Chương VI QUÂN TIÊN PHONG
❖ 1 ❖
Cùng với cuộc tiến công chiến lược vào Việt Bắc, trong năm 1948, quân Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng trên phần lớn đất nước ta. Tại miền Nam, chúng đã làm chủ hầu hết các thành phố thị trấn. Ở miền Trung, ta chỉ còn giữ được 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và 4 tỉnh tự do ở Liên khu 5: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Trên Miền Bắc địch chiếm hầu hết đồng bằng Bắc Bộ phần lớn khu Tây Bắc ra tới Lào Cai Nghĩa Lộ. Tại Việt Bắc địch chiếm thêm Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn uy hiếp khu căn cứ địa Việt Bắc của ta ở cả hai sườn.
Làm thất bại cuộc tiến công chiến lược của địch vào căn cứ địa Việt Bắc, một cuộc tiến công nhằm kết thúc chiến tranh, ta đã đưa cuộc kháng chiến sang một tình hình mới.
Thất bại lớn nhất của địch là đã không tìm được một trận giao chiến tập trung với bộ đội chủ lực ta. Những trận đánh của ta chỉ nhằm vào những nhược điểm không thể khắc phục được của địch, đó là những chuyến xe vận chuyển trên đường đèo, dốc hiểm trở, những chiếc tàu vận chuyển trên sông hẹp ở rừng núi, những nơi địch mới đến trú quân, những toán quân địch nhỏ đi tuần tiễu. Những trận đánh diễn ra chớp nhoáng, kết thúc trước khi địch có những hành động đối phó. Tất cả những nơi địch mới chiếm đóng, hầu như bị bao vây bằng biển lửa của chiến tranh nhân dân. Đường tiếp tế trên bộ, trên sông nhiều thời gian bị cắt đứt. Nhiều thị xã, thị trấn phải tiếp tế bằng máy bay. Giai đoạn hai của cuộc hành binh tiến công chiến lược là Cloclo ở trong kế hoạch đã không diễn ra, thay vào đó là cuộc hành binh mang tên bí danh “ Ceinture ”. Cuộc hành binh này có nhiệm vụ giống như Cloclo trước đây, tức là tiến công vào khu căn cứ địa của ta, nhưng thực tế là đánh những đòn nghi binh nhằm trốn chạy khỏi Việt Bắc. Tuy vậy, chúng vẫn cho quân đóng lại Cao Bằng, Bắc Cạn, đóng nhiều bốt dọc đường số 4, đường số 3 để đảm bảo con đường tiếp tế cho những đồn binh bị bao vậy.
Ngày 15 tháng một năm 1948 Trung ương triệu tập hội nghị mở rộng tại Việt Bắc.
Tình hình quốc tế có những biến chuyển mới. Nhiều nước Tây Âu trong đó có Pháp, đã chấp thuận kế hoạch kinh tế Marshall của Mỹ. Sau khi gạt được những nghị sĩ cộng sản ra khỏi chính phủ, giới cầm quyền Pháp tiếp tục lao sâu vào con đường tiếp tục chiến tranh duy trì thuộc địa. Cuộc đấu tranh giành độc lập của nhiều dân tộc vẫn diễn ra sôi nổi đặc biệt ở Mađagaxca và Indonexia. Hồng quân Trung Hoa đang mở những trận phản công lớn.
Với chiến thắng Việt Bắc và sự phát triển chiến tranh trên cả nước, đặc biệt là tại Nam Bộ, Thường vụ Trung ương nhận định: “ Lực lượng so sánh giữa ta và địch đã biến chuyển. Nếu ta tịch cực và mau lẹ phát triển ưu điểm, sửa chữa nhược điểm thì chiến dịch Việt Bắc sẽ là một cái đà cho phép ta nhảy sang giai đoạn hai của cuộc kháng chiến lâu dài”.
Bác bàn với Trung ương nhân dịp này để động viên tinh thần bộ đội, đánh dấu sự trưởng thành của lực lượng vũ trang, cần thành lập Bộ Tổng tư lệnh quân đội quốc gia Việt Nam, phong quân hàm và tặng huân chương cho những người đã lập chiến công. Ngày 20 tháng một năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh phong quân hàm cho một số cán bộ lãnh đạo chỉ huy quân đội. Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp được phong quân hàm Đại Tướng. Việc phong quân hàm chỉ mới tiến hành cho những cán bộ chủ chốt, chưa thực hiện tới toàn quân. Ngày 28 tháng 5, lễ phong quân hàm được tổ chức tại khu căn cứ. Một hội trường mới dựng bằng nứa lá bên dòng suối lớn, cạnh sườn núi dưới tán cây rừng. Phía trong đặt bàn thờ Tổ quốc, trên treo cờ đỏ sao vàng ở bàn đặt lọ hoa cắm chùm hoa núi.
Sau buổi lễ, mọi người ngồi quây quần quanh Bác, có cụ Bùi Bằng Đoàn – trưởng ban thường trực Quốc hội và các thành viên Chính phủ. Bác nói:”Việc phong tướng cho chú Giáp và các chú hôm nay là kết quả biết bao hy sinh chiến đấu của đồng bào, đồng chí… Các thế hệ đi trước chiến đấu cho độc lập mà sự nghiệp không thành, nhắm mắt vẫn còn chưa thấy độc lập, tự do. Chúng ta ngày nay may mắn hơn, những trước mắt vẫn còn nhiều khó khăn. Nghĩ tới hàng nghìn, hàng vạn người đã ngã xuống ngày hôm nay, chúng ta càng phải cố gắng giành cho được độc lập, tự do để thỏa mãn vong linh người đã khuất ”.
