Chương V HUẤN LỆNH ĐẶC BIỆT
❖ 1 ❖
Những trận đánh tại thành phố giành thắng lợi đạt được mục tiêu đề ra ban đầu, nhưng cũng làm bộc lộ phần lớn những nhược điểm của ta trong cuộc chiến tranh này. Quân địch đã thấy rõ đối thủ của chúng chỉ là những người dân vừa đứng vào hàng ngũ chiến đấu, cực kỳ thiếu súng đạn, vũ khí, chưa qua huấn luyện, chưa quen chiến đấu tập trung. Khi biết được tình hình, nhiều viên chỉ huy Pháp sững sờ vì chúng đã để lỡ một dịp may. Nhưng chúng cũng thấy đây chưa phải là cơ may cuối cùng, và chúng sẽ có cơ hội sửa chữa sai lầm này.
Đây là lần đầu quân Pháp tung những binh đoàn nguyên vẹn ra miền Bắc. Lực lượng này tuy đã chia ra chiếm đóng ở nhiều nơi, nhưng ở Hà Nội, chúng vẫn còn là những trung đoàn bộ binh, thiết giáp hùng mạnh. Những tên chỉ huy địch cảm thấy rất uất hận vì bị ta đánh lừa, bỏ lỡ cơ hội tiêu diệt lực lượng vũ trang bé nhỏ, chỉ còn hơn một ngàn người kể cả phụ nữ và em nhỏ, từ gần một tháng qua ở ngay sát nách.
Nếu trận đánh cầm chân quân địch ở Thủ đô và các thành phố lớn đã mang lại sự tin tưởng cho toàn quân và toàn dân ta trong những tháng mở đầu Toàn quốc kháng chiến, thì đối với những người điều khiển cuộc chiến là một mối trăn trở rất lớn.
Công tác phá hoại đường sá tiến hành hơn hai tháng qua với rất nhiều công sức, đã tỏ ra kém hiệu quả: Bộ Tổng chỉ huy ra lệnh phá hết cầu trên đường số 1, kể cả cầu Long Biên. Nhưng để phá một nhịp cầu như cầu Long Biên, cần 650kg thuốc nổ. Hai trung đoàn công binh vừa tổ chức của ta mới thành lập chỉ có trong tay 10kg thuốc nổ. Để phá một đoạn đường nhựa hay một đoạn đường đá rộng 8m, dài 15m, sâu 3m, ta phải bỏ ra hàng ngàn công, nhưng địch dùng một tiểu đội, đánh mìn bạt hai đầu hố, sửa thành dốc thoai thoải cho xe cơ giới chạy qua chỉ mất vài tiếng đồng hồ. Để làm một bãi rào ngăn trên mặt đường, ta phải mất 1.400 công gỡ ray trên những trục đường sắt, dựng thành hàng rào cánh xẻ chắn ngang đường, dùng những thanh tà vẹt cắm xiên thành những bãi cọc sắt kéo dài chừng 30m trên mặt đường, nhưng địch chỉ cần dùng thuốc nổ và mấy chiếc xe ủi, xe húc xóa sạch trong vòng mấy giờ. Ta đã tốn dăm ngàn công để hạ cây trên hai con đường từ Ngã Tư Sở và từ Văn Điển vào Hà Đông, địch chỉ cần dùng mìn và xe ủi dọn trong vài ba ngày.
Đặc biệt là những con đường trên mặt đê. Ta không thể đào mặt đê để ngăn chặn cơ giới địch vì đây sẽ là thảm họa khi mùa mưa tới. Ta phải tính cách đắp những ụ đất trên đê, cũng như những con trạch để ngăn xe cơ giới. Việc làm này rất tốn công vì phải lấy đất từ xa đưa về. Nhưng những con trạch và ụ đất này rất dễ bị xe ủi của địch nhanh chóng san bằng. Thời gian vừa qua, địch đã lợi dụng chính những con đường đê để tiến hành những trận truy kích ra ngoài thành phố. Bộ đội ta vừa từ thành phố rút ra, tạm trú trong những ngôi làng, nhìn thấy những đoàn xe tăng, xe thiết giáp, xe chở pháo, chở quân địch chạy trên đê.
Ngày 2 tháng 3 năm 1947, Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp trực tiếp chứng kiến cuộc hành binh lớn đầu tiên của quân Pháp từ Hà Nội đánh ra. Xe tăng, xe bọc thép, bộ binh cơ giới mở những mũi thọc sâu theo hai cánh: một cánh từ Tây – Nam Hà Nội đi Hà Đông, Mai Lĩnh, sau đó thọc lên Quốc Oai, chùa Thầy; một cánh từ Chèm theo đê sông Hồng, sông Đáy, xuống cầu Phùng đánh vào vùng Đan Phượng. Đài phát thanh địch công khai tuyên truyền cuộc hành binh có nhiệm vụ chụp bắt cơ quan đầu não của Việt Minh được phát hiện ở trong vùng.
Nhiều cơ quan Trung ương lúc này nằm trên đường tiến quân của địch. Sau khi Trung đoàn Thủ đô rút ra, ta đã nhanh chóng tổ chức thêm bốn trung đoàn nữa, lấy những tiểu đoàn của Hà Nội, Khu 2, Hà Đông làm nòng cốt để ngăn chặn các mũi tiến công mới của địch nhằm bảo vệ các cơ quan chính phủ, quân đội, kho tàng, xí nghiệp còn đang trên đường di chuyển.
Tổng chỉ huy chưa hình dung trận đánh sẽ diễn tiến ra sao nếu quân địch dùng đại bác và xe tăng hủy diệt những ngôi làng có cơ quan và bộ đội ta đang trú quân rồi thúc bộ binh tiến vào.
Anh thấy đây chính là tình hình mà bộ đội ta đã phải đối phó với quân địch ở mặt trận Huế, mặt trận Sơn La thời gian qua. Trong khi những lực lượng bộ đội nhỏ bé của ta cầm cự ngang ngửa với quân địch trong thành phố, thì những trung đoàn, tiểu đoàn của ta lại tan vỡ trước những đợt tiến công mũi dùi của quân địch. Tại đây chúng hoàn toàn chủ động, muốn đi đâu thì đi, như vào chỗ không người. Những cuộc kháng cự của ta càng dũng cảm bao nhiêu, càng chịu những tổn thất lớn bất nhiêu. Tổng chỉ huy đã nhiều lần nhắc các đơn vị không được đưa lực lượng của ta đối đầu với những mũi dùi tiến công của địch. Khác với trường hợp quân ta chủ động rút lui như trung đoàn Thủ đô ở Liên khu 1, tình hình bộ đội cũng như dân chúng ở trong vùng không có xáo động. Nhưng mỗi lần vỡ mặt trận thì ta gặp hàng loạt vấn đề phải đối phó. Bộ đội rút lui bị mất liên lạc rất khó tập hợp lại. Cán bộ, chiến sĩ dao động, mất tinh thần, người thất lạc, có kẻ bỏ ngũ. Dân chúng hoang mang cho rằng lực lượng địch quá mạnh và lực lượng ta quá yếu. Mỗi lần vỡ mặt trận là những vùng đất đai rộng lớn và dân chúng lại chuyển thành vùng tạm chiếm.
Lúc này, nhìn quân địch trên đê, anh tự đặt mình vào vị trí người chỉ huy quân sự tại địa phương. Anh thấy thật rất khó có thể để quân địch cứ lừng lững tiến trước mắt mà không có hành động đối phó, khi mình là quân đội con em đã được nhân dân nuôi dưỡng!
Từ ngày Toàn quốc kháng chiến, Bác và cơ quan lãnh đạo của ta vẫn ở lại chung quanh Hà Nội.
Ngay chiều hôm đó, Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp tới nơi Bác ở tại Viên Nội, đề nghị Bác nên rời Hà Đông ngay trong đêm, vì vùng này đã nằm giữa khu vực càn quét của địch. Bác lên đường với anh Trần Đăng Ninh qua Sơn Tây vượt Trung Hà và dừng lại ở Cổ Tiết bên ghềnh Bà Triệu một thời gian. Cổ Tiết nằm cách Hà Nội chỉ khoảng 80km nhưng khá yên tĩnh. Cuộc truy kích của quân địch vòng quanh Hà Nội cuối cùng hướng về phía tây nam. Chúng tưởng cơ quan đầu não của ta sẽ nhắm một khu vực đông người, nhiều của có rừng, có núi ở miền Trung nằm tương đối xa Hà Nội, tiếp giáp với Lào, có con đường giao lưu thuận tiện với miền Nam, nhưng không ngờ chúng ta lại đi về phía Tây Bắc.
