăng và pháo binh, những nơi không có địa hình cơ động và ẩn náu. Chúng ta sẽ đánh du kích trong thành phố như thế nào? Dù muốn hay không cũng phải dùng lại chiến thuật baricat của những chiến sĩ công xã Paris, chiến thuật này cũng đã được sử dụng một phần ở Sài Gòn năm trước, nhưng phải làm thế nào để những baricat có thể đứng vững trước sức công phá của những vũ khí hiện đại? Anh nhớ lại hồi cuối thế kỷ trước, hơn 200 lính đánh thuê của Pháp chỉ trong vài giờ đã hạ được thành Hà Nội có 6.000 quân và những khẩu súng thần công của Hoàng Diệu bảo vệ. Lực lượng kẻ thù ngày nay đã khác xưa một trời một vực. Nhưng lực lượng của ta thì hầu như không thay đổi.
Và nếu chúng ta vượt qua thử thách này thì sau khi rút khỏi thành phố sẽ làm cách nào để xây dựng tiếp một mặt trận chiến đấu toàn dân trên cả nước, sẽ làm thế nào tiến hành một cuộc chiến đấu toàn diện và lâu dài? Anh không tìm được một tiền lệ nào trong sách vở. Toàn bộ câu trả lời đều ở phía trước.
❖ 2 ❖Thủ đô Hà Nội được coi là chiến trường trung tâm của cả nước khi nổ ra chiến tranh. Công tác chuẩn bị kháng chiến tại Hà Nội được giao cho Chỉ huy trưởng Khu 1 (tức khu Hà Nội) Vương Thừa Vũ. Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp, Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái và cơ quan tham mưu thường xuyên theo dõi và trao đổi với Vương Thừa Vũ.
Tại Hà Nội, quân Pháp có một trung đoàn bộ binh, một trung đoàn xe tăng thiết giáp, một tiểu đoàn pháo, một bộ phận biệt kích, một bộ phận quân dù với đầy đủ vũ khí, trang bị, cùng với không quân và thủy quân, tất cả khoảng 6.500 người. Ngoài ra, còn có 7.000 Pháp kiều ở các khu phố Tây cũ, đã được phân phát vũ khí.
Lực lượng ta ở Hà Nội có 5 tiểu đoàn vệ quốc quân, 2.515 người, khoảng trên 8.000 tự vệ, gồm tự vệ chiến đấu, tự vệ thành Hoàng Diệu và một số lực lượng công an xung phong. Trên toàn mặt trận Hà Nội, tính cả lực lượng tự vệ và vệ quốc đoàn, tính trung bình năm chiến sĩ mới có một khẩu súng, phần lớn là súng trường, nhiều súng khai hậu, rất ít đạn, hai chiến sĩ mới có một quả lựu đạn. Phần lớn các chiến sĩ của ta đều là những người dân mặc áo lính, ít được huấn luyện, chưa qua trận mạc.
Trong quá trình chuẩn bị, một sĩ quan Nhật đã sang hàng ngũ của ta, khuyên ta có thể xây dựng ba phòng tuyến bằng công sự vững chắc để bảo vệ Hà Nội. Bộ Tổng tham mưu thấy ta hoàn toàn không đủ người và phương tiện để làm việc này. Cũng có ý kiến nên tập trung lực lượng đánh một số trận lớn “vang dội” nhằm những mục tiêu nổi tiếng như: Thành Hà Nội, phủ Toàn quyền cũ, trường Bưởi, trường Albert Sarraut…
Sau nhiều ngày đi nghiên cứu địa hình các đường phố Hà Nội, Vương Thừa Vũ đề nghị chọn khu phố cổ nằm bên đại bản doanh của quân Pháp trong Thành Hà Nội làm một khu vực cố thủ của quân ta, trực tiếp đe dọa, tạo sự ngột ngạt cho quân địch ngay từ bên trong. Các lực lượng khác của quân ta sau vài ngày chiến đấu tại các liên khu (khu phố), sẽ rút về các cửa ô bao vây, thường xuyên đột kích, tập kích vào trong thành phố, buộc địch phải đối phó cùng một lúc cả ở bên trong và bên ngoài. Số lượng bộ đội dự kiến để lại trong khu phố cổ là một tiểu đoàn, có sự hỗ trợ của tự vệ tại Liên khu 1. Vương Thừa Vũ dành nhiều thời gian báo cáo về việc tổ chức chiến đấu lâu dài tại Liên khu 1, kế hoạch đảm bảo vật chất, trang bị, việc tổ chức mạng thông tin từ trong thành phố ra ngoài, dự kiến kế hoạch lui quân ra khỏi thành phố khi có lệnh. Bộ Tổng chỉ huy thông qua phương án này sau khi góp nhiều ý kiến về cách ngăn chặn địch trong thành phố như lập vật chướng ngại, đục tường, ngả cây, lật tàu điện, tàu hỏa…
Trong một cuộc họp của Thường vụ, đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh nói: Cuộc chiến tranh của ta sẽ nổ ra cùng một lúc trên toàn quốc, hầu hết là các thành phố, thị xã. Mọi người đều nhận thấy về chiến lược, do tương quan rất chênh lệch giữa ta và địch, ta vẫn phải dùng chiến thuật du kích. Nhưng để kìm giữ quân địch ở các thành phố, thị trấn, lại buộc ta phải dùng trận địa chiến để đối phó với quân địch, hay ít nhất là chiến thuật baricat của những chiến sĩ Công xã Paris. Và sau khi từ các thành phố, thị xã rút ra ngoài ta sẽ dùng chiến thuật nào?