Trong sách Trì Cửu Chiến của Mao Trach Đông, viết cuộc trường kỳ kháng chiến của nhân dân Trung Hoa gồm 3 giai đoạn. Giai đoạn đầu là gia đoạn phòng ngự, khi lực lượng ta còn yếu thì chủ yếu dùng cách đánh phòng ngự bảo tồn và xây dựng lực lượng. Giai đoạn 2, khi lực lượng ta đã phát triển gần bằng địch thì dùng cách đánh cầm cự để làm lực lượng địch suy yếu phát triển lực lượng ta. Giai đoạn 3, khi lực lượng ta đã lớn mạnh lực lượng địch suy yếu thì tiến hành tổng tiến công để tiêu diệt địch giành chiến thắng. Dự đoán này hoàn toàn chính xác vì cách mạng Trung Quốc về cơ bản là một cuộc nội chiến, Quốc dân Đảng Trung Hoa được sự hỗ trợ của Mỹ nhưng không lớn.
Thời gian đầu kháng chiến ta cũng nghĩ cuộc kháng chiến của Việt Nam sẽ phát triển qua 3 gia đoạn như của Trung Hoa. Nhưng trong thực tế, tình hình cách mạng Việt Nam rất khác với cách mạng Trung Hoa. Việt Nam vốn là thuộc địa của Pháp, được Đảng cộng sản lãnh đạo tiến hành tổng khởi nghĩa giành lại chính quyền từ tay phát xít Nhật. Sau khi chủ nghĩa phát xít thua trận Pháp được các nước Đồng minh Anh, Mỹ khuyến khích trở về giành lại thuộc địa cũ đã rơi vào tay chính quyền cộng sản. Cuộc kháng chiến của ta đã trở thành một điểm nóng trong chiến tranh lạnh giữa Đông và Tây với vai trò chủ đạo của Mỹ.
Nước Pháp bị tàn phá trong cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai vốn không đủ sức kéo dài một cuộc chiến tranh xâm lược, nhưng được Mỹ giúp đỡ với hi vọng chiếm được một đầu cầu đe dọa nước Trung Hoa Cộng sản.
Nếu cuộc chiến ở Trung Quốc diễn ra theo quy luật lực lượng cách mạng ngày càng mạnh thì giai cấp thống trị ngày càng suy yếu, thì ở Việt Nam, lực lượng kháng chiến ngày càng lớn mạnh, giành được thắng lợi ngày càng lớn, thì quân xâm lược tuy gặp khó khăn nhưng vẫn phát triển lớn mạnh hơn ta gấp nhiều lần và vẫn nuôi hi vọng giành một chiến tháng cuối cùng nếu ta mắc một sai lầm trong chỉ đạo chiến tranh. Có thể nói đặc điểm cuộc kháng chiến của ta là phải chiến đấu với một kẻ thù càng đánh càng được tăng cường sức mạnh về vũ khí trang bị cũng như quân số, lúc nào cũng nhiều lần mạnh hơn ta.
Cuộc kháng chiến giải phóng Tổ quốc của ta diễn ra theo phương thức của một cuộc chiến toàn dân. Chiến sĩ của ta là những người dân giác ngộ nghĩa vụ đối với dân tộc, được Đảng tổ chức lại, cầm vũ khí chiến đấu, không chỉ nhất nhất theo mệnh lệnh của người chỉ huy, mà chính mình còn tìm ra cách đánh địch để góp phần cùng đồng chí, đồng đội giành chiến thắng.
Cuộc chiến tranh của ta không qua giai đoạn phòng ngự, thường thể hiện bằng những cuộc rút lui lớn vào nội địa để tránh những cuộc truy diệt của kẻ thù. Đặc điểm chiến tranh Việt Nam là không gian rất hẹp, khi cuộc kháng chiến bắt đầu, kẻ thù đã có mặt trên toàn bộ đất nước, ta không có những vùng đất an toàn để rút lui, mà phải khởi đầu bằng cách triển khai lực lượng tổ chức một cuộc chiến tranh toàn dân, nhằm đánh bại chiến lược đánh nhanh của kẻ thù. Đây chính là điều Đảng ta đã làm cuối năm 1948 với việc phân tán hai phần ba bộ đội thành những đại đội độc lập đưa về vùng tạm chiến, về vùng có chiến sự phát động chiến tranh nhân dân. Bộ đội chủ lực của ta không chấp nhận những trận đánh lớn đối đầu với địch, mà chia thành nhiều tiểu đoàn tiến hành vô vàn những trận đánh nhỏ với quân địch, tự trang bị vũ khí đạn dược, tự rèn luyện. Đặc điểm chiến tranh du kích của ta chính là đánh tại chỗ, cùng xoay vần với quân địch tại chỗ. Cuối năm 1947, triển khai Huấn lệnh đặc biệt 101, chính là ta bắt đầu triển khai xây dựng một mặt trận chiến tranh toàn dân theo công thức “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”.
Có thể nói, trong năm 1948, 1949, ta đã triển khai xong một mặt trận chiến tranh toàn dân vô cùng rộng lớn, đưa quân địch vào một cuộc chiến khác hẳn với quá khứ, đó là cuộc chiến tranh không có mặt trận nhưng mặt trận có mặt ở khắp nơi. Người chiến sĩ gần như biến mất, vì họ đã thay đổi quân phục bằng bộ quần áo tiện y của người nông dân, nói như Claodovít: họ là những đám mây bất thần tụ lại thành tiếng sét giáng xuống đầu quân địch. Tiếng sét tan, nhưng đe dọa vẫn còn, vì mặt trận vẫn tồn tại. Kẻ thù buộc phải căng mình ra khắp nơi đối phó với một cuộc chiến tranh nhỏ vô hình. Ta cuốn hút chúng vào những cuộc hành quân bình định, bảo vệ giao thông bảo vệ những đồn bốt nhỏ lẻ, đẩy chúng vào thế mất quyền chủ động trên chiến trường chính miền Bắc, không thể tiếp tục mở một cuộc tiến công chiến lược thứ hai vào căn cứ địa của kháng chiến.