Đêm mồng 6 tháng 3, trên đường lên Việt Bắc, Tổng chỉ huy nghỉ lại một làng ở Thạch Thất, Quốc Oai. Những ngôi nhà ở đây được xây toàn bằng gạch tổ ong. Anh thấy có một việc cần làm gấp. Hơn bao giờ hết anh nhận thấy sự vô lý khi mang những đơn vị mới được tổ chức của ta ra ngăn chặn những cuộc tiến công của địch mà anh đã tận mắt nhìn thấy những ngày qua. Anh chong ngọn đèn dầu ngồi viết bản huấn lệnh thứ hai “Sự cần thiết phải chuyển sang Du kích vận động chiến” (1) . Trước đó năm tuần, bản huấn lệnh thứ nhất của Bộ Tổng tham mưu đã gửi tới từng tiểu đội. Bản huấn lệnh lần này của Tổng chỉ huy chỉ gửi tới cán bộ chủ chốt của quân đội ở cấp khu và cấp trung đoàn.
Huấn lệnh nhắc lại sự phán đoán đúng các cuộc tiến công của địch ở Huế, Quảng Trị, ở mặt trận Hải Phòng và mặt trận Hà Nội, và nhiều chỉ thị cho bộ đội phải chuyển sang “du kích vận động chiến” để đối phó với những cuộc tiến công, nhưng ở nhiều nơi bộ đội vẫn áp dụng cách dàn trận địa đánh nhau với quân địch trong những điều kiện vô cùng bất lợi. Huấn lệnh nhấn mạnh: “Phải dùng ngay chiến thuật du kích vận động chiến một cách bạo dạn, nghĩa là: Phải tập trung bộ đội, củng cố tinh thần bộ đội, dùng lối hành binh rất nhanh chóng, rất bí mật mà đánh mạnh vào những chỗ địch tương đối yếu hay mới chiếm đóng chưa củng cố vị trí, sau đó lập tức rút lực lượng đi đánh những nơi khác. Làm như vậy thì có nơi phải bỏ đất, không phải đâu cũng dàn trận mà giữ…Tập trung chủ lực để đánh từng trận lớn và phân tán một số đơn vị bộ đội để phối hợp với dân quân” .
Huấn lệnh kết thúc bằng những lời thống thiết: “Quân đội ta đang đứng trước nguy cơ bị bao vây, tan rã và tiêu diệt, thanh danh bộ đội còn hay mất là có triệt để thực hiện ‘du kích vận động chiến’ để đối phó với quân địch hay không?”
Trong tháng 3, chiến thuật “du kích vận động chiến” được thực hiện ở một số nơi mang lại những kết quả rõ rệt như ở Nam Định và Hải Phòng. Nhưng ta lại bị tổn thất nặng ở Hà Đông. Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội muốn có một chiến thắng vang dội sau khi bộ đội ta phải rút lui khỏi Liên khu 1, đã sử dụng một lực lượng hỗn hợp tương đương với một trung đoàn đánh vào thị xã Hà Đông, một nơi địch mới chiếm đóng. Với quyết tâm giành chiến thắng, hầu hết những người được đưa vào trận đánh đều là cán bộ: cán bộ trung đoàn chỉ huy tiểu đoàn, cán bộ tiểu đoàn chỉ huy đại đội, cán bộ đại đội chỉ huy trung đội…và cán bộ tiểu đội làm nhiệm vụ chiến sĩ. Sau những giây phút bất ngờ đầu tiên, quân địch dựa vào công sự kiên cố đối phó với ta kịch liệt. Mờ sáng bộ đội ta phải rút ra. Số thương vong của đôi bên là tương đương, nhưng phía ta đều là cán bộ. Sai lầm của ta là chủ trương tiêu diệt toàn bộ quân địch tại thị xã, trong khi lực lượng ta chỉ cho phép tiến hành một trận tập kích. Trận đánh thị xã Hà Đông đã kết thúc thời kỳ chiến đấu của quân và dân ta trên mặt trận Hà Nội.
Trải qua gần ba tháng di chuyển cơ quan, vừa đi vừa đối phó với quân địch vừa chỉ đạo tác chiến, trong tháng 5 năm 1947, các cơ quan của Đảng, chính phủ và quân đội về tới Việt Bắc.
Bác đã trở lại Tân Trào.
Khu căn cứ địa của cuộc kháng chiến chỉ cách Hà Nội khoảng một trăm kilomet theo đường chim bay. Khoảng cách này sẽ tồn tại trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp.
❖ 2 ❖Mùa mưa năm 1947 bắt đầu. Nước các con sông lên cao, địch buộc phải tạm dừng những cuộc hành binh chủ yếu là sử dụng lực lượng cơ giới. Và sau một thời gian chiến đấu, chúng cũng phải tổ chức, củng cố lại những đơn vị đã tổn thất để chuẩn bị một cuộc tiến công quyết định. Chúng ta biết chỉ có một thời gian ngắn ngủi để xây dựng lực lượng nhằm đối phó với những đòn hủy diệt của một cuộc chiến tranh chớp nhoáng đang được gấp rút chuẩn bị tung ra khi mùa khô tới.
Khó khăn lớn lúc này là nắm tình hình địch. Cuối tháng 3 năm 1947 ta mới có quyết định tổ chức Cục Tình báo trực thuộc Bộ Quốc phòng – Tổng chỉ huy. Hai tháng sau đó, ngày 30 tháng 5 năm 1947, trong nghị định Bộ Quốc phòng – Tổng chỉ huy mới có Phòng 2, đặc trách về tình báo nằm trong cơ quan của Bộ Tổng tham mưu. Tổ chức tình báo, tổ chức tác chiến, cũng như tổ chức thông tin liên lạc của ta lúc này đều rất non trẻ. Hệ thống nắm địch từ trung ương đến các cơ sở trong vùng tạm chiếm đều đang trong thời kỳ xây dựng, củng cố về mặt tổ chức, guồng máy chưa chạy đều. Nguồn tin chủ yếu lúc này là dựa vào báo chí công khai, các đài thông tấn của Pháp và phương Tây, lấy hoạt động của các chính khách và tướng lĩnh Pháp, dựa vào động tĩnh của quân viễn chinh trên toàn chiến trường Đông Dương. Ta đã cố khai thác những nguồn tin này để tìm ra đáp số cho những gì mình đang cần.
Trong tháng 3 năm 1947, báo chí Paris tiếp tục phản ánh dư luận tiến bộ Pháp đòi đình chỉ chiến tranh Đông Dương, đòi dàn xếp với chính phủ Hồ Chí Minh. Thủ tướng Pháp tuyên bố trước Quốc hội rằng vấn đề Đông Dương không thể giải quyết bằng vũ lực mà phải bằng một giải pháp chính trị.
Ngày 1 tháng 4 năm 1947, Valluy được chỉ định làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh, Bolaert được cử sang thay thế D’Argenlieu. Nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương cử giáo sư Paul Mus bắt liên lạc với ta ở Phùng, Sơn Tây, đề nghị được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Thái Nguyên.
Trong cuốn binh pháp duy nhất mà Bác đưa ở ngoài về, Tôn Tử viết: “Dùng binh thượng sách là đánh bằng mưu kế, thứ đến đánh bằng ngoại giao rồi kế đó mới bằng quân lực…”. Và Tôn Tử nhấn mạnh: “Không ra quân hai lần, không tải lương ba lượt”, có nghĩa đã chọn chiến tranh thì phải chọn cách “đánh nhanh thắng nhanh” không bao giờ nên đánh lâu dài. Đây là những điều không nằm trong đường lối cơ bản về kháng chiến của ta. Nhưng nhìn vào hành động thực tế, ta thấy Bác đã dành rất nhiều tâm sức, thời gian để tránh một cuộc chiến tranh. Và có thể nói Bác là một nhà ngoại giao mẫu mực: rất chặt chẽ trong nguyên tắc, không đòi hỏi ở đối phương cái gì mình chưa thể có, biết cái khó của đối phương, luôn luôn tìm cách gạt những trở ngại nhỏ để tìm tiếng nói chung, biết chờ đợi. Có thể nói bao giờ Bác cũng tìm mọi cách tránh xung đột, một cơ hội nhỏ cũng không bỏ qua để duy trì hòa bình, tránh một cuộc chiến tranh mà Bác biết là tốn người hại của. Chúng ta đã thấy sau ngày Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Bác đã dành tâm huyết và thời gian như thế nào để bảo vệ chính quyền non trẻ của ta, cố tránh một cuộc chiến tranh rộng lớn luôn luôn ở gần kề.