Một đồng chí nói:
- Triệt để dùng chiến thuật du kích.
Tổng chỉ huy phát biểu:
- Tôi đề nghị thêm mấy chữ: vận động chiến.
Tổng bí thư Trường Chinh hỏi lại:
- Vận động chiến? Trong “Trì cửu chiến” của đồng chí Mao Trạch Đông, vận động chiến là để dành cho giai đoạn cuối cùng.
- Tôi không nói: vận động chiến! Tôi muốn nói: “du kích vận động chiến”.
Tổng bí thư nhắc lại:
- Du kích vận động chiến?
Tổng chỉ huy nói tiếp:
- Tôi đã suy nghĩ nhiều về trường hợp này. Để chiến đấu với địch trong thành phố, dù muốn hay không ta cũng phải dùng trận địa chiến. Từ đầu kháng chiến Nam Bộ tới nay, ta tổn thất nhiều trong đánh trận địa, vì trang bị vũ khí của ta không cho phép. Chúng ta cũng nhất định không thể từ bỏ cách đánh du kích, vì lực lượng cũng như trang bị của ta không cho phép ta đánh lớn. Cách đánh du kích của ta trong thành phố như thế nào, xin Bác và Thường vụ cho anh em được tìm hiểu và vận dụng nó ngay trong thực tế chiến đấu. Nhưng tôi nghĩ là dù dùng du kích hay trận địa, nhất định phải phối hợp với đánh vận động. Ta chưa đủ sức để đánh vận động lớn, đòi hỏi bộ đội phải có thêm trang bị và một quá trình rèn luyện. Nhưng không thể tiếp tục dùng cách đánh cố định như cũ. Du kích vận động chiến của ta không giống vận động chiến của bạn. Vận động chiến của bạn là vận động đánh lớn. Du kích vận động chiến của ta là vận động đánh nhỏ. Vì nếu không có vận động thì lực lượng ta dễ bị địch tiêu diệt. Cách nói này có thể gây tranh cãi về mặt từ ngữ, nhưng nếu các anh chấp thuận khi dùng ta sẽ giải thích.
Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Trung ương sau đó thêm một câu: “Triệt để dùng du kích vận động chiến” .
❖ 3 ❖Tại Hà Nội, sự khiêu khích của địch chuyển sang một bước mới. Quân Pháp bắn vào những chiến lũy ta mới xây dựng. Tại nhà máy điện Yên Phụ, nơi có một đội canh gác hỗn hợp giữa ta và Pháp, một lính Pháp bất thần bắn chết người chiến sĩ ta đang cùng đứng canh gác. Pháp tung quân tàn sát dân thường ở các phố Hàng Bún và Yên Ninh.
Bác vẫn muốn “còn nước còn tát” để tránh mở rộng chiến tranh hay ít nhất cũng trì hoãn nó. Người liên tiếp viết thư kêu gọi chính phủ, Quốc hội, Thủ tướng Pháp, gặp gỡ, trao đổi với những người cầm đầu quân đội Pháp ở Hà Nội nhằm cứu vãn tình thế. Bộ đội, tự vệ được lệnh giữ bình tĩnh, nín nhịn, không sa vào những âm mưu khiêu khích.
Ngày 16 tháng 12 năm 1946, Morlière gửi liền cho Chính phủ ta hai tối hậu thư, tuyên bố: “Quân Pháp sẽ tự mình đảm nhiệm trị an tại Hà Nội, chậm nhất là vào sáng ngày 20 tháng 12 năm 1946”.
Về sau ta biết: chủ trương của bọn chủ chiến ở Đông Dương là phải đẩy mạnh những hoạt động khiêu khích buộc lực lượng vũ trang ta phải nổ súng để mang lại cho quân Pháp “cái cớ mong đợi”, nếu không được thì chúng sẽ buộc phải công khai tuyên bố thời hạn “chủ động tiến hành kế hoạch tác chiến”. Ngày 23 tháng 11, chỉ ba giờ sau khi gửi thư cho Ủy ban Hành chính Hải Phòng đòi rút hết bộ đội, tự vệ ra khỏi thành phố, mặc dù Chủ tịch Ủy ban trả lời phải thỉnh thị ý kiến của Hà Nội, quân Pháp đã nổ súng đánh chiếm thành phố.
Thủ đô Việt Nam Dân chủ cộng hòa không thể nhanh chóng rơi vào tay quân địch. Sáng 19 tháng 12 năm 1946, sau khi trao đổi lần cuối cùng ở Vạn Phúc – Hà Đông, Ban Thường vụ Trung ương Đảng gửi các mặt trận và các khu bức điện: “Quân Pháp đã hạ tối hậu thư đòi tước vũ khí của quân đội, tự vệ, công an ta. Chính phủ ta đã bác bức tối hậu thư ấy. Như vậy chỉ trong 24 giờ là cùng, chắc chắn giặc Pháp sẽ nổ súng. Chỉ thị của Trung ương: Tất cả hãy sẵn sàng!” .
