← Quay lại trang sách

Chương VII BƯỚC NGOẶT
❖ 1 ❖

Trong mùa hè năm 1950, Pháp đã vơ vét được từ chính quốc thêm 13 tiểu đoàn để tăng cường sang Đông Dương và bắt lính ở vùng tạm chiếm, đưa quân số lên 180.000 người. Đội quân viễn chinh gồm hải, lục, không quân với hỏa lực mạnh và phương tiện cơ động nhanh vẫn hoàn toàn làm chủ vùng trời, vùng biển, không chế chiến trường ban ngày, và có thể mở cuộc hành binh bất cứ lúc nào vào vùng tự do của ta. Tuy nhiên, vì chiến tranh nhân dân triển khai rộng khắp các vùng bị tạm chiếm, quân địch phải lo bảo đảm an toàn hậu phương, nên chúng chỉ có 12 tiểu đoàn cơ động chiến lược trong tổng số 124 tiểu đoàn. Ba phần tư lực lượng cơ động chiến lược được tổ chức thành 3 binh đoàn (Binh đoàn dù, Binh đoàn cơ động Bắc Phi, Binh đoàn Marốc) bố trí trên chiến trường Bắc Bộ.

Về số quân, nhìn chung quân số địch vẫn hơn ta (180.000/166.000), nhưng lần đầu ta có lực lượng chủ lực cơ động đông hơn địch. Tuy nhiên, quân đội ta vẫn đơn thuần là bộ binh, trang bị còn rất yếu kém, nhiều chiến sĩ vẫn phải mang mác búp đa, phương tiễn di chuyển vẫn là đôi chân, mọi thứ vũ khí, kể cả sơn pháo, đều nằm trên vai chiến sĩ.

Sau khi đi Trung Quốc và Liên Xô về, Bác trao đổi ý kiến với Thường vụ nên chuyển hướng từ giải phóng Lào Cai sang giải phóng Cao Bằng.

Cao Bằng nằm trong khu Biên thùy Đông Bắc, là nơi có tỷ lệ quân Âu Phi cao và thuộc loại tinh nhuệ nhất Đông Dương. Binh lực gồm 11 tiểu đoàn và 9 đại đội bộ binh, 17 khẩu pháo các loại, 8 máy bay, 4 đại đội cơ giới và 4 đại đội công binh. Công trình phòng ngự ở đây rất vững chắc. So với hướng Tây Bắc thì địch ở Đông Bắc mạnh hơn rất nhiều.

Đầu tháng 7 năm 1950, Thường vụ quyết định chuyển hướng tiến công từ Tây bắc sang Đông Bắc, tập trung vào khu vực Cao Bằng - Lạng Sơn. Bộ Tổng tư lệnh (1) trao cho Bộ Tổng tham mưu và Tổng cục Cung cấp triển khai công tác chuẩn bị cho tới đầu tháng 9 năm 1950. Có nhiều ý kiến nên đánh thị xã Cao Bằng để mở đầu chiến dịch khi lực lượng ta còn nguyên vẹn sung sức.

Ngày 25 tháng 7 năm 1950, Ban Thường vụ Trung ương quyết định thành lập Đảng ủy Mặt trận Biên giới và Bộ chỉ huy chiến dịch. Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Bí thư Đảnh ủy chiến dịch và Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy Mặt trận. Đảng ủy viên gồm các đồng chí: Trần Đăng Ninh, Hoàng Văn Thái, Bùi Quang Tạo, Lê Liêm, Hoàng Văn Thái là Tham mưu trưởng, Lê Liêm là Chủ nhiệm Chính trị, Trần Đăng Ninh là Chủ nhiệm Cung cấp của Mặt trận. Quyết định thành lập Bộ chỉ huy chiến dịch đã xua tan không khí căng thẳng một thời gian dài chờ đợi từ khi có lệnh chuẩn bị tổng phản công.

Ngay sau khi Bác từ nước ngoài trở về, các bạn Trung Quốc đã sớm thực hiện những cam kết. tháng 4 năm 1950, 2 trung đoàn của Đại đoàn 308 đi theo đường Hà Giang qua Mông Tự (Vân Nam) Trung Quốc nhận vũ khí. Tiếp đó, một trung đoàn của đại đoàn 312 đâng thành lập, đi theo đường Cao Bằng qua Hoa Đồng (Quảng Tây), bạn cũng chở gấp vũ khí sang Cao Bằng để trang bị tiếp cho 2 trung đoàn của ta phải ở lại chiến trường đối phó với quân địch.

Những đơn vị của ta sang Trung Quốc còn được bạn huấn luyện thêm về chiến thuật công kiên, đặc biệt là kỹ thuật đánh bộc phá, trước đây vì không có thuốc nổ ta chưa hề sử dụng chiến thuật này. Qua ba tháng luyện tập, được bắn đạn thật, bộ đội ta tiến bộ khá nhanh. Lần đầu, cây mác búp đa được đưa ra khỏi đội hình chiến đấu.

Từ sau chiến dịch Việt Bắc, bộ đội của Bộ đã liên tiếp mở những chiến dịch nhỏ, Tổng chỉ huy đã mấy lần xin đi chiến dịch nhưng Bác đều bảo chưa nên đi. Mặc dù, đã tổ chức dự liên lạc khá chặt chẽ giữa Bộ Tổng chỉ huy với những chỉ huy chiến dịch ở tiền phương, nhưng anh luôn luôn băn khoăn vì không nắm chắc tình hình diễn biến tại mặt trận, và thấy công tác chỉ huy từ phái sau rất hạn chế. Và những lúc như vậy, anh cảm thấy bứt rứt như mình bị tách khỏi bộ đội, tách khỏi trận đánh. Nhiều người chưa hiểu từ lâu chiến trường đối với anh đã trở trành trường học, và thiếu nó anh thấy rất khó làm việc.

Từ khi biết lần này được đi chiến dịch, Tổng tư lệnh vui vẻ hẳn. Anh sốt sắng bàn giao các công việc ở nhà cho Chủ nhiệm Chính trị Nguyễn Chí Thanh, rồi sang Tân Trào chào Bác trước khi lên đường. Đây là chiến dịch lớn đầu tiên của quân đội ta. Bác đã bàn trong Thường vụ sẽ trực tiếp đi chiến dịch. Theo thỏa thuận với bạn, một đoàn cố vấn Trung Quốc, Bác mời thêm Đại tướng Trần Canh, một đồng chí trước đây đã có thời gian công tác với Bác tại trường Hoàng Phố, cùng tham dự chiến dịch.

Bác đặc biệt chú ý đến chiến dịch này vì nó mở đầu cho một giai đoạn mới, giai đoạn của những chiến dịch tiến công lớn của bộ đội ta. Người biết sự khác nhau giữa vận động đánh nhỏ và vận động đánh lớn. Từ vận động đánh nhỏ sang vận động đánh lớn phải có một sự chuyển biến vượt bậc. Nhưng còn một điều khác thu hút sự quan tâm của Người không kém. Đây là lần đầu tiên, có dự tham gia của các cố vấn Trung Quốc trong một trận đánh. Bạn sang giúp ta theo yêu cầu của ta, với tinh thần quốc tế vô sản, để cùng đánh đuổi kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Trước đây, Liên Xô cũng đã làm như vậy với Hồng quân Trung Quốc. Những nhưng vấn đề trục trặc khó tránh nảy sinh. Chắc Bác muốn sự có mặt của mình sẽ tạo thuận lợi hơn cho công việc giữa Bộ Tổng tư lệnh và Đoàn cố vấn của bạn. Sự có mặt của Đại tướng Trần Canh, một đồng chí Bác đã quen biết từ trước những năm 30 ở trường Hoàng Phố, cũng nằm trong chiều hướng này.