Với việc triển khai trận địa chiến tranh toàn dân rộng khắp và vững chắc, ta tin là sẽ loại trừ vĩnh viễn cái gọi là “đánh nhanh thắng nhanh” của kẻ địch.
Giữa những ngày đầu năm 1948, khi kẻ thù đã chiếm một phần rộng lớn đất nước ta, kìm chặt chúng ta trong vòng vây, chính là lúc Bác đã nhìn thấy những gì hai năm trước chỉ mới là ước mơ nay đã trở thành hiện thực. Cuộc kháng chiến đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất, Đảng ta đã tự mình mở ra con đường giành lại độc lập cho đất nước.
❖ 2 ❖D’Argenlieu đã ra đi sau khi mở rộng chiến tranh trên toàn bán đảo Đông Dương. Sau thất bại Việt Bắc đến lượt Valluy ra đi. Năm 1948, Pháp phải rút hai vạn quân mượn tạm của Bắc Phi cho cuộc tiến công Việt Bắc, Salan xin tăng quân không được đã phát biểu những lời khiếm nhã với Paris, bị gọi về và thay bằng tướng Bléjot.
Ta nhận thấy mùa khô này, địch chưa thể mở tiếp một trận tiến công lớn nên chủ trương giành quyền chủ động bằng cách mở một chiến dịch nhỏ ở vùng địch hậu mà địch vẫn cho là hậu phương an toàn. Đây cũng là cách rèn luyện bộ đội chủ lực ta. Lực lượng sử dụng là hai tiểu đoàn chủ lực của Bộ: Tiểu đoàn 29 và Tiểu đoàn 18. Hai tiểu đoàn này đã lập được chiến công trong chiến dịch Việt Bắc.
Mục tiêu của chiến dịch là phân khu An Châu của địch nằm trên đường 13 thuộc Quảng Ninh.
Mồng 2 tháng 9 năm 1948, tỉnh Vĩnh Yên mở một cuộc mít tinh lớn trên đồi Me thuộc huyện Lập Thạch. Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn và hai tiểu đoàn sắp đi chiến dịch mở một cuộc duyệt binh. Giữa đêm hôm đó, dưới ánh trăng trong và gió mát mùa thu, cả hai tiểu đoàn lặng lẽ rời vùng đồi cọ Lập Thạch. Trang bị của bộ đội lúc này là những bộ quần áo tiện y mỏng mạnh, những chiến sĩ xung kích phần lớn còn mang mác búp đa.
Phân khu An Châu gồm hai đồn: đồn thấp và đồn cao. Khu doanh trại nằm trong hàng rào lông nhím. Địch đề phòng ta tiến công bằng cách đặt những thùng dầu ở giáp hàng rào. Khi ta nổ súng cho xung kích bắc thang cầm mác vượt qua hàng rào lông nhím thì những thùng dầu bốc cháy từng chiến sĩ xung kích đang vượt rào trở thành mục tiêu cho quân địch trong đồn. Người trc ngã ng sau tiếp tục tiến lên. Nhiều người nằm lại trên hàng rào. Cuối cùng các chiến sĩ xung kích của hai đại đội Tô Văn và Bình Ca vẫn vượt qua hàng rào chiếm được con đường dẫn lên đồn cao chỉ với cây mác búp đã trong tay. Trời sang quân ta phải rút lui. Nhưng đêm đó, ta đã hạ được đồn Đồng Dương và ít ngày sau đó hạ tiếp đồn Đồng Khuy hoàn thành nhiệm vụ chiến dịch.
Từ khi Huấn lệnh đặc biệt 101 được triển khai, một mặt trận chiến tranh toàn dân bắt đầu xuất hiện trên cả nước, đưa cuộc kháng chiến của ta mặc dù còn gặp muôn vàn khó khăn, nhưng đã ở vào thế vững như bàn thạch.
Năm 1948 là năm đầu tiên ta giành được quyền chủ động tại một hướng trên chiến trường Bắc Bộ.
Cuối năm 1948, tình hình quốc tế và Đông Dương có nhiều biến chuyển bất lợi cho Pháp. Quân Giải phóng Trung Quốc liên tiếp giành thắng lợi qua các chiến dịch Liêu Thẩm, Bình Tân, Hoài Hải, đang chuẩn bị vượt sông Dương Tử. Ở Hoa Nam, giáp biên giới nước ta, phong trào du kích nổi lên khá mạnh chuẩn bị đón quân giải phóng Nam Hạ. thực dân Pháp ở Đông Dương cũng như cầm quyền Pháp ở chính quốc rất lo lắng trước tình hình biến chuyển trên lục địa Trung Hoa. Cuộc kháng chiến đã thực sự bước sang giai đoạn mới. Tuy cuối 1948, địch đã được tăng 16 vạn quân, nhưng tỷ lệ quân Ngụy chiếm 46%, địch vẫn thiếu quân nghiêm trọng. Chiến tranh du kích phát triển rộng khắp ở vùng sau lưng địch, khiến cho quân Pháp không thể tập trung lực lượng để mở những cuộc tiến công mới. Quân Giải Phóng Trung Hoa với đà tiến như hiện nay, không bao lâu sẽ tới sát biên giới nước ta, tạo những thuận lợi mới cho cuộc kháng chiến của ta. Nếu thất bại ở lục địa Trung Hoa, chắc chắn Mỹ sẽ tăng cường giúp Pháp để giữ Đông dương gây những khó khăn rất lớn cho ta. Bác đề ra trong thường vụ: cần nêu lên chuẩn bị về mọi mặt để chuyển sang tổng phản công. Có hai ý kiến: cần đặt vấn đề hiện nay là tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công ( chưa phải là tổng phản công). Lực lượng của ta trên các chiến trường phát triển không đều, nên cần tập trung lực lượng tiến hành những trận phản công trên chiến trường Bắc Bộ, trong khi các chiến trường khác ra sức kiềm chế quân địch. Bác kết luận: ”Cần đề ra nhiệm vụ tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản công để động viên sự nỗ lực vượt bậc của quân và dân cả nước sẵn sàng khai thác triệt để những thuận lợi khi thời cơ mới xuất hiện”.