Chiều 19 tháng 12, Bộ Tổng tham mưu được lệnh chuyển cho tất cả các khu và Đà Nẵng: “Lệnh nổ súng lúc 20 giờ ngày 19 tháng 12 năm 1946” .
40 năm sau ngày Toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 năm 1946, những nhà nghiên cứu hồ sơ chiến tranh Đông Dương được giải mật, đã chỉ ra: “Valluy và Pignon cầm đầu quân viễn chinh ở thời điểm đó, cần mở rộng ngay chiến tranh để đặt chính phủ Đảng Xã Hội Léon Blum trước một ‘việc đã rồi’.”
Trước khi nổ súng tại Hà Nội, ta mở một cuộc nghi binh lớn. Đêm đêm, hàng ngàn dân quân, tự vệ đóng giả bộ đội, mang theo những bọc lớn, được ngụy trang kỹ, từ ngoại thành rầm rập kéo vào tăng cường cho những vị trí của quân ta trong thành phố, trước khi trời sáng lại chia thành những nhóm nhỏ rút đi.
Ta chủ trương chủ động nổ súng đêm 19 tháng 12, vì nếu để ngày hôm sau, địch nổ súng trước sẽ gây rất nhiều khó khăn. Ban ngày, địch dễ triển khai các phương tiện cơ động, phát huy sức mạnh của không quân, pháo binh, xe tăng, xe cơ giới…Như vậy cũng tránh cho ta thiệt hại ở Yên Phụ nơi có lực lượng canh gác hỗn hợp với quân Pháp, chiếm gần nửa quân số vệ quốc đoàn sẽ tham gia trận đánh Thủ đô. Ta cũng muốn tạo một đòn đánh trước bất ngờ. Nhưng trong thực tế, ta chỉ giành được một phần bất ngờ. Nhà sử học Pháp Philippe Devillers viết trong cuốn “Lịch sử Việt Nam” ( Histoire du Viet Nam ): “18 giờ ngày 19, một người Pháp lai – nhân viên phản gián của Pháp, trà trộn trong hàng ngũ đối phương, đã báo tin: “Ba đại đoàn Việt Nam và lực lượng tự vệ đã được lệnh tiến công tối nay”.”. Morlière được tin này đã lập tức đặt toàn bộ quân Pháp trong trạng thái báo động cao.
Tại khu vực cố thủ giáp Thành Hà Nội, nằm trong vòng vây, ta định để lại một tiểu đoàn chủ lực, nhưng sau khi nổ súng, một nửa tiều đoàn bố trí trên đê Yên Phụ bị tách khỏi tiểu đoàn nên trong khu phố cổ chỉ còn lại một nửa tiều đoàn.
Lực lượng tự vệ, bộ đội và đồng bào tại Liên khu 1 đã biến những đường phố nhỏ hẹp của khu phố cổ với những ngôi nhà nhỏ nằm sát Thành Hà Nội của quân Pháp, thành một nơi có sức đề kháng đáng kể. Tất cả những đường xe tăng, xe cơ giới có thể tiến vào Liên khu 1 đều được đào hào ngăn cách và dựng chiến lũy bằng những thanh ray đường tàu, cột gỗ và bao cát. Để tránh di chuyển trên đường phố trong chiến đấu dưới bom đạn địch, ta đã cho đục tường thông từ nhà nọ sang nhà kia tạo thành những tuyến di chuyển khá kín đáo và an toàn.
20 giờ ngày 19 tháng 12 năm 1946.
Đèn điện Hà Nội phụt tắt. Đại bác của ta đặt ở pháo đài Láng bắn những phát đầu tiên. Đây là hiệu lệnh nổ súng của ta. Hỏa châu tới tấp xuất hiện. Cả Hà Nội nhanh chóng rền vang tiếng súng. Bầu trời Hà Nội dần dần đỏ rực màu hồng của những đám cháy.
Tại Sở chỉ huy của Bộ Tổng tham mưu đặt tại thị xã Hà Đông, Tổng tham mưu trưởng kịp thời thông báo những diễn biến đầu tiên từ mặt trận. Quân ta tiêu diệt nhiều ổ chiến đấu lẻ, nhiều tiểu đội địch trong các bộ phận gác hỗn hợp. Chỉ nửa giờ sau khi ta nổ súng, quân Pháp từ trong thành Hà Nội đã chia làm mấy cánh đánh ra. Một cánh từ Cửa Bắc tiến theo đường Hàng Đậu. Một cánh từ Cửa Nam đi theo đường Tràng Thi, đã chiếm được đồn công an Hàng Trống, đi tiếp về phía Nhà hát Lớn.
Trong đêm có tin Nam Định, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Vinh và Huế đã lần lượt nổ súng. Bộ đội Đà Nẵng lúc 21 giờ mới nhận được lệnh, đề nghị được nổ súng vào 8 giờ 30 ngày hôm sau.
Sáng sớm ngày 20 tháng 12, Tổng chỉ huy cùng với Tổng tham mưu trưởng đi thăm sở chỉ huy Hà Nội lúc này đặt ở Thái Hà Ấp.