Bác dặn dò Võ Nguyên Giáp về thái độ trong quan hệ với cố vấn Trung Quốc. Cách mạng Trung Hoa đã thành công sau bao nhiêu năm chiến tranh, nhân dân bạn đã có hòa bình. Ngày nay, bạn sang giúp cách mạng Việt Nam là do yêu cầu của ta. Cuộc kháng chiến của ta có nhiều đặc điểm, chắc là bạn chưa quen, ta cần giúp bạn hiểu rõ những đặc điểm này. Nhưng trong tác chiến, nhất là trong đánh lớn, bạn có nhiều kinh nghiệm. Cần khai thác tối đa những kinh nghiệm của bạn để vận dụng vào thực tiễn của ta. Tất nhiên, trong công việc, ta và bạn cũng sẽ có lúc có những ý kiến khác nhau. Ta nên trình bày cặn kẽ ý kiến của mình, khi chưa nhất trí thật cần thiết thì xin ý kiến Thường vụ, còn thì nên làm theo ý kiến của bạn, có sai sót sẽ rút kinh nghiệm sau.. Bác hẹn Tổng tư lệnh cuối tháng 8 hoặc đầu tháng 9 sẽ có mặt tại Cao Bằng.

Trên đường đi chiến dịch, Tổng tư lệnh lòng vui phơi phới. Từ Thu Đông Việt Bắc tới nay anh mới được quay lại với chiến trường. Anh thấy một trang sách mới vừ mở ra trước mắt. Một trang giấy trắng tinh khôi. Anh chỉ dự đoán được rất ít những gì mình sẽ gặp trong chiến dịch, những tình huống mình sẽ phải đối phó. Vì anh và đồng đội đều chưa ai biết, chưa ai có kinh nghiệm về những trận đánh mà họ sắp tiến hánh. Đây sẽ là lần đầu ta và địch đối đầu trực diện trong một trận đánh lớn trên chiến trường. Một trận đánh mà ta buộc phải áp đảo quân địch để mở đầu một thời kỳ mới quyết định thắng thua. Anh không bao giờ tin vào một chiến thắng dễ dàng. Ngay cả với những trận đánh mọi mặt đều có thuận lợi, anh vẫn tự đặt cho mình một câu hỏi: "Nếu không thắng thì sao?" và chỉ không còn băn khoăn về nó khi trận đánh đã thực sự kết thúc. Huống hồ lần này! Đây là lần đầu anh thực sự đi vào một cuộc chiến tranh lớn!

Cao Bằng đối với Võ Nguyên Giáp đã trở thành quê hương thứ hai. Gần suốt thời kỳ chuẩn bị tổng khởi nghĩa, anh có mặt tại Cao Bằng. Cách đây ba năm, khi từ Hà Nội trở lại Việt Bắc, anh đã tranh thủ lên thăm Cao Bằng gặp lại bao đồng chí cũ. Anh trở về Cao Bằng như trở lại quê hương. Quê hương lần này đã trở thành vùng tạm chiếm.

Dọc đường, trong ký ức của anh, lần này Cao Bằng hiện lên không phải như một vùng đất cách mạng với nhiều kỷ niệm, mà là một tòa thành lừng lững mọc trên đỉnh một ngọn núi trên ngã ba sông, chung quanh là núi non trùng điệp. Một câu hỏi chợt tới với anh: Vì sao mình lại đồng ý chọn mục tiêu Cao Bằng để mở đầu chiến dịch...? Đúng như vậy! Vì sao mình lại đồng ý lấy Cao Bằng làm điểm đột phá...?

Anh nhớ lại, khi bắt đầu họp, trong Thường vụ có ý kiến: nếu đánh ở Đông Bắc thì nên chọn Cao bằng. Mọi người nghe đều thấy hợp lý. Lần đầu, ta mở một chiến dịch phản công lớn, Cao Bằng rất xứng đáng là mục tiêu mở đầu chiến dịch. Giải phóng một thị xã sẽ mang lại cho quân đội và nhân dân sự phấn khởi lớn và tạo cho địch nỗi kinh hoàng. Với những người chưa biết Cao Bằng chắc ai cũng thấy sự lựa chọn này là hợp lý. Nhưng anh đã biết rõ Cao Bằng! Là người chịu trách nhiệm về sự thành bại của chiến dịch, anh không thể chỉ nghĩ đến tiếng vang lớn nếu ta chọn đánh Cao Bằng, điều anh phải nghĩ đầu tiên là đánh mục tiêu này liệu có thành công hay không? Anh không tin là bộ đội ta sau một thời gian huấn luyện ngắn ngủi có thể tiêu diệt một đồn binh vững chãi đóng tại một địa hình hiểm trở như thị xã Cao Bằng mà anh đã biết.

Anh chợt nhớ lại hồi đầu năm, khi Thường vụ chủ trương đánh mạnh ở Tây Bắc và Đông Bắc để chuẩn bị tổng phản công. Anh đã nghĩ trong trường hợp đánh Đông Bắc, ta sẽ chọn một đồn binh trên đường số 4 bao vây tiêu diệt, nhằm thu hút quân viện của địch lên giải nguy hoặc chiếm lại, để tiêu diệt địch ngoài công sự. Anh đã chỉ thị cho cơ quan tham mưu: trong khi chưa mở chiến dịch ở Đông Bắc, chỉ nên tiếp tục tiến hành những trận phục kích trên đường số 4, tạm thời không đụng đến hệ thông đồn bốt, vì anh không muốn đánh động kẻ địch chú ý tới những công trình phòng ngự của chúng ở đây.

Tháng 5 năm 1950, anh bỗng nhận được báo cáo Trung đoàn 174 của Cao Bắc Lạng vừa tiêu diệt đồn Đông Khê. Đồn Đông Khê là vị trí khá kiên cố do một tiểu đoàn Âu Phi chiếm đóng trên dọc đường số 4. Lần đầu tiên, một trung đoàn ở địa phương tiêu diệt được một vị trí tiểu đoàn Âu Phi của địch khiến anh hết sức vui mừng vì sự trưởng thành vượt bậc của quân đội ta. Nhưng anh nhận thấy trận đánh đã vi phạm vào chỉ thị "tạm thời không đụng đến hệ thống phòng ngự của địch tại Đông Bắc". Anh ra lệnh gọi Trung đoàn trường Đặng Văn Việt, người đã chỉ huy trận đánh Đông Khê, đồng thời cũng gọi luôn cục phó Cục Quân huấn Phan Phác, phái viên của Bộ ở mặt trận Cao Bằng về báo cáo tình hình.

Anh hỏi Phan Phác:

- Vì sao đơn vị đánh Đông Khê mà không báo cáo với Bộ?

Phan Phác nói:

- Thưa anh, trước khi đánh năm ngày, trung đoàn 174 đã báo cáo với Bộ.

- Tôi không hề nhận được báo cáo.

- Sau năm ngày không thấy Bộ trả lời, trung đoàn cho rằng Bộ không phản đối đề nghị của trung đoàn.

Việc đã lỡ rồi, anh nói với Phan Phác chỉ cần rút kinh nghiệm với Văn phòng Bộ và không nói gì với Đặng Văn Việt...