Đầu năm1949, Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 16 họp từ ngày 14 đến 18 tháng 1 năm1949. Tổng Bí thư Trường Chinh điểm tình hình kháng chiến năm qua và đề ra nghị quyết về nhiệm vụ quân sự năm 1949, phương châm chiến lược và những công tác quân sự cần kíp tích cực chuẩn bị tổng phản công.
Bí thư Tổng quân ủy Võ Nguyên Giáp đọc một bản báo cáo về quân sự, khẳng định sau chiến dịch Việt Bắc, cuộc kháng chiến đã bước sang một giai đoạn mới: “Đặc điểm chiến trường một năm qua cho thấy một hiện tượng nổi bật. Đó là phần lớn các cuộc hành binh của địch chỉ diễn ra trong vùng chúng kiểm soát, địch không mở một cuộc tiến công nào có ý nghĩa chiến lược quan trọng vào vùng tự do của ta, trong khi đó thì chúng ta đã đẩy chiến tranh du kích phát triển trong vùng sâu do địch kiểm soát, biến tiền phương của địch thành vùng tiền phương của ta. Đó là thành công lớn nhất của ta trong năm 1948. Do thắng lợi của ta trong năm 1948, do tình hình quốc tế thay đổi, (khó khăn nhiều mặt của Pháp, thắng lợi của cách mạng Trung Hoa…) giai đoạn mới của cuộc kháng chiến còn gay go nhưng rất có thể rút ngắn lại. Và ngay bây giờ, trong chiến lược “cầm cự”, nhiệm vụ chuẩn bị tổng phản công cần sớm đề ra…”
Hội nghị ra nghị quyết: Phương châm chiến lược trong giai đoạn mới lấy du kích chiến là căn bản, vận động chiến là phù trợ nhưng cần mạnh bạo đẩy mạnh vận động chiến tiến tới và khi có điều kiện thì kịp thời nâng vận động chiến lên vị trí quan trọng để tiến sang giai đoạn phản công. Nỗ lực thực hiện phương châm của giai đoạn mới là: Đánh mạnh hơn nữa vào hậu phương địch, đánh vào các vị trí chiến lược, cắt các đường giao thông quan trọng. Hướng hoạt động chính là những vùng chiến lược và kinh tế quan trọng mà địch đang ra sức củng cố. Vận động và đánh tan khối ngụy quân, gây cơ sở ở những vùng Pháp đang vơ vét nhân lực để phát triển khối ngụy quân.
Để thực hiện nhiệm vụ, vấn đề quan trọng nhất cần giải quyết hết sức khẩn trương là xây dựng lực lượng. Ta phải nhanh chóng xây dựng một số đại đoàn chủ lực của Bộ, đưa những tiểu đoàn tập trung ở rải rác các nơi trở về đội hình các trung đoàn, và có kế hoạch rút dần những đại đội đã đưa về các địa phương để phát động du kích chiến tranh. Đề nghị với Ban Thường vụ Trung ương ra chỉ thị xây dựng bộ đội địa phương và dân quân du kích để duy trì và đẩy mạnh phong trào chiến tranh nhân dân địa phương.
Tại miền Bắc, trong 1949, ta chủ trương mở một số chiến dịch với quy mô lớn hơn năm trước với hai hướng chính là Cao-Bắc-Lạng và Đông Bắc. Chiến dịch Cao-Bắc-Lạng có nhiệm vụ làm tê liệt đường số 4, buộc địch phải rút khỏi Bắc Cạn. Chiến dịch Đông Bắc mang tính phối hợp có nhiệm vụ kiềm chế và đánh quân tiếp viện, nghi binh đánh lạc hướng phán đoán của địch.
Ở hướng chính Cao-Bắc-Lạng, đêm 15 tháng 3, ta tiến công tiêu diệt Bản Trại, một vị trí kiên cố do một đại đội Âu Phi chiếm đóng. Trong trận Bản Trại, rút kinh nghiệm các trận Phủ Thông, An Châu lần này chính ta chủ động dùng khăn tẩm dầu dắt vào hàng rào, đốt sáng soi rõ cho pháo và các loại súng của ta bắn vào mục tiêu. Pháo thủ của ta bắn trúng từng lỗ châu mai khiến quân địch không thể ngóc đầu lên trong khi xung kích xông lên vượt qua cửa mở. Trận đánh chỉ diễn ra trong 37 phút. Toàn bộ quân địch bị tiêu diệt. Bộ đội ta đã tiến bộ vượt bậc trong chiến đấu công kiên.
Cuối tháng 4, bộ đội ta đánh trận Bông Lau – Lũng Phầy tiêu diệt một đoàn xe trên một trăm chiếc, hơn 500 quân địch phần lớn là Âu Phi bị chết hoặc bị bắt. Ta thu 500 thùng xăng và hàng trăm súng các loại.
Đầu tháng 4, Bộ Tổng tư lệnh ra lệnh mở chiến dịch Sông Thao. Những đơn vị tham chiến hành quân tới Yên Bái thì có tin bộ chỉ huy Pháp vừa mở cuộc hành binh lên Phú Thọ rồi Tuyên Quang. Rõ ràng địch muốn phá vỡ kế hoạch của ta để cứu nguy cho Tây Bắc. Có hai ý kiến: Một là, cứ tiếp tục chiến dịch Sông Thao. Hai là, cho quân quay về tiêu diệt quân địch vừa tiến lên Tuyên Quang. Tổng chỉ huy ra lệnh cho bộ đội tăng tốc độ hành quân lên Tây Bắc, nhanh chóng mở chiến dịch theo kế hoạch đã định, một mặt điều lực lượng hình thành một mặt trận trên Sông Lô, đánh vào đường tiếp tế trên bộ, trên sông của địch, và đánh địch ngoài công sự khi chúng từ Tuyên Quang rút lui. Lần đầu tiên ta huy động một lực lượng đông tới 6 tiểu đoàn.