Bác đồng ý gặp đại diện của Pháp tại Thái Nguyên. Một lần nữa, ta lại thấy Bác không bỏ qua bất cứ một cơ hội nào có thể chấm dứt chiến tranh. Pháp đã cố chọn giáo sư Paul Mus, vốn là một Đảng viên của Đảng Xã hội có quen biết Bác từ trước. Ông giáo sư rụt rè một lát mới truyền đạt được những điều kiện điều đình từ phía Pháp mà người ta yêu cầu ông phải học thuộc lòng: Người Việt Nam phải nộp toàn bộ vũ khí. Phải trao trả tất cả những người nước ngoài đã bị bắt. Phải để quân Pháp đi lại tự do…Bác hỏi lại Paul Mus: “Nếu vào ở vị trí của tôi thì ông có thể chấp nhận những điều kiện như thế này không…? Chúng tôi mong muốn hòa bình nhưng không phải là hòa bình bằng mọi giá!”.
Cũng thời gian này, ngày 15 tháng 5 năm 1947, cao ủy Pháp Bolaert đọc một bài diễn văn tại Hà Đông khẳng định sự có mặt của người Pháp ở Đông Dương, khẳng định sự có mặt của Đông Dương trong khối Liên hiệp Pháp. Ông ta phủ nhận sự lãnh đạo của một đảng “độc quyền đại diện cho cả dân tộc Việt Nam”! Báo chí Paris đưa tin Bolaert nói: “Vấn đề Đông Dương không còn là vấn đề quân sự mà đã chuyển sang bình diện chính trị”. Tin tức Hồng Kông cho thấy một số nhân vật “quốc gia” đang vận động Bảo Đại về nước hợp tác với Pháp.
Tin tức tổng hợp sau những tháng hè cho thấy mấy tháng qua quân địch được nghỉ ngơi, củng cố, chúng đã có thêm 20.000 quân tăng viện, lại phát triển thêm được quân ngụy, đưa tổng số binh lực lên tới 128.000 quân. Trong hàng ngũ sĩ quan chỉ huy cũng có thay đổi: tướng Salan, một người am hiểu về Đông Dương được cử sang phụ trách chiến trường Bắc Đông Dương. Salan nhiều lần đi thị sát chiến trường biên giới, Đông Bắc và vùng Trung du Bắc Bộ. Các cuộc họp trong Bộ Tổng tham mưu đều nhận định địch đang chuẩn bị một ý đồ chiến lược cho mùa khô sắp tới.
Đầu tháng 7 năm 1947, Chính phủ ra sắc lệnh cho Bộ Tổng chỉ huy xây dựng đại đoàn chủ lực đầu tiên của Bộ. Qua cuộc chiến đấu tại mặt trận Hà Nội, cơ quan Tổng chỉ huy đã nhận thấy Bộ không có một lực lượng quân sự lớn nào trong tay để đối phó với những cuộc tiến công lớn của địch. Không thể chậm trễ thành lập lực lượng này, vì chỉ trong nay mai cuộc tiến công chiến lược của địch nhằm chấm dứt chiến tranh sẽ bắt đầu. Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái được bổ nhiệm kiêm chức Đại đoàn trưởng. Việc củng cố các đơn vị chủ lực của tỉnh cũng được xúc tiến một cách khẩn trương.
Ở Việt Bắc, trừ những dãy phố của bà con vùng xuôi lên mới dựng dọc đường số 3, số 2 để bán hàng cho khách qua lại phần lớn là bộ đội, cán bộ cơ quan, chưa có những thay đổi của chiến tranh. Nhiều đường trong khu Việt Bắc như các đường Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Cạn, phần lớn còn để nguyên vẹn. Công tác phá hoại đường sá, cầu cống và các nhà kiên cố trong các thị xã, thị trấn, cũng như động viên nhân dân cắm cọc chống quân nhảy dù và việc sơ tán nhân dân ở thị xã, thị trấn không được chú trọng.
Ngày 15 tháng 8, đáp lại bản huấn lệnh của Bolaert, Ban Thường vụ Trung ương ra bản chỉ thị “Bolaert nói gì? Ta phải làm gì?” . Chỉ thị yêu cầu toàn dân: “Phải tích cực chuẩn bị chiến dịch mùa đông về mọi mặt, đặng đối phó với cuộc tiến công có thể lan rộng và ác liệt của quân Pháp sau mùa mưa này. Phải chuẩn bị chống quân địch đánh xuyên mũi dùi, đánh vòng thật rộng, nhảy dù đổ bộ sau lưng ta, phải phát triển dân quân và vũ trang gấp cho dân quân, phải phá hoại triệt để những thị trấn địch có thể chiếm đóng trong mùa đông sắp tới…” . Bản chỉ thị của Thường vụ như đã tiên đoán được những việc sẽ xảy ra không đầy hai tháng sau đó.
Ngày 20 tháng 9, ở phía Tây Bắc, quân Pháp mở một cuộc tiến công trên toàn tuyến từ Phong Thổ đánh ra Bát Xát, từ Bình Lư tiến chiếm Sa Pa giáp tới Lào Cai, từ Mường Chiên, Vạn Yên đánh ra, kết hợp với nhảy dù xuống Than Uyên, Khâu Cọ, chiếm Thượng Bằng La, sắp tiến ra Nghĩa Lộ…
Trong mùa thu năm 1947, cơ quan Bộ Tổng tham mưu tranh cãi nhiều lần là lực lượng chủ lực của Bộ đã được tăng cường, nếu địch tiến công vào Việt Bắc thì quy mô đánh vận động của bộ đội chủ lực ta có nên giữ ở mức đại đội và tiểu đoàn như hiện nay không? Một số người thấy nên phát triển lên quy mô lớn hơn. Cuộc tranh luận dừng lại ở chỗ: Quy mô tác chiến tùy thuộc vào tính chất của từng trận đánh, điều kiện địa hình và nhất là trình độ của từng đơn vị.
Hạ tuần tháng 9, Bộ Tổng tham mưu trình bản dự thảo của Bộ Tổng chỉ huy gửi cho các khu ở Bắc Bộ về phương hướng nhiệm vụ tác chiến trong Thu Đông. Mệnh lệnh viết: “Địch sẽ đánh mạnh trong Thu Đông và chiến trường chính sẽ là Bắc Bộ, mà có thể chúng không dám mạo hiểm. Nếu đánh Việt Bắc, chúng sẽ tiến công từ trung du lên, từ Tuyên Quang, từ Lạng Sơn về, chúng không thể nhảy dù xuống Bắc Cạn vì quá xa căn cứ của chúng ở đồng bằng…Nếu địch đánh Việt Bắc, ta phán đoán mặt tiến công chính của địch là Phúc Yên, Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Tuyên Quang; mặt kiềm chế hay phối hợp: phía tây sẽ là vùng Hòa Bình, Sơn La, phía đông sẽ là vùng Bắc Giang, Lạng Sơn”. Nhiệm vụ tác chiến của bộ đội chủ lực là:
-Đại đoàn Độc Lập (chủ lực của Bộ đang trong quá trình xây dựng) vòng xuống mạn Nhã Nam phối hợp với Khu 1.
- Chủ lực Khu 10 đánh vào Vĩnh Yên, Việt Trì.
- Chủ lực Khu 1 để ở chân Tam Đảo, đánh vòng xuống Phúc Yên.
- Khu 12 đánh vào bên cánh hoặc phía sau địch hoặc phối hợp Khu 1 đánh phía nam Thái Nguyên, Phúc Yên, Bắc Giang và trên đường số 4.