Anh không hiểu sao mình đã không đồng ý hồi tháng 7 khi Thường vụ đề ra nên đánh Cao Bằng. Nếu đánh Cao Bằng, anh lo chiến dịch khó tránh khỏi thất bại ngay từ khi khởi đầu. Anh mong tới Sở chỉ huy chiến dịch thật sớm, vì nếu tới nơi mọi việc đã được triển khai, thì không kịp xoay chuyển tình hình.

Ngày 5 tháng 8 năm 1950, ngay sau khi tới sở chỉ huy Mặt trận, Tổng tư lệnh cùng với Tham mưu phó chiến dịch Phan Phác và một số cán bộ trong cơ quan đi trinh sát Cao Bằng.

Từ một vị trí trinh sát đặt trên đỉnh núi ở ngoại vi phía đông Cao Bằng, có thể nhìn bằng mắt thị xã nằm dưới khoảng 1.000 mét khi không có sương mù che phủ. Thị xã Cao Bằng với những ngôi nhà ngỏ mái nâu, tường quét vôi trắng, nằm trong vòng ôm của hai con sông Bằng và sông Hiến. ở một góc thị xã nổi bật lên tòa thành cũ tường xây bằng đá rất cao. Sân bay nằm bên tả ngạn sông Bằng với những chiếc máy bay sẵn sàng cất cánh. Lần đầu tiên anh nhìn thấy trên những quả đồi dọc con đường chạy vào thị xã xuất hiện một loạt đồn tiền tiêu. Anh nhận thấy, mấy năm qua địch đã biến cả thị xã Cao Bằng thành một đồn binh thực sự.

Tổng tư lệnh hiểu vì sao bộ chỉ huy Pháp chưa chịu rút khỏi Cao Bằng. Quân địch ở Cao Bằng không quá đông, nhưng địa hình núi sông hiểm trở ở đây buộc bộ đội ta phải giải quyết một loạt vấn đề chiến thuật: tổ chức vượt sông, đột phá tung thâm sâu, đánh ban ngày, đánh dài ngày, đối phó với hỏa lực máy bay, đại bác, quân dù trên địa hình trống trải, phải tiêu diệt những công trình phòng ngự rất kiên cố trong khi bộ binh của ta chỉ có vũ khí nhẹ. Đây đều là những vấn đề bộ đội ta chưa có nhiều kinh nghiệm.

Trước đây, ta dự kiến bao vây Cao Bằng nhằm thu hút quân viện địch lên để tiêu diệt, nhưng bây giờ, anh nhận thấy ít có khả năng địch đưa quân viện lên theo đường bộ, vì quãng đường Thất Khê - Cao Bằng từ lâu đã trở thành quá nguy hiểm với quân địch. Như vậy, trong trường hợp Cao Bằng bị uy hiếp mạnh, có nhiều khả năng địch sẽ phải hy sinh đội quân đồn trú tại đây, và rút những lực lượng ở Đông Khê, Thất Khê về Lạng Sơn một cách an toàn trong khi hầu hết quân chủ lực của ta còn nằm ở Cao Bằng. Ta sẽ có điều kiện tiêu diệt địch ngoài cống ự. Nếu địch không chiếm lại Đông Khê, ta sẽ đánh tiếp Thất Khê. Cuối cùng, ta sẽ chấn chỉnh lực lượng quay lại tiêu diệt Cao Bằng. Khi đã mất cả Đông Khê, Thất Khê, tình hình quân địch ở Cao Bằng sẽ khác. Và cũng không nhất thiết phải tiêu diệt Cao Bằng bằng một trận công kiên, mà có thể bao vậy buộc quân địch phải đầu hàng.

Đảng ủy Mặt trận họp ngay ngày hôm sau. Qua trao đổi, phân tích, Đảng ủy đều nhận thấy đánh Cao Bằng không chắc thắng, nên chuyển sang đánh Đông Khê. những cũng có ý kiến: "Thường vụ đã có quyết định đánh Cao Bằng, mọi công tác chuẩn bị về tham mưu, hận cần đã hướng cả về Cao Bằng, nên bây giờ thay đổi chiến dịch sẽ bị chậm lại."

Ngày 12 tháng 8, Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tới Mặt trận.

Ngày 15 tháng 8, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện cho Tổng tư lệnh chấp thuận chuyển hướng chiến dịch từ Cao Bằng sang Đông Khê. Hậu cần chiến dịch đã bố trí hướng về Cao Bằng giờ phải thay đổi nhiều. Phải di chuyển toàn bộ hệ thống kho, trạm, bệnh viện sang phía Đông Khê - Thất Khê. Riêng đường vận chuyển từ Trung Quốc sang Quảng Uyên, nay phải sửa thêm đoạn qua Phục Hòa tới Thủy Khẩu dài 30 kilômét.

Ngày 9 tháng 9 năm 1950, Đảng ủy và Bộ chỉ huy Mặt trận triệu tập cán bộ trung đoàn trở lên thông qua kế hoạch đánh Đông Khê lần cuối.

Buổi chiều, Bác tới Mặt trận. Người gầy và đen sau một tuần lễ đi đường.

Ngày hôm sau, Đại tướng Trần Canh cũng tới nơi. Đồng chí rất ngạc nhiên khi đi qua Nước Hai, chỉ cách Cao Bằng 10 kilômét nhưng phố xá, chợ búa vẫn nhộn nhịp.

Trong cuộc gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau khi nghe Đại tướng Võ Nguyên Giáp trình bày kế hoạch chiến dịch, Đại tướng Trần Canh nói:

- Hồ Chủ tịch và Bộ chỉ huy chiến dịch đã có quyết định chính xác. Binh lực Việt Nam trong chiến dịch không nhiều. Chọn Đông Khê làm điểm đột phá là đúng. Đánh Đông Khê để kéo viện binh địch lên là chiến thuật "đánh điểm diệt viện" Giải phóng quân Trung Quốc thường dùng trong chiến đấu chống quân Tưởng, Việt Nam nên vận dụng nhiều chiến thuật này. Vì muốn giải phóng đất đai thì trước hết phải tiêu diệt nhiều sinh lực địch.

❖ 2 ❖

Quân số địch tại Đông Khê lúc đó chỉ bằng nửa Cao Bằng. Đông Khê cũng có cấu trúc tương đối kiên cố nhưng không thể so với Cao Bằng, vốn là một đồn binh của đế quốc Pháp xây dựng từ lâu nhằm đối phó với những đe dọa của Quốc dân đảng Trung Hoa từ phương bắc, và địa hình cũng không hiểm trở như Cao Bằng. Hơn thế, Đông Khê lại vừa mới bị một trung đoàn của ta tiêu diệt hồi tháng 5. Khi chọn Đông Khê làm mục tiêu đột phá chiến dịch, mọi người đều coi như đã nắm chắc chiến thắng trong tay. Không một ai nhắc tới khó khăn của trận đánh.

Tổng tư lệnh bàn với Tổng tham mưu trưởng để bả đảm chắc thắng ta sẽ huy động một lực lượng tiến công với số lượng áp đảo. Lực lượng tiến công Đông Khê gồm trung đoàn 174 (đơn vị đã tiêu diệt Đông Khê hồi tháng 5) làm chủ công, và trùng đoàn 209. So với quân địch ở Đông Khê chỉ có một tiểu đoàn, thì lực lượng ta lớn hơn sáu lần.