Phái viên từ các nơi tấp nập kéo về báo cáo tình hình. Ai nấy đều có bộ mặt kích động vì lần đầu được trực tiếp chứng kiến cuộc chiến của bộ đội ta với quân địch. Ở ngã ba Hồng Phúc – Hàng Đậu, vệ quốc quân và tự vệ chiến đấu tổ chức phục kích, giật bom, phá xe tăng rồi xung phong tiêu diệt địch. Tổng chỉ huy chợt nghĩ: thì ra ngay trong thành phố cũng vẫn có thể phục kích quân địch với cả xe tăng. Chắc sẽ còn nhiều cái mới xuất hiện từ cuộc chiến này.
Bỗng có báo cáo: rất đông quân Pháp, có cả xe tăng mở đường tiến công vào Nhà hát Lớn, Bắc Bộ Phủ và Nhà Bưu Điện. Đại đội Vệ quốc quân canh gác ở Bắc Bộ Phủ đã tuyên thệ quyết tử. Họ biết khó giữ được ngôi nhà của Chính phủ nhưng quyết tâm bắt kẻ địch phải trả giá khi đụng tới vị trí thiêng liêng này.
Tổng chỉ huy nhắc Chỉ huy trưởng Vương Thừa Vũ ra lệnh pháo binh bắn yểm hộ cho bộ đội ta ở Bắc Bộ Phủ. Vương Thừa Vũ nhấc một chiếc máy điện thoại đặt trên bàn, chắc là máy nối trực tiếp với pháo binh, rồi phất tay, nói:
- Bắn đi!
Tổng chỉ huy ngạc nhiên hỏi:
- Vì sao đồng chí không chỉ rõ mục tiêu?
- Báo cáo anh, tất cả mục tiêu của pháo đều được đo đạc tính sẵn phần tử từ trước. Nếu bây giờ chỉ thị một mục tiêu mới, đạn có thể rơi vào bộ đội hoặc đồng bào ta.
Tổng chỉ huy đi thăm bộ đội và tự vệ chiến đấu ở phố Hàng Bột và phố Khâm Thiên. Tuy thành phố rung chuyển tiếng súng, nhưng cuộc chiến lúc này chủ yếu chỉ diễn ra ở Bắc Bộ Phủ, Nhà hát Lớn, phố Nhà thờ. Quân Pháp chưa đụng đến khu vực cố thủ của ta. Khắp nơi, Tổng chỉ huy đều thấy những anh tự vệ, nhiều cậu trẻ măng, vẻ mặt bình thản, háo hức. Anh xúc động khi nhìn thấy một tự vệ chỉ có trong tay một con dao lấy từ nhà bếp. Lực lượng của ta ở các nơi đều quá mỏng, và trong tay Bộ Tổng chỉ huy lúc này không có một đơn vị dự bị nào. Anh thấy mình và cơ quan tham mưu đã quá thiếu kinh nghiệm.
Sau ba ngày chiến đấu, theo kế hoạch, những đơn vị chiến đấu chung quanh Liên khu 1 rút vào bên trong Liên khu. Ở các Liên khu khác, lực lượng bộ đội và tự vệ Thành ban ngày rút ra các cửa ô cũng bắt đầu xây dựng những chiến lũy đề phòng địch đánh ra, ban đêm quay trở lại thâm nhập các khu vực địch chiếm đóng để tiêu hao, tiêu diệt địch. Hoạt động này diễn ra đều đặn, tuy nhiên địch vẫn chưa tìm cách ngăn chặn.
Đồng bào còn ở lại Liên khu khá đông, sốt sắng giúp đỡ bộ đội, lo tiếp tế lương thực, công tác cứu thương. Thanh niên, học sinh, những người làm công tại các cửa hàng tư nhân, những người kéo xe, chữa xe đạp ở vỉa hè, những em bé đánh giày trong Liên khu đều tự động gia nhập lực lượng tự vệ.
Ngày mồng 6 tháng 1 năm 1947, Đảng bộ Liên khu 1 Hà Nội đề nghị được thống nhất tất cả các bộ phận vũ trang và bán vũ trang trong Liên khu thành một trung đoàn, lấy tên là Trung đoàn Liên khu 1. Bộ Tổng chỉ huy đồng ý. Trung đoàn Liên khu 1 bao gồm nhiều thành phần khác nhau: ngoài lực lượng nòng cốt là bộ đội, tự vệ chiến đấu, tự vệ Thành, công an xung phong, thanh niên, học sinh còn có cả nhà báo, nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, nghệ sĩ nhiếp ảnh, cầu thủ bóng đá, tiểu thương, tiểu chủ, dân nghèo thành thị, tuổi trung bình từ hai mươi đến hai nhăm, cũng có khá nhiều em thiếu niên từ mười đến mười lăm tuổi phần lớn làm nhiệm vụ liên lạc; với những em bé này, đường dây liên lạc của ta rất thông suốt, nhanh chóng.