Chiến dịch Sông Thao kết thúc thắng lợi ta tiêu diệt và bức rút 30 vị trí dọc phòng tuyến. Tiếng súng nổ trên phòng tuyến Sông Thao buộc địch ở Tuyên Quang phải vội vã rút lui. Chủ yếu vì ta thiếu phương tiện thông tin vô tuyến nên trận đánh quyết định dọc sông Lô đã không kịp diễn ra khi địch rút lui.
Ngày 9 tháng 8, địch rút quân khỏi thị xã Bắc Cạn, sau đó tiếp tục rút một số vị trí khác ở Cao bằng.
Cả mùa khô năm 1949, chỉ với những chiến dịch vận động đánh nhỏ trên phòng tuyến sông Thao của địch ở Tây Bắc và đường số 4 ở Đông Bắc, ta đã khiến địch không chủ động mở được chiến dịch nào, mà chỉ điều động quân đối phó bị động với những cuộc tiến công của ta. Những trận tiêu diệt đồn địch một đại đội đã trở thành phổ biến với các tiểu đoàn chủ lực của Bộ và một số liên khu.
Nhiều nơi ở địch hậu, nhân dân đã lập làng kháng, hiên ngang đương đầu thắng lợi với nhiều cuộc tiến công càn quét của địch.
Từ đầu kháng chiến toàn quốc, chúng ta đã có quan hệ mật thiết với Nam lộ của Bát lộ quân Trung Quốc và Bộ tư lệnh Biên khu Điền Quế ở Hoa Nam.
Đầu năm 1948, đồng chí Trang Điền được chỉ thị của đồng chí Chu Ân Lai sang Việt Bắc gặp các đồng chí lãnh đạo của ta. Bạn thông báo với Bác và Thường vụ: quân Tưởng tăng cường càn quét những lực lượng vũ trang cách mạng ở Hoa Nam để củng cố hậu phương. Những đơn vị du kích của bạn ở vùng biên giới đang gặp khó khăn và thiếu lương thực. Bác và thường vụ bàn với phái viên của bạn về sự phối hợp chiến đấu, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai quân đội cách mạng. Tháng 4 năm 1949, lãnh đạo phong trào du kích ở Quảng Tây giáp biên giới Đông Bắc nước ta, đề nghị quân đội Việt Nam phối hợp chiến đấu đánh quân Tưởng để giải phóng khu Ung-Long-Khâm liền với biên giới Đông Bắc của ta, và khu Việt-Quế của bạn. Bộ chỉ huy chiến dịch lấy danh hiệu là: Bộ tư lệnh khu Thập Vạn Đại Sơn do đồng chí Lê Quảng Ba, phó tư lệnh Liên khu một là Tư lệnh chiến dịch; đồng chí Trần Minh Giang cán bộ của bạn là Chính trị ủy viên. Chiến dịch chia làm hai mặt trận: Mặt trận Điền Quế do đồng chí Nam Long làm Chỉ huy trưởng; đồng chí Hoàng Bình, cán bộ của bạn, làm chỉ huy phó. Mặt trận Long Châu do đồng chí Thanh Phong làm Chỉ huy trưởng và đồng chí Long Xuyên của bạn làm chỉ huy phó.
Ngày 12 tháng 6, mặt trận Long Châu nổ súng diệt vị trí Thủy Khẩu và Hạ Đống, trong khi hướng phối hợp tiến công từ Bằng Tường đánh xuống Nam Quan. Quân Tưởng co lại biến Long Châu thành một cụm cứ điểm mạnh. Bộ chỉ huy cho bộ đội chuyển sang vây hãm Long Châu, đánh viện, chặn đường tiếp tế, tiến công Ninh Minh, Thượng Kim, giúp bạn mở rộng và củng cố vùng mới giải phóng quanh Long Châu.
Hướng Điền Quế và Thập Vạn Đại Sơn quân Tưởng phát hiện bộ đội ta tiến quân, rút bỏ nhiều vị trí, co về các thị trấn lớn như Nà Lường, Phòng Thành, Đông Hưng. Bộ đội ta phối hợp với bạn chiến đấu tiêu diệt hơn một trung đoàn địch, bức địch rút 10 trên 12 vị trí ở huyện Phòng Thành làm cho các khu căn cứ nối liền một dải, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của quân địch ở Khâm Châu.
Tháng 10 năm 1949, khi lực lượng vũ trang của bạn ở hai Biên khu Điền Quế và Việt Quế đã liên lạc được với Quân Giải phóng Nam Hạ, bộ đội ta được lệnh rút về nước và trao lại cho bạn những vũ khí ta thu được của quân Tưởng.
❖ 3 ❖Cuộc chiến tranh với chiến lược “ đánh nhanh, thắng nhanh” đã kéo dài bốn năm vượt ra khỏi ý muốn của Pháp.
Những người cầm đầu đội quân viễn chinh ở Đông Dương bắt đầu có những ý kiến trái ngược nhau về cách điều hành chiến tranh. Tổng chỉ huy Blézot, chủ trương chiếm đóng và giữ Bắc Bộ bằng bất cứ giá nào. Cao ủy Pignon lai muốn dồn nỗ lực quân sự cao nhất vào Nam Bộ, tập trung lực lượng để giữ và làm chủ Nam Bộ.
Tháng 3 năm 1949, tổng thống Pháp Vincent Auriol ký với Bảo Đại hiệp ước Élysée, công nhận Việt Nam “ độc lập”, nhưng quyền chỉ huy quân sự, điều hành ngoại gia, kinh tế, tài chính vẫn nằm trong tay Pháp. Với hiệp ước này, Pháp tiến thêm một bước trong âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”.