- Khu 3 đánh mạnh trên đường số 5 và các cứ điểm ở vùng Trung Châu.
- Khu 2 và Khu 11 đánh thọc vào Hà Đông hay Hà Nội…
Tổng chỉ huy góp ý với Tổng Tham mưu trưởng:
- Do ta chưa xác định được cụ thể mục tiêu cuộc tiến công lên Việt Bắc của địch, nên kế hoạch đối phó còn chung chung. Cơ quan Tổng tham mưu cần suy nghĩ thêm.
Có thể nói suốt mùa hè năm 1947, Tổng chỉ huy lúc nào cũng băn khoăn nghĩ tới cuộc tiến công Thu Đông sắp tới của địch. Mặc dù đã rất nhiều lần trao đổi với cơ quan tham mưu, nhưng anh vẫn chưa hình dung ra cuộc tiến công sắp tới của địch sẽ diễn ra như thế nào. Anh thấy những phán đoán của ta đưa ra đều chưa có cơ sở thuyết phục. Khi ta chưa xác định được âm mưu của địch, mục tiêu của cuộc tiến công, thì tất cả những biện pháp đề phòng mới chỉ là những giả tưởng, khiến anh không thể an lòng.
Hội nghị quân sự lần thứ tư được triệu tập vào ba ngày 27, 28, 29 tháng 9. Mùa khô đã tới. Cuộc tiến công lớn của địch có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Hội nghị này có nhiệm vụ khó khăn là phán đoán ý đồ tiến công của địch và bàn kế hoạch làm thất bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của chúng.
Trên đường đi Hội nghị, Tổng chỉ huy chợt nhớ lại bản dự thảo về phương hướng đối phó với cuộc tiến công chiến lược Thu Đông vào Việt Bắc, anh giật mình khi nhận thấy với một sự chỉ đạo như thế này, sẽ rất dễ cho các Khu, các địa phương lặp lại cách dàn trận địa để đối phó với những mũi dùi tiến công của địch như trước đây. Nhưng anh lại tự hỏi: “Nếu không dàn quân để ngăn chặn những ngả đường quân địch tiến vào căn cứ địa thì còn cách nào?”. Và anh không thể tự trả lời.
Trong mùa hè vừa qua, những hiện tượng “vỡ mặt trận” đã tạm chấm dứt. Anh chưa đánh giá được đó là do bộ đội ta đã tìm ra cách đối phó với các mũi dùi tiến công, hay là do quân địch trong thời gian này không mở những cuộc tiến công lớn. Anh vẫn nghiền ngẫm về những phương châm lớn trong cuộc trường kỳ kháng chiến của ta: “Kháng chiến toàn dân, toàn diện và trường kỳ”, những điều tưởng như rất dễ hiểu, nhưng càng suy nghĩ anh càng nhận ra ở đây có nhiều cái mới, và khó nhất là làm sao vận dụng những điều này vào trong thực tiễn chiến tranh của ta.
Ta đề ra “kháng chiến toàn dân”, nhưng với thói quen nghiên cứu của một nhà sử học, anh thấy chưa có đâu thực hiện được điều này. Ở những nước dùng chiến tranh du kích chống ngoại xâm, nơi nào bộ đội hoặc nghĩa quân đã rút đi thì nơi đó chiến tranh cũng ngừng, quân địch lại trở lại làm chủ. Ta chưa làm được gì nhiều để cuộc chiến này trở thành cuộc chiến của toàn dân. Mỗi người dân sẽ làm gì trong cuộc chiến này? Và làm sao huy động được toàn thể nhân dân vào cuộc chiến tranh?...Anh có nhiều băn khoăn chưa có hướng giải tỏa.
Tại Hội nghị quân sự lần thứ tư, Tổng chỉ huy trình bày so sánh lực lượng giữa ta và địch, những phán đoán của Bộ về âm mưu địch và dự kiến đối phó với cuộc tiến công nếu diễn ra. Anh nói Bộ còn phân vân với những dự kiến này và yêu cầu Hội nghị tiếp tục phán đoán về âm mưu của địch.
Hội nghị cho rằng Thu Đông này, địch sẽ tập trung quân đánh phá miền Bắc nhằm tiêu diệt lực lượng kháng chiến, tạo điều kiện thành lập chính quyền bù nhìn để khai thác sức người sức của của ta, tiếp tục chiến tranh xâm lược. Số đông đồng ý với nhận định: dù kẻ địch đã tăng quân, nhưng mạo hiểm lắm chúng mới dám tấn công vào Việt Bắc. Chúng chưa thể quên những ngày đầu kháng chiến toàn quốc, những đơn vị chủ lực của ta rất thiếu thốn về vũ khí, cùng với lực lượng tự vệ thành, chỉ có những trang bị tự tạo đã ngang nhiên đương đầu với quân địch tại Thủ đô Hà Nội và các thành phố, thị trấn hàng tháng trời. Thời gian qua, lực lượng ta tại Việt Bắc đã được tăng cường. Đồng bào các dân tộc ở căn cứ địa Cách mạng Việt Bắc đã trải qua nhiều năm tôi luyện trong cuộc chiến với Pháp và Nhật. Địa hình rừng núi không phải là nơi cho phép địch tái diễn những trận lùng càn bằng xe tăng, cơ giới như chúng đã làm hồi đầu xuân ở vùng xuôi. Người đoán địch sẽ đánh đồng bằng, vùng đông người, nhiều của, địa hình bằng phẳng dễ phát huy sức mạnh xe tăng, cơ giới. Người nói, chúng sẽ đánh Việt Bắc. Người lại nói, chúng sẽ đánh Khu 4.
Suốt Hội nghị, Tổng chỉ huy vẫn chưa thấy ai có ý kiến gì mới về cách đối phó với cuộc tiến công chiến lược sắp nổ ra.
Tư lệnh Khu 4 Nguyễn Sơn, đang ngồi lim dim con mắt bỗng như vừa choàng tỉnh khỏi một giấc mơ, nói rất to:
- Địch sẽ đánh đâu à? Tôi cho rằng chúng sẽ nhảy dù xuống chính đầu chúng ta!
Nguyễn Sơn đã từng tham gia Vạn lý trường chinh của Hồng quân Trung Hoa. Tổng chỉ huy thấy đây là một ý kiến đáng chú ý. Trong giờ nghỉ, Bí thư Khu 12 Nguyễn Khang kể cho anh nghe câu chuyện một đại đội vệ quốc đoàn bị lọt lại vùng địch. Trong một đợt càn ác liệt của địch ở nam phần Bắc Ninh, khi trung đoàn Bắc Bắc được lệnh rút ra vùng tự do, do đồng chí liên lạc bị thương, lệnh đã không đến được một đại đội, đại đội này đã lọt lại trong lòng địch. Một thời gian sau, khi trung đoàn tưởng đại đội đã bị tiêu diệt thì được tin nó vẫn tồn tại và tiếp tục chiến đấu tại nam phần Bắc Ninh. Trung đoàn cho người vào đưa lệnh cho đại đội rút ra trở về với đội hình trung đoàn, thì cả đơn vị đều xin được ở lại tiếp tục chiến đấu để duy trì phong trào. Dân quân, du kích, nhân dân các huyện trong vùng đều đề nghị với tỉnh xin cho đại đội ở lại, và hứa sẽ chăm lo về đời sống cho các chiến sĩ. Đến nay, đại đội này vẫn ở nam phần Bắc Ninh. Câu chuyện khiến Tổng chỉ huy đặc biệt chú ý.
Sau Hội nghị, Tổng chỉ huy cùng đi với Nguyễn Khang về Bắc Giang. Anh biết thêm đại đội này gốc gác là một trăm cán bộ, chiến sĩ của đại đội tự vệ Ngọc Thụy (Gia Lâm), trong đó có nhiều công nhân nhà máy xe lửa Gia Lâm đã tham gia những đội chiến sĩ quyết tử chiến đấu từ đêm 19 tháng 12 năm 1946. Đại đội đã được phối thuộc chiến đấu với một tiểu đoàn chủ lực của trung đoàn Bắc Bắc. Đại đội này đã tồn tại được trong vùng sâu của địch, vì đã bám chắc vào dân, phát động nhân dân chiến đấu du kích, lập làng kháng chiến. Nhờ có bộ đội, phong trào chiến tranh nhân dân ở trong vùng phát triển rất nhanh. Bộ đội ta khi tập trung, khi phân tán thành từng trung đội, tiểu đội chiến đấu với quân địch. Kẻ địch biết một bộ phận chủ lực của ta còn ở lại trong vùng, đã ráo riết lùng sục, tìm mọi cách để tiêu diệt hoặc đẩy ta ra ngoài, nhưng chúng đã không làm được điều đó.