Trung đoàn Liên khu 1 đã nhanh chóng củng cố những công trình phòng ngự ở tất cả những ngả đường, không chỉ bít kín những đường ra vào mà còn dựng những bãi chướng ngại nối tiếp nhau để dù quân địch có vượt qua chiến lũy thì chúng cũng phải tiếp tục trả giá cho từng tấc đất trong Liên khu. Ta không bố trí lực lượng ngay sau chiến lũy mà lựa những vị trí bắn tốt và bất ngờ trên những ngôi nhà cao tầng có thể ném lựu đạn, chai xăng và nhất là bắn tỉa quân địch từ xa. Địch chỉ mở những trận đánh thăm dò chứ chưa thực sự tiến công vào những chiến lũy của ta.
Chỉ huy trưởng Vương Thừa Vũ chỉ thị cho trung đoàn chia lực lượng vũ trang của ta thành những tổ nhỏ bí mật vượt ra những vùng chung quanh Liên khu, không kể ngày đêm mở những trận phục kích, đột kích chớp nhoáng vào quân địch, gây cho chúng thiệt hại và rút đi không để lại dấu vết. Vì tất cả đều là dân Hà Nội, rất thông thuộc các đường phố, các ngõ ngách, họ có nhiều sáng kiến để đánh lừa quân địch. Đây là cách đánh địch rất tự do, mỗi người dân tự tìm cho mình cách thích hợp để tiêu diệt địch, họ rút kinh nghiệm trao đổi cho nhau, không cần đến sự chỉ huy của cán bộ. Quân địch sống trong sự hoang mang khủng khiếp, luôn luôn phải đề phòng một cái chết không có hình bóng, cái chết không kịp cất tiếng kêu.
❖ 4 ❖Ngày 12 tháng 1 năm 1947, Bộ Tổng chỉ huy triệu tập Hội nghị quân sự lần thứ nhất trong chiến tranh tại Trúc Sơn – Hà Đông, gần mặt trận Hà Nội.
Cuộc kháng chiến toàn quốc nổ ra đã được ba tuần. Gặp lại nhau, mỗi người đều cảm thấy tự hào mình đã qua những thử thách đầu tiên của chiến tranh, mình đã trưởng thành.
Nhìn chung, lực lượng chiến đấu của ta tại Thủ đô Hà Nội và các thành phố, thị trấn vẫn đứng vững. Tại một vài nơi như Bắc Ninh, Bắc Giang, Vinh, lực lượng địch quá nhỏ đã phải rút chạy hoặc đầu hàng. Nhưng ở một số chiến trường xa như Tây Bắc, Đông Bắc, quân địch đã đẩy mạnh hoạt động. Ở Tây Bắc, quân địch chiếm Sơn La, Hát Lót, Yên Châu. Ở Đông Bắc, địch đã nối liền Tiên Yên, Đình Lập, Lạng Sơn và đang tiến xuống Phả Lại.
Tổng chỉ huy nhận định:
- Sau một thời gian bị động đối phó, địch đang tính chuyển sang phản công và tiến công hòng “nuốt trôi nước ta”. Để giành lại vai trò chủ động trên các mặt trận, ta cần phải có sự chuyển hướng về chiến thuật, lấy du kích vận động chiến làm chiến thuật căn bản.
Ta dự kiến: khi có thêm viện binh mới, địch sẽ chiếm và kiểm soát khu Hà Nội – Hải Phòng, Ninh Bình – Phát Diệm, củng cố đường số 1, đường sông Hồng, giải vây cho Huế, nối liền Huế với Đà Nẵng. Ở Khu 4, phải ngăn chặn quân địch từng bước, tiêu hao, tiêu diệt địch, tránh đem lực lượng quyết chiến với địch, và rút khỏi thành phố đúng lúc để bảo toàn lực lượng. Ta chủ trương nắm quyền chủ động, kịp thời chuyển sang thời kỳ mới không để lâm vào thế bị động. Cần tránh đưa lực lượng đối chọi với những mũi tiến công lớn. Dựa vào trận địa đẩy mạnh hoạt động du kích, ngăn không cho quân địch phát triển mau lẹ, tập trung lực lượng tiến công tiêu diệt từng bộ phận nhỏ quân địch để động viên cả nước chiến đấu.
Để phá thế uy hiếp của địch từ phía Tây Bắc, Bộ Tổng chỉ huy quyết định rút một số lực lượng ở Hà Nội để tổ chức Mặt trận Tây tiến.
Khu 4 vẫn xin tập trung thêm lực lượng, điều động nhiều đội cảm tử của các huyện để cố tiêu diệt quân địch tại Huế trước khi viện binh của chúng kéo tới. Bộ Tổng chỉ huy không chấp nhận đề nghị này.
Hội nghị họp sang ngày thứ hai, có tin quân địch từ Hà Nội tiến công ra các cửa ô, Chỉ huy trưởng Vương Thừa Vũ xin phép rời Hội nghị sớm để trở về mặt trận chỉ huy chiến đấu.
Từ đầu tháng 1 năm 1947, quân Pháp đã đẩy mạnh hoạt động quân sự trên nhiều chiến trường, kể cả những trận đánh giải vây cho các thành phố và mở rộng phạm vi chiếm đóng.