Ta biết sau khi bị đánh hồi tháng 5, cứ điểm Đông Khê đã được củng cố, tăng cường các công trình phòng ngự, chiến đấu. Ngày 3 tháng 9, Ban chỉ huy mặt trận Đông Khê cùng cán bộ chủ chốt của các trung đoàn 174, 209 đi trinh sát thực địa. Họ phát hiện địch trên ngọn đồi hình quả táo ở hướng bắc, ở pháo đài trung tâm chỉ huy, địch đã có một số thay đổi. Chúng cho chặt trụi cây cối không để chỗ cho ta ẩn nấp để tiến sát bám đầu cầu, chúng còn đánh bậc ở những quảng trông nhằm làm chậm bước tiến của bộ đội, tuy nhiên ta chưa biết gì về những thay đổi ở bên trong.

6 giờ sáng ngày 16 tháng 9, một loạt pháo 75 ly của ta nổ giòn báo hiệu mở màn chiến dịch. Pháo ta bắn rất trúng các mục tiêu. Quân địch bị bất ngờ, đối phó rất lúng túng. Ở hướng Bắc và Đông Bắc, trung đoàn trưởng 174 Đặng Văn Việt báo cáo xung kích chiếm đầu cầu rất tốt, nhưng ở hướng tây và tây nam, do người dẫn đường đi lạc nên cả trung đoàn 209 không tới được trận địa xuất phát tiến công.

Cuộc tiến công của ta trở nên rời rạc. Quân địch trong cứ điểm đã trấn tĩnh. Từ đồn to, pháo đài địch bắn rất dữ dội vào đội hình quân ta. Quân địch trong đồn dựa vào công sự vững chắc ngăn chặn ta quyết liệt. Trời sáng, máy bay địch xuất hiện. Sáu chiếc Hellcat lồng lộn bắn vào đội hình của ta. Thấy trận đánh diễn ra bất lợi, Chỉ huy trưởng Mặt trận Đông Khê Hoàng Văn Thái, ra lệnh ngừng tấn công, chấn chỉnh đội hình, chờ trời tối sẽ tấn công tiếp.

Trời tối, cuộc chiến đấu tiếp tục. DO hai hướng đột nhập của ta đã bị địch phát hiện từ ban ngày, hỏa lực trong cứ điểm kiểm soát rất chặt đường tiến quân của ta. 4 giờ sáng ngày 17, trung đoàn 174 mới chiếm được Cặm Phày. Trung đoàn 209 chiếm Phủ Thiện, Nhà Cũ, Trường học. Khi trung đoàn 209 đi sâu vào pháo đài thì những hỏa điểm ngầm ở những nơi bất ngờ xuất hiện. Từ các ngõ ngách, đường hào, bọn lính lê dương tổ chức phản kích chiếm lại các đầu cầu của ta. Tuy trung đoàn 174 đã chiếm được Cặm Phày, Phìa hóa, nhưng bị địch chống trả quyết liệt phải dừng lại, và một mũi của trung đoàn 209 chiếm được Pò Dinh lại bị địch đánh bật ra.

Ngày thứ ba, Chỉ huy trưởng mặt trận Đông Khê Hoàng Văn Thái trực tiếp gặp trung đoàn trưởng trung đoàn 174 và 209 chỉ thị: "Bộ chỉ huy chiến dịch hạ quyết tâm dù khó khăn tới đâu cũng phải tiêu diệt bằng được Đông Khê, mờ màn chiến dịch. Hai trung đoàn tích cực làm công sự, kiên quyết bám giữ Cặm Phày, Pò Hầu, chuẩn bị đêm 17 tháng 9 tổng tiến công tiêu diệt Đông Khê.

Hai trung đoàn củng cố chấn chỉnh lại bộ đội, rút kinh nghiệm khắc phục những thiếu sót về mặt chiến thuật, kỹ thuật, về quan hệ hiệp đồng giữa các mũi xung kích. Cán bộ tham mưu được cử xuống giúp đỡ các trung đoàn về tổ chức, bổ sung quân số, trang bị và đặc biệt đi sâu rút kinh nghiệm cuộc chiến đấu vừa qua. Trung đoàn trưởng Đặng Văn Việt đề nghị cho trung đoàn 174 chuyển hướng đột phá qua phía đông của pháo đài, bỏ hướng bắc địch đã tập trung đối phó, và đề nghị Bộ chỉ thị cho trung đoàn 209 có một mũi đánh từ phía nam lên và một mũi đánh vào sau lưng pháo đài. Chỉ huy trưởng Hoàng Văn Thái nhất trí, và chỉ thị: "Cần tập trung lực lượng diệt cho được đồn to có pháo đài. Các vị trí khác cần kiềm chế để diệt sau. Chú ý phát huy tác dụng của bộ pháo hiệp đồng, nhanh chóng tiêu diệt các hỏa điểm kiên cố của địch để tránh thương vong".

Đúng 18 giờ 30 phút, Chỉ huy trưởng mặt trận Đông Khê Hoàng Văn Thái hạ lệnh tổng công kích. Trung đoàn 174 mở đột phá khẩu đột kích phía đông pháo đài nhanh chóng chiếm đầu cầu. 174 phát triển chiếm được Đồn Nhà thương, thọc sâu vào tới lô cốt số 7 thì liên lạc được với một tiểu đoàn của 209 cùng phối hợp tiến công một mũi vào sau lưng pháo đài. Bộ binh các hướng phối hợp nhịp nhàng cùng tiến công vào đồn lớn. Địch lâm vào thế tan rã.

4 giờ 30 phút ngày 18 tháng 9, bộ đội ta thọc sâu vào sở chỉ huy địch bắt sống tên đồn trưởng Aliuc và một số sĩ quan tham mưu.

Tuy vậy, bộ đội ta vẫn phải giải quyết tiếp những đồn tiền tiêu Khâu Áng, Nà Cúm và chỉ kết thúc trận đánh vào 10 giờ ngày 18 tháng 9 năm 1950. Trận đánh phải kéo dài tới 52 giờ.

Từ ngày 2 tháng 9, Bộ chỉ huy chiến dịch đã nhận định: "Có thể xảy ra một trận vận động chiến lớn. Chúng ta quyết đợi thời cơ tiêu dệt địch. Yêu cầu cán bộ, chiến sĩ phải kiên quyết, dũng cảm, đánh địch liên tục, không sợ mệt nhọc, không sợ khó khăn. Về chiến thuật phải thực hiện bao vây chia cắt, củ động giải quyết từng bộ phận quân địch".

Nhưng sau một tuần, rồi mười ngày chờ đợi, quân viện của địch vẫn chưa xuất hiện. Trời trở rét. Bộ đội ngủ rừng, muỗi vắt nhiều, tinh thần căng thẳng, gạo ngày một cạn. Nhiều đồng chí ốm.

Ngày 2 tháng 10 năm 1950, địch mở cuộc hành quân Phoque lên Thái Nguyên. Điều này đã nằm trong dự kiến: nếu ra mở chiến dịch lớn ở Đông Bắc, địch sẽ đánh vào hậu phương ta để kéo quân ta về. Ta đã có phương án đối phó. Khó khăn lúc này chính là giải quyết với một bộ phận quân chủ lực ta tập trung tại Đông Bắc ra sao, nếu bây giờ quân viện địch không lên? Có thể chúng đoán đại quân ta vẫn còn ở lại trong vùng nên không dại dột mang mỡ dâng miệng mèo? Cũng có thể, chúng cho rằng, một lực lượng chủ lực lớn của ta sẽ không thể ở lại đây lâu, nên chờ khi biết chắc chắn quân ta đã rút lui, chúng sẽ lấy lại Đông Khê một các dễ dàng?