Thực tế chiến đấu ở nam phần Bắc Ninh giống như một thứ ánh sáng huyền diệu soi vào những bóng tối cuộc kháng chiến hiện nay.
Tổng chỉ huy nhớ lại những ngày khó khăn của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ở Cao Bắc Lạng. Quân Giải phóng tồn tại được chính là vì đã phát động được một phong trào chiến tranh nhân dân rộng rãi. Nếu có nhân dân che chở, nuôi nấng, lực lượng vũ trang ta không những tồn tại mà còn chiến đấu phát triển được phong trào.
Từ sau ngay có chính quyền Cách mạng, chúng ta đã dự kiến sẽ tổ chức hai đại đoàn chủ lực. Các khu đều hăng hái lựa chọn những tiểu đoàn chủ lực khá nhất của mình, những vũ khí tốt nhất chuẩn bị đưa lên Bộ để đóng góp vào việc xây dựng hai đại đoàn. Nhưng rồi chiến tranh sớm nổ ra và lan rộng nhanh. Những chi đội đầu tiên của Giải phóng Quân lên đường Nam tiến, những trung đoàn phải gắn với các chiến khu, các mặt trận. Do đó, khi nổ ra kháng chiến toàn quốc, Bộ vẫn chưa có một lực lượng bộ binh tập trung để đối phó với những cuộc tiến công lớn của địch. Những tháng qua, ta đã chọn một số tiểu đoàn có mặt tại mặt trận Hà Nội để thành lập một trung đoàn chủ lực đầu tiên của Bộ, chuẩn bị phát triển thành đại đoàn để kịp thời ứng phó với tình hình chiến tranh phát triển.
Hạ tuần tháng 8, Chính phủ ban hành sắc lệnh tổ chức Đại đoàn Độc Lập trực thuộc Bộ Tổng tư lệnh, công tác chuẩn bị ở Bộ đang được xúc tiến. Các khu lại nô nức gửi những tiểu đoàn tốt nhất của mình lên Bộ để đóng góp vào việc xây dựng đại đoàn chủ lực đầu tiên.
Một ý nghĩ lóe lên như tia chớp. Anh chợt nhận thấy một cách rõ ràng: muốn đưa cuộc kháng chiến tiến lên vững chắc chưa phải là lúc tập trung bộ đội thành đại đoàn, chuẩn bị những trận đánh lớn, mà phải có một quá trình rèn luyện thích hợp cho bộ đội ta từ thấp đến cao, một quá trình kiên nhẫn, lâu dài.
Những sự kiện từ ngày đầu chiến tranh lần lượt hiện lên trong anh: mặt trận Huế vỡ, mặt trận Sơn La vỡ, trận đánh cấp trung đoàn vào thị xã Hà Đông không thành công, chứng tỏ ta chưa thể dùng những lực lượng đông để đối phó với những trận tiến công lớn, hoặc là dùng lực lượng lớn để chiến đấu với kẻ địch. Sự cần thiết bây giờ là phải phát động một cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn ở khắp nơi có quân địch, buộc chúng phải phân tán khắp nơi để đối phó…Đây chính là cách làm suy yếu chúng, tạo điều kiện cho những lực lượng nhỏ của ta đánh những trận chớp nhoáng tiêu diệt địch. Anh nhận thấy phải khá lâu nữa bộ đội ta mới có thể đối phó với những mũi dùi tiến công của địch, trong thời gian trước mắt ta chỉ có thể tiêu diệt những bộ phận nhỏ khi chúng đã phân tán.
Đại đội Nghĩa quân ở nam phần Bắc Ninh chính là chiếc chìa khóa để giải quyết khó khăn hiện nay.
Thời gian này chưa phải là lúc rút lực lượng từ các khu, các tỉnh lên để thành lập những đại đoàn mà phải làm một công việc hoàn toàn ngược lại. Đó là mạnh dạn phân tán những trung đoàn hiện có của ta thành những đại đội đi sâu vào địch hậu để phát động nhân dân tiến hành chiến tranh du kích, như cách Đại đội Nghĩa quân đã làm. Đó là cách duy nhất để trong một thời gian ngắn ta có thể xây dựng được một mặt trận chiến tranh toàn dân. Ta sẽ giữ lại ở Bộ cũng như ở các khu một số bộ đội chủ lực tập trung ở mức tiểu đoàn, hoạt động ở những khu vực, chiến trường nhất định. Bộ đội ta cần rèn luyện trước tiên ở mức đại đội, đến quy mô tiểu đoàn, rồi trung đoàn, trước khi tiến lên chiến đấu ở quy mô lớn hơn.
Mỗi lúc anh càng nhận thấy những ý nghĩ vừa nảy ra cực kỳ quan trọng, không những chỉ cho cuộc chiến lâu dài mà còn để đối phó với cuộc tiến công sắp tới của địch. Sự đòi hỏi này rất cấp bách. Nếu không, cuộc kháng chiến của ta sẽ gặp những khó khăn lớn trong những ngày sắp tới.
Theo cách làm thông thường thì với một chủ trương lớn cần đến một hoặc vài cuộc họp Thường vụ. Khi chủ trương đã được thông qua, còn phải bàn việc thực hiện. Nhưng anh thấy không thể làm việc này theo lối bình thường, mà phải tìm một con đường ngắn nhất, nó phải được thực hiện trước cuộc tiến công mùa Đông của địch nổ ra.
Và anh nghĩ ngay đến Bác. Bác đã hướng dẫn, theo dõi từng bước đi của lực lượng vũ trang, và thấu hiểu mọi khó khăn của ta, vấn đề này nếu được Bác nhất trí, Bác thường có những quyết định rất nhanh.
Về tới Thái Nguyên, anh quyết định rẽ lên Chợ Chu. Gần đây, cơ quan của Bác đã chuyển từ Tân Trào về Điềm Mạc. Ngay tối hôm đó, anh tới nơi Bác ở Điềm Mạc.
Sau khi báo cáo với Bác về Hội nghị quân sự lần thứ 4 và chuyến đi của mình về Khu 12, anh nói:
- Địch đang chuẩn bị một trận đánh lớn tiêu diệt chủ lực của ta để sớm kết thúc chiến tranh. Bộ đội ta với trình độ trang bị, kỹ thuật như hiện nay chưa thể tập trung đánh lớn được. Đề nghị Bác và Thường vụ cho hoãn việc thành lập đại đoàn một thời gian…
Bác chăm chú nhìn anh, như muốn hỏi tại sao. Anh nói tiếp:
- Ta đề ra kháng chiến toàn dân, toàn diện, nhưng phong trào chiến tranh du kích của ta ở địch hậu phát triển chưa mạnh. Tôi thấy cần đưa ngay một bộ phận chủ lực phân tán thành đại đội về những địa phương ở địch hậu để phát động chiến tranh du kích. Bộ đội chủ lực ở Khu và Bộ hiện nay chỉ nên tổ chức tập trung ở quy mô tiểu đoàn. Tác chiến ở quy mô tiểu đoàn là phù hợp với chiến thuật “du kích vận động chiến” . Theo nguyên tắc Bác đề ra trước đây, dân quân du kích là nguồn bổ sung dồi dào cho chủ lực. Khi phong trào địa phương mạnh thì chủ lực sẽ rút, địa phương càng mạnh thì lại càng tiếp tục phải bổ sung cho chủ lực. Trong vài ba năm trước mắt, cần phải hoạt động chiến tranh du kích rộng khắp. Cuối cùng, muốn chiến thắng quân địch, nhất định phải có một đội quân chủ lực thật mạnh.
Bác chăm chú lắng nghe, không hỏi lại, nói ngay:
- Phân tán một bộ phận chủ lực để phát động chiến tranh du kích là rất cần. Không chỉ đưa đại đội vào địch hậu mà đưa cả về những địa phương nay mai chiến sự sẽ lan tới.