Sau Hội nghị, Tổng chỉ huy bàn với Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái ra ngay bản huấn lệnh cho bộ đội phải chuyển sang vận dụng “chiến thuật Du kích vận động chiến”. Ngày 1 tháng 2 năm 1947, Huấn lệnh của Bộ Tổng tham mưu được gửi tới các đơn vị. Huấn lệnh nhận định: “Kẻ địch luôn luôn vận động, tập trung lực lượng để tiến công ta nhiều mặt, trái lại thì bộ đội ta thì thường dàn thành trận địa, vận động rất nặng nề, do đó thường ở vào thế bị động và bỏ lỡ nhiều cơ hội để tiêu diệt địch. Nguyên nhân của tình hình này là do: Liên lạc trong bộ đội không chu đáo, trinh sát và tình báo kém, tin tức không được chính xác rõ ràng, địa thế và đường sá nhiều nơi ngay trong khu vực hoạt động cũng không thành thuộc, bộ đội không quen cơ động, cách đánh không linh hoạt” . Huấn lệnh đề ra những biện pháp cụ thể để khắc phục: “Bộ đội ở tiền phương phải luôn luôn thay đổi sự bố trí, không bố trí theo kiểu trận địa chiến, chiến thuật phải linh động, sẵn sàng đối phó với sự chuyển biến của mặt trận. Ở hậu phương, bộ đội phải luôn luôn thay đổi nơi đóng quân, thường xuyên vận động, khi tập trung khi phân tán” .
Tại Huế, ngày 4 tháng 2 năm 1947, quân Pháp có máy bay, pháo chi viện, kết hợp với nhảy dù và đổ bộ đường biển từ nhiều hướng cùng tiến công giải vây cho Huế. Chiều mồng 8 tháng 2, Bộ Tổng chỉ huy nhận được báo cáo: “Mặt trận Huế bị vỡ”.
Trung tuần tháng 2 năm 1947, Hội nghị các chính trị viên khu và các chính trị viên trung đoàn được triệu tập. Hội nghị do Bí thư quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp và Cục trưởng Cục Chính trị Văn Tiến Dũng chủ trì. Hội nghị đánh giá: “Cuộc kháng chiến bước vào một thời kỳ nghiêm trọng…thời kỳ thử thách gian khổ”. Hội nghị đề ra mười nhiệm vụ của công tác chính trị chủ yếu là: nâng cao tinh thần chiến đấu của bộ đội và lòng tin vào thắng lợi của cuộc kháng chiến, có tinh thần tự lập chiến đấu trong lúc hiểm nguy.
Tại Hà Nội, điều ngoài dự tính là số dân chúng trong khu phố cổ chưa chịu tản cư, tuy đã được đưa dần ra ngoài theo con đường ven sông Hồng, nhưng số còn lại vẫn quá đông, làm cạn kiệt nhanh chóng lương thực dự trữ chiến đấu trong vài tháng cho 5.000 người. Ta phải trao đổi với lãnh sự quán Trung Hoa bàn với Bộ chỉ huy quân Pháp ở Hà Nội tổ chức một ngày ngừng bắn để đưa Hoa kiều, Ấn kiều và dân thường ở Liên khu 1 ra ngoài. Phía Pháp chấp nhận đề nghị này vì e cuộc tiến công lớn nay mai vào Liên khu 1 sẽ đụng chạm tới những Hoa kiều và Ấn kiều là nghề buôn bán đã trú ngụ tại đây từ lâu. Ngày 15 tháng 1 năm 1947, việc ngưng bắn ở mặt trận Hà Nội được thực hiện. Hơn 6.000 đồng bào và ngoại kiều, cùng với hơn 300 thương binh đã rút khỏi thành phố.
Ta chủ trương chỉ để lại trong Liên khu 500 cán bộ, chiến sĩ đã chọn lọc. Nhưng sau ngày ngừng bắn, số người còn lại Liên khu là 1.200 người. Một số chiến sĩ được chỉ định ra ngoài đã trốn ở lại, trong đó có nhiều phụ nữ, thiếu nhi, có gia đình hai anh em, hai chị em cùng ở lại, có cả những cặp người yêu.
Từ đầu tháng 2, có thêm viện binh, quân Pháp mở những đợt tiến công quyết liệt trực tiếp vào Liên khu 1. Suốt ba ngày liền, ngày 11, 12, 13 tháng 2 năm 1947, máy bay địch oanh tạc dữ dội vào khu chợ Đồng Xuân, bắn dọc các trục đường Hàng Mã, Hàng Chiếu, Ô Quan Chưởng. Quân địch lợi dụng sân đá bóng sau chợ Đồng Xuân cho bốn xe tăng mở đường cho quân lê dương mũ đỏ tiến vào. Máy bay bà già bay vòng tròn chỉ điểm mục tiêu cho pháo bắn. Các chiến sĩ ta và quân địch quần nhau trên những quầy hàng ở chợ Đồng Xuân, trên từng căn gác, từng mái nhà.
Sau trận đánh, địa bàn chiến đấu của Liên khu 1 bị thu hẹp nhiều. Những công trình phòng thủ của ta không còn chặt chẽ như cũ. Quân địch đã tiến vào trong Liên khu. Có nơi, trên một đường phố, ta chiếm dãy nhà số chẵn thì địch chiếm dãy nhà số lẻ.