Đồng chí Trần Canh trao đổi với Tổng tư lệnh:

- Võ Tổng thấy thế nào? Hay là thu quân thôi! Viện binh địch không lên. Quân địch ở Thất Khê đã tăng lên 4 tiểu đoàn. Bộ đội Việt Nam đánh công kiên quá kém. Không thể đánh Thất Khê. Cũng không thể đánh Cao Bằng. Muốn đánh Cao Bằng phải xây dựng một trận địa chiến hào như Giải phóng quân Trung Hoa đánh Hoài Hải!

Tổng tư lệnh nói:

- Trận Đông Khê ta sử dụng nhiều binh lực nhưng chọn hướng đột phá chưa đúng, các mũi phối hợp kém nên đánh kéo dài. Hồi tháng 5, chỉ một trung đoàn 174 đã nhanh chóng diệt gọi Đông Khê, tổn thất rất ít. Tôi đề nghị nên cố gắng kiên trì chờ viện binh địch thêm một thời gian.

Anh thấy chiến dịch được chuẩn bị ở quy mô lớn, rất công phu ta mới tiêu diệt được một đồn địch, phần lớn bộ đội còn chưa được nổ súng, nếu bây giờ cho bộ đội rút lui nửa chừng thì coi như chiến dịch thất bại. Bác cũng đồng ý chờ quân viện của địch thêm một thời gian. Nhưng bạn vẫn băn khoăn về trường hợp quân viện địch không lên mà ta cứ để một lực lượng quân đông nằm chờ một chỗ.

Tổng tư lệnh đề nghị:

- Tôi đề nghị Bác và các đồng chí cố vấn cho chờ địch thêm ít ngày. Vừa qua, địch đã đưa quân lên đánh chiếm Thái Nguyên để mong kéo quân ta về, nhưng bây giờ chúng đã biết rõ quân ta không về, chắc chúng phải tính cách khác, chúng không thể bỏ một binh đoàn ở Cao Bằng! Và theo như kế hoạch cũ, nếu sau khi tiêu diệt Đông Khê mà quân viện địch không lên ta sẽ đánh Thất Khê. Tôi đề nghị ta sẽ làm theo đúng kế hoạch.

Bác và đồng chí Trần Canh đồng ý trong khi chờ viện trợ, chuẩn bị ngay để giải phóng Thất Khê.

Ngày 25 tháng 9, Bộ chỉ huy chiến dịch ra mệnh lệnh số 5, các đơn vị gấp rút chuẩn bị chiến trường để khi có lệnh thì tập trung tiêu diệt Thất Khê. Mặt trận Thất Khê được thành lập. Thời gian hoạt động bắt đầu từ ngày 1 tháng 10 năm 1950.

Nhận được lênh này, Đại đoàn 308 được bố trí đón lõng đánh viện binh địch trên đoạn đường Thất Khê – Đông Khê, đưa một số cán bộ chỉ huy cấp trưởng đi nghiên cứu chiến trường Thất Khê, và cho hai phần ba quân số đi lấy gạo ở Thủy Khẩu, chỉ còn để lại những người yếu mệt làm nhiệm vụ trông coi vũ khí. Suốt trận địa đánh quân viện của Đại đoàn 308 bỗng chốc không có cả người trực chiến.

Đúng lúc đó, một binh đoàn viện binh của địch lặng lẽ trườn qua trận địa không người của ta tới Đông Khê.

Lại nói về phía địch.

Nhận thấy quân Giải phóng Trung Quốc đã xuống giáp biên giới phía bắc, Cao ủy Pháp Pignon và Tổng chỉ huy mới của quân viễn chinh là Carpentier, không còn cớ gì trì hoãn việc rút khỏi Cao Bằng và Đông Khê theo quyết định của Hội đồng Quốc phòng Pháp cách đó hơn một năm. Carpentier chủ trương việc rút lui khỏi Cao Bằng và Đông Khê nên được thực hiện đồng thời với việc đánh chiếm thị xã Thái Nguyên. Sau khi thống nhất với Pignon, Carpentier lên Lạng Sơn bàn kế hoạch với Constans, tư lệnh khu biên thùy Đông Bắc. Trước khi rút khỏi Cao Bằng, sẽ tăng cường cho đồn binh này một tiểu đoàn Tabor để tổ chức thành một binh đoàn do Charton chỉ huy. Constans sẽ đưa binh đoàn Lepage từ Thất Khê lên đón binh đoàn Charton từ Cao Bằng rút về. Cánh quân Cao Bằng không được mang theo đồ lề cồng kềnh, đi thật nhanh để gặp cánh quân Lepage, tốt nhất là sau chặng hành quân đêm đầu tiên. Việc đánh chiếm Thái Nguyên và rút khỏi Cao Bằng sẽ cách nhau ba ngày. Sau khi bàn bạc xong với Constans, Carpentier lên ngay Cao Bằng báo tin cho Charton sẽ được tăng cường một tiểu đoàn Tabor, đưa binh lực tại đây lên một binh đoàn, và không đả động gì tới việc rút khỏi thị xã. Vì ông ta đã quy định việc rút khỏi Cao Bằng chỉ được thông báo cho những người thực hiện vào phút chót.

Ngày 16 tháng 9 năm 1950, Carpentier ra mật lệnh rút khỏi Cao Bằng và Đông Khê. Nhưng cũng sáng sớm hôm đó, bộ đội ta nổ súng tiến công Đông Khê. Đại tá Constans, chỉ huy khu biên thùy Đông Bắc, sợ sa vào trận địa phục kích của quân ta, chỉ dám đưa một tiểu đoàn tới tăng cường cho Thất Khê.

Tối 1 tháng 10, Lê Trọng Tấn phụ trách trung đoàn 209 từ Đông Khê khẩn trương báo cáo với Bộ chỉ huy chiến dịch:

- Rất đông quân địch đã xuất hiện trước Đông Khê. Địch gồm lính dù và lính Bắc Phi. Trung đoàn 209 đã nổ súng đánh địch.

Chỉ huy trưởng Mặt trận hỏi:

- Chúng từ đâu tới?

- Từ phía Thất Khê lên. Chắc là chúng muốn chiếm lại Đông Khê.

- Trung đoàn 209 bằng mọi giá không để địch chiếm lại Đông Khê. Đây là quân viện mà ta chờ đợi. Ngăn địch lại, chờ 308 đến hợp vây để tiêu diệt.

Chỉ huy trưởng lập tức gọi điện thoại cho Vương Thừa Vũ. Khi biết rõ tình hình, anh ra lệnh:

- Đồng chí dồn anh em còn lại ở mỗi tiểu đoàn thành một đại đội, chỉ định người chỉ huy, cho anh em tiến về phía Đông Khê đánh địch ngay. Đồng thời cử người chạy đi các kho gọi cán bộ, chiến sĩ đang đi lấy gạo quay về ngay. Có bao nhiêu lực lượng đánh bấy nhiêu. Không cho địch quay trở lại Thất Khê. Không được bỏ lỡ thời cơ tiêu diệt quân viện.

Vương Thừa Vũ hứa nội nhật ngày hôm sau Đại đoàn 308 sẽ nổ súng.