- Xin đề nghị với Bác một công thức về tổ chức bộ đội chủ lực ta trong thời gian trước mắt là: “Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”. Có nghĩa là đưa từng đại đội về từng địa phương, phát động nhân dân tiến hành chiến tranh du kích, và bố trí từng tiểu đoàn trên từng khu vực cần thiết phục kích, tập kích, đánh những đồn địch nhỏ để thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch. Trong thời gian trước mắt ta kiên quyết thực hiện “du kích vận động chiến” .
- Công thức “Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung” là phù hợp với tình hình hiện nay. Số lượng các đại đội đưa về địa phương do Thường vụ quyết định. Sau khi Thường vụ nhất trí cần thực hiện ngay.
Sáng hôm sau, Tổng chỉ huy sang gặp Tổng bí thư Trường Chinh báo cáo lại ý kiến của Bác. Tổng bí thư nhất trí từ Khu 4 trở ra có thể đưa một phần ba bộ đội chủ lực phân tán thành đại đội độc lập về địa phương làm nhiệm vụ phát động chiến tranh du kích.
Tổng chỉ huy đề nghị thêm:
- Ở các khu, mỗi trung đoàn chỉ để lại Ban chỉ huy trung đoàn và một tiểu đoàn chủ lực tập trung. Riêng ở Bộ, các tiểu đoàn chủ lực vẫn giữ nguyên, và sẽ được bố trí từng tiểu đoàn tác chiến trên một địa bàn hoặc một hướng.
Tổng bí thư mỉm cười nói:
- Bây giờ mới hiểu vì sao bộ đội cứ thích dàn trận địa đông người. Với “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung” thì toàn quân nhất định phải dùng du kích và “du kích vận động chiến”!
Tổng bí thư Trường Chinh chuẩn bị lên Bắc Cạn công tác. Võ Nguyên Giáp nói sau khi về nhà cũng tiếp tục đi Chiêm Hóa mấy ngày, hẹn khi trở về sẽ trao đổi tiếp về bản huấn lệnh: “Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”.
Trở về cơ quan, Phòng 2 vẫn chưa có tin tức gì mới về cuộc tiến công của địch. Về sau mới biết đúng vào thời gian đó, cơ sở của ta ở Hà Nội báo tin địch tập trung rất đông quân ở Gia Lâm, có nhiều quân dù, chuẩn bị cho một trận đánh lớn. Vì sơ suất trong tổ chức giao thông nên tin tức cực kỳ quan trọng này đã không đến kịp thời.
Bộ Tổng tham mưu đã sửa xong mệnh lệnh gửi các khu trong cả nước về kế hoạch đối phó với cuộc tiến công mùa khô. Lần này mệnh lệnh khẳng định Bắc Bộ sẽ là chiến trường chính, địch có thể “quét đồng bằng Bắc Bộ, đánh lên căn cứ địa Việt Bắc”. Mệnh lệnh đề ra kế hoạch đối phó với địch trong cả hai trường hợp. Tổng chỉ huy tranh thủ sửa một đôi chỗ trước khi gửi đi. Mệnh lệnh này đã không kịp triển khai trước ngày địch mở cuộc tiến công.
❖ 3 ❖Ngày 6 tháng 10, Tổng chỉ huy lên đường đi Chiêm Hóa. Vừa tới Chiêm Hóa thì có điện khẩn: ngày 7 tháng 10, quân Pháp đã nhảy dù xuống thị xã Bắc Cạn. Cuộc tiến công mùa khô của địch đã bắt đầu từ một thị xã nằm sâu giữa lòng Việt Bắc. Tổng chỉ huy cấp tốc quay trở về, sáng ngày 8 đến cơ quan.
Trưởng phòng tác chiến báo cáo: 8 giờ 15 phút và 10 giờ sáng ngày 7 tháng 10, quân Pháp đã nhảy dù hai đợt xuống thị xã Bắc Cạn, trinh sát ta đếm được khoảng 800 chiếc dù. 14 giờ 30 phút, khoảng 200 quân Pháp nhảy dù xuống Chợ Mới, chỉ cách An toàn Khu 20km theo đường chim bay. Trong lúc địch nhảy dù, cả đồng chí Tổng Bí thư và đồng chí Tổng tham mưu trưởng đều đang có mặt ở thị xã Bắc Cạn. Anh Thái lên thăm một bộ phận của trường Võ bị Trần Quốc Tuấn đang đóng quân tại thị xã. Tổng chỉ huy chỉ thị cho cơ quan tham mưu cử ngay người lên Bắc Cạn tìm anh Trường Chinh và anh Hoàng Văn Thái, tập trung mọi khả năng, phương tiện theo dõi phát hiện kịp thời ý đồ và kế hoạch cuộc tiến công của địch; ra lệnh cho trung đoàn 72 đang đóng ở Bắc Cạn cùng với một tiểu đoàn chủ lực của Bộ làm nhiệm vụ bảo vệ cơ quan, phát động chiến tranh du kích, đánh địch khi chúng lấn ra vận động trên các đường Bắc Cạn – Chợ Mới, Bắc Cạn – Phủ Thông. Tổng chỉ huy chỉ đạo viết gấp bản Quân lệnh tiêu diệt địch để bảo vệ chiến khu Việt Bắc và Nhật lệnh của Bộ Tổng chỉ huy kêu gọi quân và dân cả nước chiến đấu phá tan kế hoạch tiến công mùa Đông của giặc Pháp.
Bộ Tham mưu đã thông báo tình hình cụ thể về địch cho tất cả các quân khu, các tỉnh, các đơn vị chủ lực và chỉ thị phải báo cáo ngay về Bộ những diễn biến mới ở địa phương mình.
Tin tức từ các nơi bay về dồn dập. Một cánh quân lớn của địch xuất phát từ Lạng Sơn ra đường số 4, dự đoán chúng sẽ đánh chiếm Cao Bằng rồi bắt liên lạc với quân dù ở Bắc Cạn. Như vậy căn cứ địa Việt Bắc đang bị uy hiếp từ cả hai phía đông và tây. Hướng tây, địch sẽ chiếm Lào Cai, Hà Giang. Phán đoán địch có thể có một cánh quân tiến theo đường số 2 và sông Lô lên Tuyên Quang, Bộ Tổng chỉ huy báo cho Khu 10 chuẩn bị đánh địch ở hướng này.
Tổng chỉ huy sang gặp Bác gấp, báo cáo tình hình mới với Bác và Thường vụ. Bác đang rất lo lắng vì anh Trường Chinh và một số cán bộ cao cấp bị kẹt ở Bắc Cạn.
Sau khi nghe báo cáo, Bác hỏi:
- Địch có thể huy động bao nhiêu quân vào cuộc tiến công?
- Theo tin tức gần đây, Valluy được tăng viện hai mươi ngàn quân.
- Pháp không đủ sức để theo đuổi một cuộc chiến tranh lâu dài. Chúng phải cố gắng đánh một đòn quân sự quyết định, tạo điều kiện cho Bolaert đưa Bảo Đại về để tìm cách kết thúc chiến tranh. Dù Valluy có huy động được cả hai vạn quân vào cuộc tiến công này, thì địa bàn rừng núi hiểm trở của Việt Bắc, với tinh thần Cách mạng của đồng bào các dân tộc ở căn cứ địa, cũng không có gì đáng ngại.
Chiều mồng 9, anh Thái từ Bắc Cạn trở về. Cũng tối hôm đó, một đơn vị bộ đội báo tin đã gặp anh Trường Chinh ở phía nam Chợ Đồn. Anh Thái cùng với một tiểu đội vệ binh lập tức lên đường đón đồng chí Tổng Bí thư.
Có tin thêm:
Trong ngày 9 tháng 10, một tiểu đoàn quân dù địch đã nhảy xuống chiếm thị xã Cao Bằng.
Ngày 11, một cánh quân địch tiến theo đường số 2 và sông Thao lên Việt Trì, Đoan Hùng, và tới Tuyên Quang vào ngày 13 tháng 10.
Bộ Tổng chỉ huy điện gấp cho Khu 10 tích cực đánh địch trên sông Lô, và ra lệnh cho điều một tiểu đoàn chủ lực của Bộ, tiểu đoàn 42, tiến nhanh về phía Bình Ca kiên quyết bảo vệ cửa ngõ phía tây Việt Bắc, cũng là của An toàn Khu.