Tháng 5 năm 1949, trong tình thế bị động, chính phủ Pháp cử đại tướng Revers, tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp, cầm đầu một phái đoàn sang Đông Dương để nghiên cứu tình hình và vạch ra kế hoạch đối phó. Trong phái đoàn còn có cả Valluy, người đã mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương, lúc này đã lên cấp đại tướng.
Revers ở Việt Nam hơn một tháng, đi tới một nhận định tổng quát chiến thắng của Quân Giải phóng Trung Quốc đã làm thay đổi cán cân lực lượng ở Viễn Đông, tạo ra một tình hình nghiêm trọng cho quân đội Pháp. Hiện nay không thể có một giải pháp quân sự và cũng không còn hi vọng lật lại tình thế để đặt những điều kiện có lợi trong một cuộc triều đình. Revers thấy cần xác định cụ thể đường lối chính trị và chiến lược quân sự của Pháp ở Đông Dương. Revers coi Bắc Bộ là chiến trường chính, chủ trương tăng quân cho Bắc Bộ, mở rộng phạm vi chiếm đóng ở trung du và đồng Bắc Bộ, tăng cường phòng thủ khu tứ giác Lạng Sơn – Tiên Yên – Hải Phòng – Hà Nội; gấp rút củng cố tuyến biên giới, nhưng do lực lượng bạn có hạn nên chủ trương phòng thủ có trọng điểm, cụ thể là tập trung sức để giữ đoạn từ Lạng Sơn đến Móng Cái, còn đoạn từ Na Sầm trở lên thì có thể bỏ. Revers đặt trọng tâm vào việc phát triển quân ngụy, dùng quân ngụy làm nhiệm vụ bình tĩnh tập trung quân Âu Phi để tổ chức lực lượng cơ động.
Revers cho rằng kế hoạch phòng thủ Đông Dương của Pháp nhằm ngăn cản “làn song đỏ” từ lục địa Trung Hoa tràn xuống Đông Nam Á. Kế hoạch này nằm trong kế hoạch chống Cộng chung của phe dân chủ, vì vậy cần tích cực tranh thủ viện trợ của Mỹ.
Giới cầm quyền ở Đông Dương phần lớn thống nhất với những đề xuất của Revers, chỉ có ý kiến khác người về giải pháp cụ thể. Tướng Alessandry đặc biệt phản đối việc rút quân khỏi Cao Bằng. Tướng Blézot thấy quân Trung Quốc ít có khả năng sớm can thiệp vào Đông Dương, nhưng đồng tình về cơ bản với nhận định của Revers và cho rằng cần rút ngay khỏi Cao Bằng. Cao ủy Pignon không coi nhẹ đồng bằng Bắc Bộ, nhưng lại thấy Nam Bộ rất quan trọng cần được ưu tiên.
Trở về nước, Revers nhanh chóng đệ trình với chính phủ Pháp một kế hoạch. Tháng 7, chính phủ và hội đồng quốc phòng Pháp họp thông qua chủ trương của Revers về phòng thủ có trọng điểm ở tuyến biên giới Việt – Trung, cụ thể là tập trung sức để giữ đoạn từ Lạng Sơn trở xuống, còn đoạn từ Na Sầm trở lên thì có thể rút bỏ.
Kế hoạch Revers đánh dấu một bước ngoặt trong chiến tranh Đông Dương. Lần đầu, Pháp nhận thấy không còn khả năng giành thắng lợi trong chiến tranh. Revers là người đầu tiên nhận ra lối thoát trong tình hình hiện nay là “đưa chiến tranh ở Đông Dương vào kế hoạch chiến lược của Mỹ”. Song ở Đông Dương, cao ủy Pignon, Tổng chỉ huy Carpentier ( sang thay Blézot từ tháng 9 năm 1949 ) và tư lệnh Bắc Bộ Alessandry trì hoãn không thi hành. Tuy nhiên, trước tình hình biên giới ngày càng xấu đi, tháng 8, Bộ chỉ huy Pháp buộc phải cho quân rút khỏi Bắc Cạn và một số vị trí khác, vẫn giữ lại Cao Bằng, Đồng Khê, Thất Khê và tăng cường phòng thủ tại vị trí này.
Vào đầu mùa thu chúng ta có trong tay bản kế hoạch Revers. Ta quyết định công bố nội dung kế hoạch trên đài Tiếng nói Việt Nam. Kế hoạch Revers sau đó trở thành nổi tiếng vì nó dẫn tới một vụ án trong đó Revers sau đó trở thành nổi tiếng vì nó dẫn tới một vụ án trong đó Revers bị tố cáo là làm lộ bí mật quân sự và bị cách chức.
Quân đội ta đã trải qua hai năm thực hiện phương châm “đại độc lập, tiểu đoàn tập trung”. Các lực lượng vũ trang đều có tiến bộ. Dân quân du kích nhiều xã được rèn luyện trong tác chiến. Bộ đội địa phương huyện ở nhiều nơi đã có thể thay thế đại đội độc lập. Các tiểu đoàn địa phương đã trưởng thành qua nhiều trận đánh và những chiến dịch. Bộ đội qua phong trào luyện quân năm 1948, năm 1949 và nhất là qua thử lửa chiến trường đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm chiến đấu.
Sau khi có chủ trương rút dần các đại đội độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí sắc lệnh thành lập bộ đội địa phương ở tỉnh và huyện. Có những nơi bộ đội địa phương huyện đã đủ sức thay thế cho địa đội đọc lập được rút đi.
Ngày 18 tháng 8, Thường vụ Trung ương ra chỉ thị: “ Ta phải có bộ đội chủ lực mạnh và bộ đội địa phương mạnh, hai lực lượng này có mối quan hệ khăng khít, hỗ trợ cho nhau trưởng thành. Vì vậy, muốn xây dựng một đội quân chủ lực mạnh, cần phải có sự phát triển rộng rãi của phong trào dân quân và những bộ đội địa phương đã trưởng thành”.