❖ 3 ❖

Chiều ngày 1 tháng 10, sau khi tiểu đoàn dù 1 bị trung đoàn 209 chặn lại ở nam Đông Khê, biết đối phương đã có chuẩn bị, Lepage ra lệnh ngừng tiến công, đưa các đơn vị chiếm đóng những điểm cao trên đường số 4, đồn trú qua đêm đợi trời sáng. Những vị trí đóng quân của địch kéo dài hơn 4km trên dọc đường số 4, từ Đông Khê xuôi về phía nam qua Khâu Luông, Nà Pá, Trọc Ngà, Lũng Phầy.

Sáng ngày 2 tháng 10, hai trung đoàn 36 và 88 của Đại đoàn 308 mặc dù chỉ mới có một phần ba quân số, vẫn xốc lại lực lượng kiên quyết tiến công địch tại những điểm cao chúng mới chiếm như Nà Mục, Trọc Ngà, Khâu Áng, Khâu Luông.

14 giờ 30 phút, máy bay truyền xuống cho Lepage mệnh lệnh của Constans: Lepage phải đưa lực lượng sang phía nam Nậm Nàng, bắc Đông Khê 15km đón binh đoàn Charton từ Cao Bằng rút về. Khi hai binh đoàn gặp nhau, Lepage sẽ chỉ huy chung cuộc rút quân. Lúc này Lepage mới hiểu cuộc hành binh của mình không nhằm chiếm lại Đông Khê mà chỉ đón quân ở Cao Bằng rút lui.

Sáng ngày 3 tháng 10, tại Cao Bằng, binh đoàn Charton gồm 3 tiểu đoàn: tiểu đoàn 1 lê dương, tiểu đoàn 3 Tabor và một tiểu đoàn ngụy bí mật rút khỏi thị xã.

Ngay sau khi được tin binh đoàn Charton rời khỏi Cao Bằng, Bộ chỉ huy chiến dịch đã điều hai tiểu đoàn của trung đoàn 209 lên hướng Cao Bằng cùng với lực lượng vũ trang địa phương ngăn chặn địch, làm chậm cuộc hành quân của chúng, ngăn không cho chúng liên lạc với binh đoàn Lepage. Bị bộ đội của trung đoàn 209 bám sát đánh rát, địch bị tiêu hao nặng và dạt về phía Pò La tây Cốc Xá.

Ngày 5 tháng 10, trung đoàn 36 của Đại đoàn 308 và tiểu đoàn 154 của trung đoàn 209 bám sát được binh đoàn Lepage, đánh bật địch khỏi cao điểm 760, 765 dồn chúng về Cốc Xá.

Sau khi nắm tình hình, tối 5 tháng 10, Bộ chỉ huy chiến dịch nhận định: Binh đoàn Lepage hiện ở Cốc Xá có ý định đánh chiếm cao điểm 477 để liên lạc với Charton. Binh đoàn Charton có thể theo đường Mông Xá đến Bản Kẹo, Lán Hai cho một bộ phận chiếm cao điểm 477 phối hợp với binh đoàn Lepage. Ta dự đoán ngày 6 tháng 10, máy bay địch sẽ oanh tạc dữ dội từ Cốc Xá đến Pác Bó, đặc biệt là cao điểm 533 để mở đường cho hai binh đoàn rút về Thất Khê. Quyết tâm của Bộ chỉ huy chiến dịch là tranh thủ thời gian tiêu diệt binh đoàn Lepage trước khi hai binh đoàn địch liên lạc được với nhau.

Đại đoàn 308 được lệnh tiến công Cốc Xá. Trung đoàn 102 do Vũ Yên chỉ huy tiến công vào bắc Cốc Xá. Trung đoàn 88 do Thái Dũng chỉ huy đánh vào tây – nam Cốc Xá, trung đoàn 36 và tiểu đoàn 154 (trung đoàn 209) do Hồng Sơn chỉ huy tiến công đông Cốc Xá. Chỉ huy chung trận đánh Cốc Xá là Đại đoàn phó Cao Văn Khánh.

Đề phòng binh đoàn Charton đánh vào sau lưng để cứu nguy cho binh đoàn Lepage, Bộ chỉ huy Đại đoàn 308 quyết định tổ chức chốt chặn ở Tân Bể trên đường về cao điểm 477. Vì điểm chốt chặn này, Charton phải đi theo đường vòng về cao điểm 477.

Sáng 6 tháng 10, các đơn vị của Đại đoàn 308 lần lượt tiến lên Cốc Xá, tiểu đoàn 11 từ hướng nam mở đầu trận đánh. 7 giờ ngày 10, binh đoàn Lepage bị thiệt hại nặng, tháo chạy tán loạn. Lepage cùng bộ tham mưu và một nhóm tàn quân chạy về đến Nà Cao, cách Cốc Xá 3km thì bị bắt.

Được tin binh đoàn Lepage gặp khó khăn, binh đoàn Charton vội vã đốt phá xe, pháo, rẽ tắt đi theo đường rừng ở cây số 22, hy vọng gặp binh đoàn Lepage tại Cốc Xá ngày 4 tháng 10.

Ngày 6 tháng 10, binh đoàn Charton về tới cao điểm 590 (Bản Bẹ). Trung đoàn 209 cùng với một tiểu đoàn của Đại đoàn 308 hiệp đồng tiến công địch, đánh tan một tiểu đoàn ngụy và một đại đội Tabor, bắt sống trên 200 tên trong đó có 57 Âu Phi và 157 lính ngụy. Tối ngày 6 tháng 10, binh đoàn Charton chạy về tới Lán Hai và cao điểm 477. Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh cho Đại đoàn 308 và trung đoàn 209 tập trung lực lượng tiêu diệt binh đoàn Charton từ bốn mặt. Charton huy động mọi cố gắng cuối cùng để mở đường bắt liên lạc với cánh quân do De la Baume chỉ huy từ Thất Khê lên đón, nhưng khi tới Bản Cả, cách cao điểm 477 bốn kilomet, thì bị bộ đội ta vây bắt.

Sáng ngày 8 tháng 10, toàn bộ quân địch bị bắt gọn, trong đó có Charton và ban tham mưu.

Ngay sau khi tiêu diệt xong hai binh đoàn Lepage và Charton, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định chỉ để lại một bộ phận nhỏ thu dọn chiến trường, truy quét tàn binh địch, đại bộ phận các đơn vị nhanh chóng chuyển xuống bao vây Thất Khê và tiêu diệt một số đồn ngoại vi, triệt đường rút quân của địch về phía nam. Nhiệm vụ bao vây và tiến công Thất Khê được trao cho Đại đoàn 308, trung đoàn 174 và trung đoàn 209.

Quân của La Baume đi đón Charton không được rút về và có thêm một tiểu đoàn dù tăng viện đưa quân số của Thất Khê lên 1.500 người.

Ngày 9 tháng 10, tiểu đoàn 79 của trung đoàn 102 tiêu diệt đồn Bản Ne, phía bắc Thất Khê 5km. Buổi tối, cầu Bản Trại phía nam Thất Khê 6km bị đánh sập.

Trong ngày, quân địch ở Thất Khê rút chạy, để lại những kho tàng nguyên vẹn.

Ngày 10 tháng 10, ở Thái Nguyên, sáu tiểu đoàn địch đóng tại thị xã vội vã rút lui.

Quân Pháp đóng dọc đường số 4 đều nhanh chóng bỏ chạy trước khi bộ đội ta truy kích tới nơi.