Ngày 12, bộ binh Pháp hành quân theo đường số 4, tiến đến thị xã Cao Bằng.
Một điều đặc biệt là từ ngày mở chiến dịch Việt Bắc, đài phát thanh của địch cũng như phương Tây chưa hề đả động tới cuộc hành binh.
Trong tuần lễ đầu, bộ đội ta vẫn thiên về đánh tập trung, vận động từ xa tới, chuẩn bị vội vã, đánh địch không hiệu quả. Pháo binh mấy lần bỏ lỡ cơ hội tiêu diệt tàu địch trên sông Lô, thường là khi ta điều pháo tới nơi thì tàu địch đã đi qua. Dân quân di kích ở một số nơi đã tự động đánh địch nhảy dù và phục kích những nhóm quân địch nhỏ đi tuần.
Quy mô và cường độ cuộc tiến công chứng tỏ đây là một cuộc hành binh chiến lược với quy mô rộng lớn chưa từng có, kẻ địch đang đi tìm một trận đánh quyết định ở ngay căn cứ địa của ta.
Lực lượng của ta tại khu căn cứ lúc này không quá ít, nhưng trừ Trung đoàn Thủ đô và Trung đoàn Lạng Sơn đã được thử thách ít nhiều, tất cả những đơn vị khác đều chưa qua chiến đấu. Những trận tập kích đầu tiên của bộ đội ta vào những nơi quân địch mới chiếm đóng chưa đạt được kết quả nào đáng kể.
Tổng chỉ huy nhận thấy đây chính là lúc phải thực hiện ngay công thức: “Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”.
Anh báo cáo với Bác và Thường vụ:
- Xin Bác và các anh cho thực hiện ngay công thức “Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”. Việc này cần được làm ở tất cả các khu, trước hết là ngay tại Việt Bắc. Đây chính là cái sẽ giúp lực lượng ta thoát khỏi mũi dùi tiến công cực mạnh của quân Pháp, trước mắt là làm chúng mất mục tiêu giữa vùng rừng núi bao la. Chúng sẽ không bao giờ tìm ra cái chúng định tìm. Từ những binh đoàn hùng mạnh chúng sẽ bị phân tán thành những lực lượng nhỏ đóng rải rác giữa núi rừng. Chúng sẽ sa lầy giữa biển lửa của một cuộc chiến tranh nhân dân.
Bác và Thường vụ nhất trí.
Võ Nguyên Giáp trao đổi với Hoàng Văn Thái:
- Tham mưu cần thảo ngay một bản huấn lệnh về “Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung” . Tất cả các trung đoàn đều phải đưa gấp hai phần ba số đại đội về các địa phương làm nòng cốt phát động chiến tranh du kích. Lực lượng còn lại, tổ chức thành những tiểu đoàn chủ lực tác chiến trên chiến trường từng địa phương, trước mắt là tập trung vào những đường giao thông huyết mạch.
Hoàng Văn Thái hỏi:
- Nhưng khi cần lực lượng tập trung lớn thì sao?
- Lúc cần, sẽ tập trung những tiểu đoàn thành những binh đoàn. Nhưng trước mắt không có đánh lớn. Theo ý Bác và Thường vụ, tổ chức, trang bị của bộ đội hiện nay còn yếu kém, không đưa những lực lượng đông của ta để ngăn chặn quân địch. Chính kẻ địch đang mong gặp đông chủ lực ta để đánh những trận quyết định.
Tối 13, cán bộ Phòng 2 mang tới trình Tổng chỉ huy một bản kế hoạch tiến công Việt Bắc của Pháp kèm theo cả bản đồ. Tổng chỉ huy bất ngờ khi nhìn thấy tài liệu vô giá này.
Sáng 9 tháng 10, khi quân Pháp nhảy dù xuống Cao Bằng, đại đội trợ chiến của trung đoàn 74 đã bắn rơi một chiếc Junker – 52 của Pháp. Xác máy bay rơi xuống xã Đề Thám. Trong máy bay, một số sĩ quan tham mưu Pháp chỉ huy chiến dịch Việt Bắc đi thị sát chiến trường đều chết. Lục tìm trong chiếc cặp của một viên sĩ quan, ta thấy có một bản kế hoạch tiến công Việt Bắc. Đây chính là thiếu tá Lambert , đặc phái viên của Bộ chỉ huy quân đội viễn chinh ở miền bắc Đông Dương. Một chiến sĩ liên lạc tên là Nguyễn Danh Lộc, đã chạy bộ xuyên rừng suốt bốn ngày đêm đưa tài liệu này về Bộ Tổng tham mưu.
Kế hoạch tiến công Việt Bắc gồm hai cuộc hành binh lớn, mang mật danh Léa và Cloclo .
Cuộc hành binh thứ nhất lấy tên là Léa , hình thành hai gọng kìm bao vây toàn bộ khu căn cứ địa Việt Bắc, bao gồm 5 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên. Binh đoàn B do Beaufre chỉ huy, xuất phát từ hướng đông, từ Lạng Sơn tiến lên Cao Bằng, rồi vòng xuống hợp vây với cánh quân hướng tây, bắt liên lạc với cánh quân Bắc Cạn. Binh đoàn C do Communal chỉ huy, ở hướng tây, xuất phát từ Hà Nội theo sông Hồng đến Việt Trì, theo sông Lô lên Tuyên Quang, rồi theo sông Gâm tiến lên gặp binh đoàn B. Hợp điểm của hai gọng kìm này sẽ là Đài Thị. Tiếp đó là cuộc hành binh thứ hai lấy tên là Cloclo, quân địch sẽ tập trung càn quét khu tam giác Bắc Cạn – Chợ Chu – Chợ Mới và phía tây đường số 3.
Theo tính toán của cơ quan tham mưu ta, gọng kìm phía tây dài 270km, gọng kìm phía đông dài tới 420km. Bộ chỉ huy Pháp dự tính hai cánh quân sẽ gặp nhau vào ngày 13 ở Đài Thị.
Hôm đó đã là ngày 13. Cả hai cánh quân Pháp đều còn ở khá xa Đài Thị. Cánh phía đông chỉ mới đến gần Hồ Ba Bể, còn phải qua Bản Thi mới tới Đài Thị. Còn cánh quân phía tây mới tới Tuyên Quang, cách Đài Thị khá xa.
Quân địch đã không tính hết trở ngại chúng gặp trên dọc đường. Kế hoạch Léa đã không thực hiện đúng thời gian. Kế hoạch Cloclo do đó sẽ bị chậm lại. Cloclo nhắm vào đúng khu vực căn cứ địa, chính là điểm quyết định của kế hoạch nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não và lực lượng chủ lực của ta.
Sáng 14, cuộc họp Thường vụ của Đảng được triệu tập tại văn phòng Bộ Tổng tham mưu.
Anh Trường Chinh rất vui khi biết chúng ta đã có trong tay toàn bộ kế hoạch tiến công của địch.
Thường vụ nhận thấy đúng là địch đã huy động một lực lượng lớn nhất mà chúng có thể huy động được gồm những đơn vị bộ binh tinh nhuệ, lính dù, cơ giới, pháo binh, công binh, máy bay, tàu chiến vào trận đánh quyết định này. Địch đã tạo được bất ngờ, gây cho ta những thiệt hại về vật chất ở Bắc Cạn, Cao Bằng, Chợ Đồn, Tuyên Quang. Khuyết điểm của chúng ta là không đánh giá thật đúng âm mưu và cách đánh của địch. Chiến tranh du kích tại các địa phương chưa mạnh. Bộ đội chưa đánh được trận nào đáng kể. Việc phá hoại các đường sá và thị xã, thị trấn trong khu căn cứ chưa triệt để. Ở một số nơi dân chúng có phần hoang mang.