Tối 14, theo báo cáo của Trung đoàn Thủ đô, đạn chỉ còn trung bình mỗi khẩu súng tám viên, lương thực ăn dè xẻn được 5 ngày. Quân ủy họp gấp. Trung đoàn đã trụ lại giữa thành phố hai tháng, vượt xa mức dự kiến ban đầu. Ngay đêm 14, Tổng chỉ huy điện lệnh cho cả trung đoàn nhanh chóng rút khỏi Liên khu 1.
Đêm 17 tháng 2, cả Trung đoàn Thủ đô đã tiến hành cuộc rút lui thần kỳ, vượt qua chốt canh gác của địch trên cầu Long Biên, trên con đường mòn dọc bờ sông mà chúng đã nhiều lần phát hiện người của ta qua lại. Toàn bộ các chiến sĩ, thương binh đều vượt vòng vây an toàn trước khi trời sáng.
❖ 5 ❖Chỉ huy trưởng Vương Thừa Vũ gọi kế hoạch của mình bằng những tên khác nhau: “Trùng độc chiến”, “Trong đánh ngoài vây”, “Trong ngoài cùng đánh”. Nếu như do một sự ngẫu nhiên nào đó, một bản kế hoạch chiến đấu tại Hà Nội của ta lọt vào tay quân Pháp, chắc nhiều người làm công tác tham mưu sẽ không tin đây là một bản kế hoạch thực sự của ta. Vì không thể nào dùng một số quân ít hơn, chỉ có những trang bị cực kỳ yếu kém để bao vây những đơn vị thiện chiến đã qua Thế chiến thứ hai lại được trang bị đầy đủ phương tiện và vũ khí hiện đại. Những chuyên gia quân sự chỉ có thể nhận xét: “Đây là một kế hoạch tự sát!”, “Điếc không sợ súng”, “Người thảo ra nó không biết gì về quân sự!”. Tôn Tử đã viết trong thiên “Mưu công”: “Theo phép dùng binh, ta gấp mười lần địch thì bao vây, ta gấp năm lần địch thì tiến đánh…Nếu yếu hơn địch mà cố đánh thì sẽ bị bắt làm tù binh” . Việc đặt một nửa tiểu đoàn chủ lực (1) cùng với lực lượng tự vệ thành trong một khu cố thủ bơ vơ trong thành phố, ngay sát đại bản doanh của quân địch, là điều rất phiêu lưu về mặt quân sự…
Nhưng đây lại chính là những điều được thảo luận rất nghiêm túc, và người xây dựng cũng như người thực hiện kế hoạch đều quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.
Thực tế trận đánh bảo vệ Thủ đô đã được tiến hành theo tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Chỉ sau mười ngày trong vòng vây, tất cả những chiến sĩ chiến đấu tại khu cố thủ đã quàng lên cổ chiếc khăn “Quyết tử”. Nhưng họ không hề chỉ nghĩ mình sẽ hy sinh, và đều mong muốn hoàn thành nhiệm vụ trở về.
Khi ta chọn những đường phố cổ Hà Nội với những ngôi nhà hình ống cổ lỗ thấp nhỏ, với nhiều đường ngang và ngõ ngách, ta đã tính tới việc có thể biến nó thành một bát quái trận đồ mà quân địch không dễ gì đột nhập, và cũng không dễ gì dùng bom đạn san bằng vì trong đây còn khá đông Hoa kiều và Ấn kiều. Và ta cũng không để cho lực lượng cố thủ hoàn toàn bị bao vây. Những lối thoát hiểm đã chuẩn bị để khi cần cả đoàn quân nằm lại đây vẫn có thể rút ra trong một đêm.
Lúc đầu Bác hỏi Tổng chỉ huy: “Có thể giữ Hà Nội được bao lâu?”. Tổng chỉ huy cân nhắc rồi trả lời: “Thưa Bác, có thể giữ được một tháng”. Nhưng sau một thời gian chuẩn bị, Tổng chỉ huy báo cáo với Bác: “Có thể giữ Hà Nội được hai tháng”.
Ta cũng biết rõ đặt một khu cố thủ liền kề với đại bản doanh của địch ở giữa thành phố là một việc mạo hiểm. Nhưng cũng nghĩ chỉ có mạo hiểm mới làm cho địch tin có một lực lượng lớn của ta phục tại đây, chỉ mong Pháp đưa quân từ trong Thành đánh ra để trực tiếp đột nhập đại bản doanh, nên một thời gian khá dài, Pháp không dám đưa quân đánh ra ngoài, cũng không dám tính đến việc loại trừ khu cố thủ ở ngay cạnh nách. Valluy nói với binh lính ở Hà Nội: “Hãy nghiến răng mà chịu đựng qua những giây phút cực kỳ khó khăn này!”. Theo kế hoạch, phải sau một tháng mười nghìn viện binh địch mới có mặt ở Việt Nam.