Ngày 13 tháng 10, địch rút khỏi Na Sầm.

Ngày 17 tháng 10, địch bỏ Đồng Đăng.

Ngày 18 tháng 10, địch rút khỏi thị xã Lạng Sơn và Lạng Giai.

Ngày 20 tháng 10, địch rút khỏi Lộc Bình và Đình Lập.

Ngày 23 tháng 10, địch rút khỏi An Châu.

Chỉ trong mười ngày, từ 13 đến 23 tháng 10 năm 1950, địch đã rút khỏi một phòng tuyến dài 100km trên đường số 1 từ Đồng Đăng về tới Tiên Yên.

❖ 4 ❖

Chiến dịch Biên Giới đối với Võ Nguyên Giáp là một trường đại học chuẩn bị cho thời kỳ mới. Anh không ngừng suy nghĩ và tự đặt cho mình những câu hỏi về chiến dịch này.

Vì sao trận mở đột phá khẩu Đông Khê được chuẩn bị với sự chú ý cao nhất lại trở thành một trận công kiên dở nhất từ trước tới giờ, mang lại cho ta nhiều tổn thất? Trận đánh vận động lần đầu với hai binh đoàn tinh nhuệ của địch giữa rừng núi khởi đầu cực kỳ lộn xộn, bộ đội ta chuẩn bị sơ sài, nhưng đã tạo được thế áp đảo? Mở đầu chiến dịch tại Đông Khê, một tiểu đoàn địch đã cầm cự trên 50 giờ với 6 tiểu đoàn của ta. Nhưng cuối chiến dịch, chỉ có 5 tiểu đoàn hỗn hợp của ta, lực lượng sứt mẻ qua mười ngày giao chiến, đã bao vây tiêu diệt 5 tiểu đoàn địch ở cao điểm 477, trong đó có 4 tiểu đoàn của Charton lực lượng hầu như còn nguyên vẹn? Trận 477 không phải là trường hợp cá biệt. Ở Cốc Xá, 3 tiểu đoàn hỗn hợp của ta đã tiêu diệt 2 tiểu đoàn Lepage phòng ngự tại một địa hình núi đá hiểm trở. Trên đỉnh Trọc Ngà, chỉ một trung đội 88 đã đánh bại một đại đội Maroc phòng ngự, được trang bị cả đại liên và súng cối…?

Khi đi thăm vùng mới giải phóng, Tổng tư lệnh dừng lại khá lâu ở Đồng Đăng. Anh không hiểu tại sao địch lại rút chạy khỏi những công trình phòng thủ được bố trí cẩn mật đến như vậy? Thị xã Lạng Sơn còn làm anh ngạc nhiên hơn, nếu địch không hoảng hốt rút khỏi Lạng Sơn, chắc chắn chúng ta lại phải có một chiến dịch Lê Hồng Phong 3 mới đẩy được chúng ra khỏi đường số 4. Sự phản ứng dây chuyền từ một chiến thắng như vừa qua mang lại cho ta bài học gì trong chiến tranh?

Phần lớn cán bộ chỉ huy quân sự chỉ thích nói về những trận đánh hay do mình chỉ huy, không thích nhắc đến những trận đánh thất bại. Và thông thường, trong một chiến dịch khi trận đầu không suôn sẻ, trận sau giành thắng lợi thường xóa nhanh những thiếu sót ban đầu. Không ai muốn nhắc đến trận Đông Khê. Riêng với Tổng tư lệnh, trận đánh này tiếp tục gây cho anh nhiều băn khoăn.

Có phải như nhiều người nói: nguyên nhân gây nên tổn thất ở Đông Khê do ta quá chủ quan? Đúng là khi lấy Đông Khê làm mục tiêu mở đầu chiến dịch thay cho Cao Bằng, ai cũng nhận thấy ta đã tránh một mục tiêu cực kỳ khó, hạ xuống một mục tiêu vừa sức mình. Anh đã ý thức được điều này, và chỉ thị cho cơ quan cũng như các đơn vị phải hết sức tránh chủ quan để đánh thắng thật giòn giã trận đầu mở màn chiến dịch. Anh đã chỉ thị chọn trung đoàn 174, vừa tiêu diệt vị trí này của địch cách đây ba tháng, làm đơn vị chủ công. Thông thường, ta chỉ dùng đơn vị trung đoàn để tiêu diệt đơn vị tiểu đoàn của địch trong công sự. Lần này, ta đã huy động hai trung đoàn, một lực lượng gấp sáu lần quân địch để đảm bảo chắc thắng. Những vũ khí tốt nhất cũng được dành cho Đông Khê. Vì trận Đông Khê được huy động nhiều binh lực, để đảm bảo một sự hiệp đồng tốt, anh đã đề nghị Bộ chỉ huy chiến dịch tổ chức Mặt trận Đông Khê và trao nhiệm vụ chỉ huy trận đánh cho những cán bộ tin cậy và có uy tín. Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái trực tiếp chỉ huy trận đánh này. Rõ ràng tư tưởng người lãnh đạo không hề có chút chủ quan. Cán bộ, chiến sĩ, kể cả dân quân trong trận đánh đã có những biểu hiện cực kỳ anh dũng. Nhưng vì sao trận đánh đã kéo dài hơn 50 giờ với những tổn thất nặng nề?

Cuối cùng, anh cũng nhận thấy nguyên nhân của thất bại này là do chủ quan. Đông Khê không chỉ nhỏ, yếu hơn Cao Bằng về mọi mặt mà là một đơn vị vừa bị trung đoàn 174 tiêu diệt. Trung đoàn 174 lúc đó chưa phải là trung đoàn chủ lực có truyền thống đánh công kiên. Mọi người đều tin: vừa đó đánh được, lần này lực lượng được tăng gấp đôi, lẽ nào lại không đánh được! Người ta đã quên một điều trong quân sự là: “Không có trận đánh nào giống trận đánh nào!”. Ta đã biết rõ trong trận đánh Đông Khê hồi tháng 5, cứ điểm này đã bị bộ đội ta tàn phá, sau đó địch xây dựng lại và củng cố phòng ngự. Nhưng nhiều người cho rằng: đồn có được xây dựng lại nhưng chắc không khác đồn cũ nhiều. Đoàn cán bộ của hai trung đoàn cùng đi trinh sát thực địa trước trận đánh, nhận thấy đồn địch không có sự thay đổi gì lớn, trừ việc địch cho chặt hết cây cối trên pháo đài trung tâm và đánh nhiều bậc ở những chỗ trống để hạn chế tốc độ đột nhập của bộ đội ta. Như vậy, việc đi nghiên cứu thực địa gần như không đạt kết quả, ta chỉ thấy được một chút thay đổi bề ngoài mà không hề biết gì về bố phòng bên trong của địch. Nhiều cán bộ cho rằng lần này hỏa lực ta mạnh, lực lượng đông, tất cả những chuyện chưa biết đều có thể giải quyết tại chỗ.

Từ trước tới nay, những trận công kiên của ta đều diễn ra ban đêm. Cũng với sự quá tin vào sức mạnh của lực lượng ta đã dẫn tới bố trí trận đánh diễn ra ban ngày.

Sự chuẩn bị sơ sài đó đã đưa tới kết quả vào giờ tiến công, có hai mũi xung kích thì một mũi không đến được trận địa xuất phát xung phong, khiến trận đánh mở đầu vào buổi sáng phải lưu lại đến tối. Lực lượng của ta suốt một ngày bị đặt dưới hỏa lực của máy bay Hellcat và hỏa lực từ trong đồn bắn ra. Và điều nguy hiểm nhất là địch đã biết đường tiến quân của ta để chuẩn bị đối phó khi trận đánh tiếp tục.