Sau Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ sáu, Đảng ta chủ trương tổ chức sớm một số đại đoàn chủ lực, trước mắt thành lập ngay đại đoàn chủ lực đầu tiên của Bộ. Bộ khung cán bộ được chỉ định. Những tiểu đoàn của bộ được dồn lại thành hai trung đoàn: 88 và 102. Trung đoàn thứ ba sẽ là trung đoàn 36 của hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Tư lệnh kiêm chính ủy đại đoàn là Vương Thừa Vũ. Đại đoàn phó Cao Văn Khánh, vốn là Khu trưởng Chiến khu 5 mới được điều ra Bắc từ hồi đầu mùa hè. Đại đoàn mang số hiệu 308.
Ngày 25 tháng 8, Đại đoàn 308 tổ chức lễ thành lập tại Đồn Đu, Thái Nguyên. Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đọc Nhật lệnh,trao nhiệm vụ cho Đại đoàn:
“…Đại đoàn có nhiệm vụ cùng các binh đoàn chủ lực khác, đi tiên phong trên con đường tiêu dịch sinh lực địch, trên con đường chính quy hóa…
Đại đoàn phải: Hễ đánh là thắng
Đã đánh là tiêu diệt địch
Ngày càng lớn mạnh
Quyết định chiến trường…”.
Đại tướng trao cho Đại đoàn lá cờ “ Chiến thắng ” của Tổng chỉ huy, và gắn huân chương cho một số cán bộ, chiến sĩ vừa lập công xuất sắc trong thời gian qua.
Đầu năm 1950, Trung Quốc, Liên Xô rồi toàn bộ các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu công nhận nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và đặt quan hệ ngoại giao với ta.
Giải phóng quân Trung Quốc đã tiến xuống Hoa Nam. Bên kia biên giới, phe xã hội chủ nghĩa mênh mông nối liền một dải. Thực ra thì từ trước tới nay,các đồn binh của Pháp chỉ ngăn được những đường giao thông lớn giữa ta với Trung Quốc nhưng chưa bao giờ bịt kín được biên giới phía bắc nước ta.
Ban Thường vụ Trung ương triệu tập Hội nghị toàn quốc lần thứ ba. Hội nghị nhận định thế của ta hiện mạnh hơn địch, lực của ta còn kém địch về vật chất, nhưng hơn về tinh thần. Thế mạnh có thể chuyển thành lực mạnh. Ta phải tích cực phát huy khả năng, triệt để lợi dụng nhược điểm của địch, làm cho thế và lực của ta lớn mạnh hơn, để trong năm 1950 có thể chuyển sang tổng phản công. Hội nghị phân tích tổng phản công là cả một giai đoạn chiến lược theo một kế hoạch chung cho chiến trường Đông Dương, là phản công từng đợt cho đến khi địch hoàn toàn thất bại, ta hoàn toàn thắng lợi. Muốn chuyển sang tổng phản công ta cần chiếm ưu thế quân sự chiến trường chính, trong khi ở các chiến trường khác, ta đủ sức kiềm chế địch. Ưu thế quân sự đó phải được giữ vững và phát triển đẻ tiếp tục phản công cho đến ngày toàn thắng.
Năm 1950, ta cần gấp rút hoàn thành việc chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công. Ngày 12 tháng 2 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh quyết định tổng động viên. Khẩu hiệu: “ Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.
Một nhiệm vụ quan trọng của ta là phải phá vỡ thế bao vây của quân Pháp ở biên giới phía bắc, giải tỏa thế uy hiếp ở hai sườn căn cứ địa Việt Bắc. Trước hết phải khai thông ngay những con đường chính nói Việt Nam với Trung Quốc, Liên Xô.
Đầu tháng 1,Ban Thường vụ Trung ương ra chỉ thị mở chiến dịch Tây Bắc và chuẩn bị chiến trường Đông Bắc. Lúc này, Tây Bắc là nơi yếu nhất và sơ hở nhất của địch. Ở đây có con đường sất nối liền tỉnh Lào Cai của ta với Vân Nam - Trung Quốc. Đông Bắc là nơi địch có những phòng tuyến rắn chắc nhất, khống chế những con đường sắt, đường bộ nối liền Hà Nội với Bắc Kinh. Chúng ta cần phá vỡ phòng tuyến này mới giải quyết được về cơ bản sự giao lưu quốc tế.
Bộ tổng tư lệnh quyết định mở một chiến dịch tiến công ở Tây Bắc, đồng thời đẩy mạnh những trận vận động phúc kích trên đường số 4 tại Đông Bắc. Trong Xuân Hè này, ta tích cực chuẩn bị chiến trường ở Đông Bắc, nhưng tạm thời chưa đụng đế hệ thống đồn bốt của địch.
Tháng 3 năm 1950, Bộ Tổng tư lệnh mở chiến dịch Tây Bắc mang bí danh Lê Hông Phong 1. Mục đích của chiến dịch là tiêu diệt sinh lực địch, tiêu diệt một số vị trí, tối đa là giải phóng tỉnh lào Cai mở con đường thông với quốc tế ở hướng này. Trong khi ta mở chiến dịch, bên kia biên giới, Quân giải phóng Trung Quốc đã chiếm Mông Tự, Hồ Kiều và đang kiểm soát vùng đất đối diện với Phong Thổ,Lai Châu.