Trong cuốn “Lịch sử chiến tranh Đông Dương” (2) , một cuốn sách viết khá nghiêm túc sau chiến tranh, chính tác giả vẫn cho rằng ta có một binh lực lớn ở Hà Nội không hiểu vì lý do nào không được tung vào trận đánh này.Yves Gras viết: “Tuy nhiên, người ta không thể dựng lại một cách chính xác điều gì đã diễn ra ở phía Việt Minh ngày 19 tháng 12, liệu có phải đúng đó là ý đồ của những người cầm đầu không? Cả một phần của kế hoạch gây hấn đã không được thực hiện ” (3) . Duy chỉ có những tự vệ và một số đơn vị chủ lực đóng trong thành phố tham gia cuộc chiến. Những vị trí quan trọng như Thành Hà Nội, sân bay Gia Lâm không bị tiến công. Những trung đoàn đóng ở phía tây Hà Nội đã rút đi từ khi khởi đầu trận đánh.”
Thực ra, sau ngày 15 tháng 1 năm 1947, đôi bên ngừng chiến để đưa 6.000 Hoa kiều, Ấn kiều và dân thường rời khỏi Thủ đô, quân Pháp đã nắm được thực lực của ta tại khu cố thủ, nên sau đó đã mở tiến công vào Liên khu 1. Và sau kháng chiến chống Pháp, sách báo của ta đã nhiều lần công bố lực lượng của ta tại Hà Nội. Nhưng điều lạ lùng là trong khi viết về trận đánh Hà Nội, các nhà sử học phương Tây chưa hề nhắc tới hoặc bình luận về lực lượng của ta. Có thể những nhà viết sử chưa thật tin vào những con số ta đã công bố. Vì họ thấy nếu đây là sự thật thì nó quá phi lý và điều phi lý hơn nữa là quân Pháp đã thua.
5 tiểu đoàn vệ quốc quân và 8.000 tự vệ thành phần lớn không trang bị súng là tất cả những gì quý nhất mà ta có được đề dành cho trận đánh ở Hà Nội. Nếu quân Pháp coi bộ đội của ta ở mặt trận Hà Nội chỉ là tự vệ thì cũng dễ hiểu vì ở thời điểm này sự cách biệt giữa tự vệ và bộ đội cũng chẳng là bao. Vào những ngày cuối cùng của trận đánh tại Liên khu 1, tất cả khu phố Cầu Gỗ chỉ còn một khẩu súng khai hậu bắn từng phát một, được anh em gọi là “khẩu thần công”. Tất cả những gì người Pháp chờ đợi về phía ta chỉ là do những hoạt động nghi binh, phao tin trước trận đánh để thực hiện chiến thuật “Trùng độc chiến”, và mọi việc đã diễn ra đúng theo mong muốn của ta.
Sách báo của ta cũng đã nêu rõ, đêm 19 tháng 12 năm 1946, chúng ta đã chủ động nổ súng.
Thực ra sau khi quân Pháp chiếm Hải Phòng, Đảng ta đã biết với thái độ của những người cầm đầu quân Pháp ở Đông Dương, rất khó tránh khỏi chiến tranh. Nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn kiên trì những hoạt động ngoại giao đến cùng (cả sau khi tiếng súng đã nổ trên toàn quốc) để mong tránh khỏi một cuộc chiến tranh. Nhưng khi nhận được liền hai “tối hậu thư” của Morlière tuyên bố “Quân Pháp sẽ đảm nhiệm an ninh tại Hà Nội chậm nhất là vào ngày 20 tháng 12” , ta đã quyết định tranh thủ nổ súng trước một đêm, để đỡ nguy hiểm cho một bộ phận vệ quốc đoàn đang phải cùng làm nhiệm vụ canh gác chung với quân Pháp. Bốn mươi năm sau, nhiều nhà sử học Pháp và nước ngoài dựa vào những tài liệu về chiến tranh Đông Dương của Pháp đã giải mật viết một loạt cuốn sách đưa ra những bằng chứng cụ thể lên án chính D’Argenlieu, Valluy đã tìm mọi cách buộc người Việt Nam phải nổ súng trước, và nếu người Việt Nam cố tình không làm việc đó thì chính người Pháp sẽ làm (4) .
Có thể đây cũng là một nguyên nhân khiến cho đến nay người phương Tây vẫn chưa hiểu cái gì đã dẫn đến chiến thắng của nhân dân Việt Nam.
Chiến thuật trong trận đánh Hà Nội được Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp gọi là: “Du kích trận địa chiến” , một từ ngữ chưa hề xuất hiện trong một cuốn sách quân sự nào. Cũng từ đây, cùng với những thắng lợi bước đầu của chiến tranh, đã nảy ra những ý kiến khác nhau về mặt quân sự. Điều này không đáng ngạc nhiên. Vì thực ra cuộc chiến tranh Cách mạng Giải phóng dân tộc của ta ngay từ đầu đã mang những đặc thù: những người kháng chiến để tồn tại, đã làm những việc trái với nhiều nguyên tắc quân sự đã được xác lập trong lịch sử chiến tranh.
Chú thích:
1. Theo kế hoạch, ta sẽ để lại trong khu phố cổ một tiểu đoàn, nhưng khi nổ súng tiểu đoàn này bị cắt làm đôi, một nửa tiểu đoàn bố trí trên đê Yên Phụ không lọt được vào trong thành phố.
2. Histoire de la guerre d’Indochine, Yves Gras. 1979.
3. Tác giả nhấn mạnh.
4. “Paris, Ha Noi, Sai Gon” của Philippe Devillers, “Vêpres Indochinoises” của Stein Tonnesson.