Do thiếu dự kiến, trận đánh được bố trí theo cách dùng hai mũi đột kích thật mạnh của hai trung đoàn nhanh chóng tràn ngập vị trí địch, nhưng khi bị địch ngăn cản, lực lượng triển khai không được, các mũi mất liên lạc thì không mũi nào biết tiếp tục đánh vào đâu, chỉ cố giữ những vị trí đã chiếm được dù nhiều vị trí không góp phần vào việc tiếp tục tiêu diệt quân địch.

Ta đã phải dừng lại suốt ngày đầu chờ trời tối để tiếp tục tiến công quân địch. Đây đáng lẽ là thời gian quý báu để chuẩn bị thêm cho trận đánh, nhưng ta chỉ làm được một việc duy nhất là tổ chức chuẩn bị lại đội hình để chờ trời tối phối hợp tiến công. Ta cho rằng lý do duy nhất khiến trận đánh không thành công đêm qua, vì một mũi tiến công không tới kịp.

Đêm 16, cả hai mũi đều tiến công quyết liệt vào đồn. Họ bị tổn thất vì đường tiến công đã bị địch phát hiện, nên tổ chức ngăn chặn. Những mũi tiến công mà ta tưởng là sẽ nhanh chóng tràn ngập cứ điểm trong thực tế chỉ là những đợt tiến công lẻ tẻ không có trọng điểm, cuối cùng yếu dần vị lực lượng bị tiêu hao, cuối cùng phải quay sang giữ một số vị trí đã chiếm được trong đồn.

Ngày thứ ba, Bộ chỉ huy Mặt trận chỉ thị tranh thủ thời gian ngừng tiến công cho bộ đội rút kinh nghiệm. Lúc này mới có ý kiến là các mũi tiến công của ta không tạo được sức mạnh vì đánh không có trọng điểm. Cần thay đổi hướng đột phá vì quân địch đã biết rõ đường tiến công của ta. Cần phải tập trung lực lượng tiến công vào pháo đài trung tâm, tiêu diệt cơ quan đầu não và lực lượng đề kháng ở đây, sau đó sẽ tiêu diệt những bộ phận còn lại.

Ta mất thêm một đêm tiến công thứ ba và tới 10 giờ sáng hôm sau mới hoàn toàn tiêu diệt Đông Khê. Tổng tư lệnh thấy mình đã có thêm những kinh nghiệm cực kỳ quý giá.

❖ 5 ❖

Ta tổ chức tổng kết chiến dịch Biên Giới ngay tại Cao Bằng.

Kết thúc Hội nghị, Đại tướng Trần Canh, trưởng đoàn cố vấn Vi Quốc Thanh và Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp cùng ngồi trao đổi trên nhà sàn quanh một tấm bản đồ trải rộng.

Đồng chí Trần Canh nói:

- Chiến dịch này, bộ đội Việt Nam tiêu diệt và bắt sống 8.000 quân địch. Điều quan trọng là có 5 tiểu đoàn Âu Phi, quân ứng chiến tinh nhuệ nhất của Pháp đã bị tiêu diệt gọn.

Đồng chí Trần Canh trỏ ngón tay vào con đường số 3 chạy thẳng từ Cao Bằng về gần Hà Nội, ước lượng:

- 200km?...Quá gần!

Rồi đồng chí khoanh ba vòng tròn ở chung quanh Hà Nội, nói tiếp:

- Phải ba chiến dịch như chiến dịch Biên Giới. Thời gian khoảng một năm.

Ba người nhìn nhau mỉm cười.

Phối hợp với chiến dịch Biên Giới, ở hướng tây bắc, từ ngày 12 tháng 9 năm 1950, các trung đoàn 165, 148 đã chủ động đánh địch khắp nơi, buộc địch phải bỏ nhiều thị trấn dồn về thị xã Lào Cai. Ngày 2 tháng 11 năm 1950, Carpentier ra lệnh bỏ thị xã Lào Cai rút về Than Uyên. Cửa ngõ Tây Bắc thông sang biên giới tây nam Trung Quốc tiếp tục được mở rộng.

Trên hướng Đông Bắc, ta đã hoàn toàn làm chủ 200km đường số 4, mở thông đường giao thông quốc tế ở hướng này. Ta đã giải phóng 17 thị trấn, 5 thị xã có ít nhiều tầm quan trọng về chiến lược là Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, Thái Nguyên, Hòa Bình. Riêng vùng núi Bắc Bộ, địch mất 110 vị trí lớn, nhỏ. Ta đã giải phóng hai phần ba biên giới Việt – Trung với trên 4.000 km vuông. Lực lượng cơ động Âu Phi ta tiêu diệt tại biên giới chiếm 55% lực lượng cơ động trên chiến trường Bắc Bộ, tức 41% lực lượng cơ động trên toàn chiến trường Đông Dương.

Phản ứng đầu tiên của chính phủ Pháp là cử ngay một phái đoàn điều tra sang Đông Dương, đồng thời cấp tốc tăng viện 7 tiểu đoàn bộ binh cùng với 1 trung đoàn thiết giáp, 2 cụm pháo binh, 1 phi đội máy bay ném bom, một số lượng khá lớn đại bác các loại và xe bọc thép để đối phó với cuộc tiến công lớn của Việt Minh. Nhưng Bộ chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương đòi hỏi hơn thế rất nhiều: cấn có thêm 500.000 quân tinh nhuệ, phải tăng cường lực lượng không quân lên gấp ba, và vẫn phải rút hẹp phạm vi chiếm đóng ở đồng bằng.

Chiến thắng Biên Giới gây một chấn động lớn trong giới cầm quyền Đông Dương. Tư lệnh Bắc Việt Alessandry, đến giờ phút cuối cùng còn phản đối việc rút lui khỏi Cao Bằng, lúc này lại đề nghị rút thêm Móng Cái, Tiên Yên và Hòn Gai để có thêm 4 tiểu đoàn bảo vệ Hà Nội. Valluy đồng ý rút lui khỏi Đình Lập và Tiên Yên. Carpentier còn tính tới trường hợp áp lực của Việt Minh quá mạnh, sẽ bỏ Hà Nội về cố thủ tại Hải Phòng.

Lúc này, ở Bắc Bộ, lực lượng quân địch gồm 51 tiểu đoàn tập trung tại 15 tỉnh, thành ở đồng bằng và trung du, có diện tích 21.000 km vuông và 8 triệu dân.

Muốn tranh thủ thời cơ khi địch đang dao động lại chưa kịp củng cố phòng ngự tại đồng bằng. Thường vụ quyết định cần mở tiếp những chiến dịch nhằm vào trung du và đồng bằng, trước hết là trung du.

Không khí cán bộ, chiến sĩ náo nức khi được lệnh về xuôi, họ nghĩ tới đồng bằng quê hương sẽ được giải phóng, Hà Nội sẽ được giải phóng.

Riêng Tổng tư lệnh biết có nhiều khó khăn mới đang chờ mình.

Chú thích:

1. Từ tháng 4 năm 1950, Bộ Tổng chỉ huy đã cải tổ thành Tổng tư lệnh đứng đầu, và ba Tổng cục: Tổng cục Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Cung cấp.