Tuy nhiên, địch đã thất bại ngay từ đầu vì chúng lầm tưởng Bắc Cạn là trung tâm hành chính đầu não của cuộc kháng chiến. Khi bắt được cụ Nguyễn Văn Tố ở thị xã Bắc Cạn, binh lính Pháp tưởng lầm là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã vội vàng báo cáo với Bộ Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh. Cuộc tiến công của địch không cùng diễn ra một lúc, nên trừ Bắc Cạn bị bất ngờ, ở những nơi khác ta đều ít nhiều đã có đề phòng. Lực lượng địch bị rải ra trên một chiến trường quá rộng, lại là chiến trường rừng núi, tiếp tế khó khăn, các phương tiện kỹ thuật khó phát huy sức mạnh, đã bộc lộ nhiều sơ hở. Hai gọng kìm của địch quá dài khó thực hiện được việc bao vây cả một vùng căn cứ rộng lớn, và trải dài theo trục đường, trục sông rất dễ bẻ gãy. Nhưng một điều cần đề phòng là kế hoạch Cloclo, những mũi dùi lùng sục của địch trên bản đồ đều nhằm vào khu căn cứ của ta.
Tổng chỉ huy quyết định:
1. Phân tán hai phần ba bộ đội chủ lực, đưa các đại đội về địa phương cùng với dân quân du kích phát động chiến tranh du kích rộng rãi, bao vây và tiêu hao quân địch ở những nơi chúng mới đặt chân tới.
2. Bố trí các trung đoàn và tiểu đoàn ở những địa bàn hiểm yếu, trước hết là dọc đường số 4, dọc đường số 2, ven sông Lô và đường số 3, sẵn sàng tập kích, từng bước làm tê liệt và bẻ gãy hai gọng kìm chủ yếu của địch.
3. Cơ quan chỉ huy chia thành hai bộ phận: bộ phận nặng ở lại khu căn cứ đi sâu vào phía núi, bộ phận nhẹ chuyển ra ngoài khu vực bị uy hiếp, vừa chỉ đạo các chiến trường toàn quốc, vừa chỉ đạo ba mặt trận ở Việt Bắc. Tổng chỉ huy phụ trách bộ phận chỉ huy nhẹ trực tiếp chỉ huy Mặt trận đường số 4. Tổng tham mưu trưởng phụ trách Mặt trận đường số 3. Các anh Trần Tử Bình, Lê Thiết Hùng đi Mặt trận sông Lô. Cục trưởng Cục Chính trị Văn Tiến Dũng phụ trách bộ phận nặng ở lại khu căn cứ.
Ngày 15 tháng 10, Thường vụ Trung ương ra bản chỉ thị: “Phải phá cuộc tiến công mùa Đông của giặc Pháp” . Cùng ngày, Bộ Tổng chỉ huy ra Huấn lệnh ĐB/101, nêu những nguyên tắc mới về tổ chức bộ đội và bố trí lực lượng, về nhiệm vụ của các đại đội độc lập và tiểu đoàn tập trung: “Cuộc tiến công Việt Bắc lần này, địch hành binh táo bạo bằng quân nhảy dù chiếm đóng ngay hậu phương ta làm tình hình chiến sự thay đổi. Về chiến lược hiện nay không có gì phân biệt tiền phương với hậu phương…Vì sự cần thiết phát động chiến tranh du kích rộng rãi nên kế hoạch bố trí và tác chiến phải thích hợp với tình thế. Thực hiện ngay việc lấy đại đội làm đơn vị bố trí trên các chiến trường địa phương…Bộ đội chủ lực thì đặt ở những nơi cơ động gần các mặt trận hoặc trên đường giao thông quan trọng và nguyên tắc là nên tập trung từng tiểu đoàn phụ trách từng khu vực một” .
Nhiệm vụ của đại đội độc lập là: “Quấy rối tiêu diệt từng bộ phận nhỏ của địch, đôn đốc phá hoại trong địa phương, giúp đỡ vũ trang tuyên truyền và phối hợp tác chiến với dân quân trong địa phương mình khi địch đến. Phối hợp với bộ đội lưu động đánh những trận lớn” . Nhiệm vụ của các tiểu đoàn tập trung là: “Phối hợp với các đại đội độc lập và du kích địa phương tiêu diệt địch ở những vị trí lẻ hay khi đang vận động trên đường giao thông” .
Ngày 16 tháng 10, Tổng chỉ huy ký mệnh lệnh gửi Khu 1: “Tất cả các trung đoàn của Khu chỉ giữ lại bộ phận chỉ huy trung đoàn và một tiểu đoàn, các tiểu đoàn khác thì giải thể thành đại đội, đưa các đại đội về các huyện được chỉ ra trong mệnh lệnh” . Cuối lệnh ghi rõ: “Mệnh lệnh phải được thi hành xong trước ngày 16 tháng 11 năm 1947 và báo cáo kết quả về Bộ” .
Từ ngày 13, các đài phát thanh của địch mới bắt đầu loan tin quân đội Pháp đánh chiếm Cao Bằng, Bắc Cạn cùng với hàng loạt vị trí khác ở Việt Bắc. Cuộc tiến công đang diễn ra là nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc điều đình với Bảo Đại. Chúng tuyên truyền rầm rĩ về thắng lợi trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Ngày 15, hai tiểu đoàn chủ lực của Bộ có một khẩu pháo phối hợp tiến công vào 200 quân địch đóng tại Chợ Mới. Ta chỉ làm tiêu hao quân địch.
Ngày 17 tháng 10, Salan gửi báo cáo cho Bộ Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp: “Con đường tiếp tế chính nối liền Việt Minh với Trung Quốc qua Cao Bằng đã bị cắt đứt. Sự tan rã của căn cứ quốc gia Việt Minh bắt đầu nghiêm trọng trong khu vực đông – bắc (Bắc Cạn, Chợ Mới, Chợ Đồn)…Quân Pháp đang ở thế tiếp tục càn quét mạnh và làm tan rã căn cứ…Không nghi ngờ gì nữa, kết quả đòn đánh mãnh liệt và trực tiếp đã gây nên hậu quả đáng kể đối với tiềm lực và tinh thần đối phương”.
Hai tuần sau khi quân Pháp nhảy dù xuống Việt Bắc, những hoạt động chiến đấu của ta tăng lên đáng kể.
Ngày 21, trên mặt trận đường số 3, một tiểu đoàn của Trung đoàn Thủ đô tiến công một đại đội địch đóng ở Chợ Đồn. Ta liên tiếp đánh 17 trận phục kích nhỏ trên đường Phủ Thông – Bắc Cạn, Chợ Mới – Bắc Cạn, làm cho quân địch thấy bắt đầu gặp sự chống trả, không dám sục ra ngoài thị xã và những vị trí đóng quân. Máy bay phải thả dù tiếp tế xuống Bắc Cạn. Ở Tuyên Quang, một tiểu đoàn chủ lực của Trung đoàn Hà Tuyên bám sát cánh quân của Communal liên tiếp tập kích địch, khiến chúng phải tiến quân dè dặt, ngày 20 mới tới Đầm Hồng và phải dừng lại chờ có thêm lực lượng. Ngày 22, tự vệ thị xã Tuyên Quang dùng địa lôi do ta chế tạo, đánh một trận ở km7 trên đường số 2, diệt và làm thương gần một trăm quân địch. Một tiểu đoàn quân Pháp đang tiến lên Chiêm Hóa buộc phải quay trở lại.
Ngày 25, trên đường từ Đình Cả đi Bình Gia, bộ phận chỉ huy nhẹ của Tổng chỉ huy đang ngồi nghỉ chân ở gần Bắc Sơn thì một cán bộ tác chiến đến báo cáo:
- Báo cáo Tổng chỉ huy, có tin chiến thắng lớn trên mặt trận sông Lô.
Đồng chí cán bộ tác chiến báo cáo tiếp, trưa nay pháo binh ta đã bắn chìm hai tàu chiến địch tại Đoan Hùng và bắn trọng thương hai chiếc khác.
- Nhắc lại! – Tổng chỉ huy nói.
- 12 giờ trưa nay, một đoàn tàu địch năm chiếc từ Tuyên Quang đi xuống lọt vào trận địa phục kích của hai trung đội pháo binh ta, anh em bắn chìm tại chỗ hai chiếc, toàn bộ quân địch chết đuối, bắn hỏng nặng hai chiếc khác, chỉ có một chiếc quay đầu rất chậm trở về Tuyên Quang.
- Đánh bằng cách nào? Sao những lần trước bắn ít trúng mà trúng cũng không chìm?
- Báo cáo anh, những lần trước, anh em s?