Đợt đầu chiến dịch, ở hướng chính, bộ đội ta tiến công phân khu Phố Lu. Phố Lu là một thị trấn còn lại trên phòng tuyến Sông Thao từ cuộc tiến công năm trước, án ngữ con đường tiến lên Lào Cai. Quân Pháp đã đuổi cư dân ở thị trấn này ra ngoài, xây dựng một đồn binh kiên cố với những dãy nhà gạch còn nguyên vẹn và tường thành bao quanh, dày từ một đến hai mét. Bốn góc có lô cốt vững chãi. Bao quanh là hàng rào dây thép gai và bãi mìn. Gần căn cứ có một sân bay dã chiến. Tại Phố Lu, có một đại đội lính Pháp, một đại đội khố đỏ và 80 lính ngụy địa phương đóng giữ.
Trận đánh phân khu Phố Lu kéo dài bốn ngày đêm với ba đợt tiến công. Địch có công sự vững chãi và chiến đấu ngăn chặn quyết liệt, hai đợt tiến công đầu tiên, do pháo ta đặt phân tán,nên bộ đội ta không mở được cửa đột phá. Tới đợt thứ ba, ta dồn pháo cả về một hướng, bắn vỡ một góc tường, mở được cửa đột phá cho bộ đội xung phong. Những chiến sĩ mang súng bazooka đi kèm với xung kích tiến vào tiêu diệt tất cả những hỏa điểm còn chống cự trong đồn địch.
Ở hướng thứ yếu, trận đánh Nghĩa Đô không thành công. Bộ đội ta chuyển sang tiêu diệt vị trí Bản Lầu.
Địch cho quân nhảy dù tăng cường cho Lào Cai, chiếm lại Phố Lu và Nghĩa Đô. Bộ Tổng tư lệnh quyết định tạm ngừng chiến dịch.
Trong tháng 4 năm 1950, Bác lên đường ra nước ngoài. Trừ khi về nước năm 1940, Bác hầu như mất quan hệ với phong trào Cộng Sản Quốc tế. Năm 1942, Bác ra nước ngoài định tìm gặp Đảng cộng sản Trung Quốc để thông báo tình hình, không may bị chính quyền Quốc dân đảng Trung Hoa vu cho là Hán gian, bắt giữ. Bác đã tìm cách thoát hiểm trở về. Trong cách mạng tháng Tám cũng như những năm đầu chống Pháp, ta hầu như không có quan hệ với Quốc tế Cộng Sản. Nhân dịp biên giới tạm khai thông, Bác thấy đây là dịp tốt để thông báo với Cộng sản quốc tế về tình hình cách mạng Việt Nam, những chiến lược và sách lược mà ta đã vận dụng để giành được những thắng lợi trong mấy năm qua, tình hình mới của cuộc kháng chiến, tranh thủ sự đồng tình và sự giúp đỡ, phối hợp của phong trào cộng sản quốc tế. Bác qua Trung Quốc, sang Liên Xô gặp Mao Trạch Đông và Staline. Thời gian này Mao Trạch Đông đang có mặt tại Matxcơva. Staline và Mao Trạch Đông nhận xét Cách mạng Việt Nam đã chậm làm cách mạng thổ địa, có những sách lược mạo hiểm và cần sớm làm cách mạng thổ địa. Về sự chi viện của bạn, Bác cho biết trước mắt Liên Xô cho ta một trung đoàn pháo cao xạ 37 ly, một số xe vận tải Molotova và thuốc quân y, Trung Quốc sẽ trang bị vũ khí cho một số đại đoàn bộ binh và pháo binh, và sẽ vận chuyển hàng viện trợ của Liên Xô cho ta. Theo đề nghị của Bác, Chủ tịch Mao Trạch Đông hứa sẽ cử một đoàn cố vấn sang giúp ta về mặt quân sự.
Thường vụ báo cáo với Bác, việc phổ biến nghị quyết tích cực chuẩn bị mạnh sang tổng phản công đã được tiến hành sâu rộng. Đại đa số cán bộ, chiến sĩ và nhân dân rất phấn khởi, nhưng còn một số biểu hiện nhận thức, tư tưởng chưa đúng, cần được uốn nắn.
Từ khi ở nước ngoài trở về, trong những cuộc trao đổi với Thường vụ, Bác nhiều lần nhắc cần có chỉ thị giải thích rõ hơn vấn đề chuẩn bị tổng phản công, uốn nắn những thiếu sót trong công tác tổng động viên. Bác khẳng định: “Tổng phản công của ta sẽ là một giai đoạn lâu dài. Rồi đây, có sự viện trợ của Liên xô và Trung Quốc về vật chất vũ khí, trang bị, ta sẽ đỡ khó khăn hơn, nhưng giành được thắng lợi là phải do sự nỗ lực của bản thân ta quyết định”.
Sau những cuộc họp tháng 4 năm 1950, Ban Thường vụ trung ương ra văn bản nhắc các địa phương và các cơ quan tuyên truyền cần phải tiếp tục giải thích thêm về vấn đề chuyển sang tổng phản công, để tránh mọi sự hiểu lầm trong nhân dân. Muốn chuyển sang tổng phản công phải chuẩn bị đầy đủ mọi mặt, chuẩn bị đầy đủ chừng nào, thắng lợi của ta càng chắc chắn chừng nấy. Trái lại, chuẩn bị không tích cực thì sẽ chậm chuyển sang tổng phản công; chuẩn bị không chu đáo, tổng phản công sẽ khó khăn.
Tổng bí thư Trường Chinh viết bài trên Tạp chí Cộng sản: “ Ta có các nước bạn ủng hộ, giúp đỡ. Nhưng muốn thắng lợi, trước hết tự ta phải cố gắng. Cố gắng của ta là chính, sự giúp đỡ của bên ngoài rất quan trọng,nhưng chỉ là thêm vào mà thôi. Cho nên ta không thể ỷ lại vào sự giúp đỡ bên ngoài. Nhớ rằng các nước bạn không đem quân tới đánh thay cho ta đâu!”
Ngay sau khi Bác về, Trung Quốc báo tin cho ta có thể đưa một số trung đoàn qua biên giới nhận vũ khí mới