← Quay lại trang sách

Chương VIII ĐÁNH ĐIỂM DIỆT VIỆN
❖ 1 ❖

Sau chiến dịch Biên Giới, các tỉnh biên giới và Việt Bắc nói chung lần đầu đã có một không khí thanh bình với những thành phố, thị xã, xóm, làng, ruộng đồng không còn bóng giặc, ai cũng biết chúng ra đi lần này sẽ khó còn dịp quay trở lại. Chiến thắng Biên Giới như một lời công bố trước quân xâm lược: thời kì làm mưa làm gió những binh đoàn cơ động chúng bay đã qua, từ nay kẻ bị đuổi đánh sẽ là bọn bay! Bộ đội ta sau nhiều ngày liên tục đánh địch đã quên mệt mỏi, nhanh chóng củng cố đơn vị, tràn đây không khí chiến thắng nô nức chuẩn bị về xuôi.

Nhưng thực ra so sánh lực lượng giữa ta và địch hoàn toàn chưa có những thay đổi lớn có lợi cho ta.

Cuối năm 1950, tổng quân số ta là gần 239.000 người, so với mùa hè thì lực lượng ta tăng nhanh. Nhưng cùng thời gian đó, lực lượng địch cũng tăng lên 239.000 người. Đây là năm duy nhất trong suốt ba mươi năm chiến tranh, về mặt quân số, lực lượng ta và địch có số lượng tương đương.

Lúc này, ta chỉ có hai Đại đoàn 308 và 304 đã được tổ chức xong cuối năm 1950. Bộ mới quyết định thành lập thêm Đại đoàn 312. Ta đang thành lập tiếp ba đại đoàn: 316, 320 và 325 và Đại đoàn công pháo 351, nhưng phải tới đầu năm 1951 mới triển khai. Việc trang bị vũ khí vẫn gặp nhiều khó khăn. Từ cuối tháng 10 năm 1950, Trung Quốc đã đưa chí nguyện quân sang chiến đấu ở Triều Tiên. Để trang bị cho 6 đại đoàn bộ binh của ta, nhu cầu vũ khí lên tới 1.200 tấn, nhưng trong năm 1951, bạn chỉ trao cho ta được 20%. Nguồn vũ khí lúc này một phần dựa vào bạn, nhưng chủ yếu vẫn là lấy của địch và do ta tự sản xuất.

Lực lượng tham gia chiến dịch Trung Du (lấy bí danh là chiến dịch Trần Hưng Đạo) gồm hai đại đoàn, 5 trung đoàn chủ lực, 4 đại đội pháo binh, các tiểu đoàn bộ đội địa phương và lực lượng dân quân du kích địa phương. Chiến dịch sẽ triển khai trên hai hướng: Hướng chính là vùng trung du Việt Trì tới Bắc Giang, đòn tiến công chủ yếu nhằm vào Vĩnh Yên, Phúc Yên, lực lượng có 2 đại đoàn. Hướng phụ là vùng duyên hải Đông Bắc, có 2 trung đoàn, và 3 trung đoàn của Liên khu 3.

Tổng tư lệnh trao đổi với trưởng đoàn Cố vấn Vi Quốc Thanh về những thuận lợi và khó khăn khi bộ đội trở về tác chiến ở trung du và đồng bằng. Đây là địa bàn rất mạnh của địch, vì chúng tập trung đông các binh đoàn cơ động, lực lượng cơ giới, pháo binh, không quân và hải quân. Bộ đội ta chưa quen chiến đấu ở địa hình không có chỗ ẩn náu, và chiến đấu vào ban ngày, trước đây thường hết sức tránh đánh lớn với địch ở đồng bằng.

Bạn giới thiệu với ta chiến dịch “bôn tập” của Giải phóng quân Trung Quốc. Bộ đội sẽ đóng quân cách địch 15 kilômét, ngoài tầm pháo của chúng, bất thần tiếp cận ban đêm, tiêu diệt quân địch và giải quyết chiến trường trong vài giờ, quay trở về căn cứ xuất phát khi trời sáng. Cách đánh này cho phép ta hạn chế hỏa lực máy bay, đại bác và quân viện của địch. Nhưng nó chỉ sử dụng được trong trường hợp đánh điểm. Nó rất phù hợp với cách đánh của ta từ trước tới nay là giải quyết gọn cứ điểm địch trong một đêm, hạn chế ưu thế áp đảo của máy bay và pháo, vô hiệu hóa lực lượng tăng viện của địch. Chỉ có khác là lần này đánh cứ điểm địch ở đồng bằng, phải tiếp cận địch từ xa hơn, bộ đội sẽ tiêu hao nhiều về thể lực.

Phái viên đi các đơn vị nắm tình hình trở về báo cáo với Chỉ huy trưởng chiến dịch (vẫn là Đại tướng Võ Nguyên Giáp): “Cán bộ tỏ vẻ không vui khi nghe phổ biến yêu cầu của đợt 1 chiến dịch là chỉ đánh một số cứ điểm đại đội hoặc đại đội tăng cường, mục tiêu của đợt 1 chiến dịch chỉ là tiêu diệt từ 2 đến 3 tiểu đoàn của địch”.

Chỉ huy trưởng mỉm cười nói:

- Đây là trung du, không phải Cao Bằng! Đánh trung du là đụng vào phòng tuyến vành ngoài bảo vệ Hà Nội. Cần xem địch phản ứng thế nào?

Những dải núi cao ở Tây Bắc đổ dần về châu thổ sông Hồng tới đây chỉ còn là những gò đồi trọc, cây cối lúp xúp, tiếp đến là những cánh đồng bằng phẳng chạy tít tắp đến chân trời.

Trong đợt 1, Bộ chỉ huy chiến dịch chủ trương chia lực lượng thành từng tiểu đoàn đứng trên địa bàn từng khu vực, cách vị trí địch từ 10 đến 15 kilômét, bôn tập đến tiêu diệt một số cứ điểm đột xuất trên tuyến trung du đối diện với ta.

Đại đoàn 308 hoạt động từ Bắc Giang đến Phúc Yên, phối hợp với dân quân, du kích địa phương phát triển chiến tranh du kích, đánh một số vị trí. Chỉ tiêu tiêu diệt địch từ 3 đến 5 đại đội.

Đại đoàn 312 (thiếu 1 trung đoàn) hoạt động từ Vĩnh Yên tới Việt Trì, phối hợp với bộ đội địa phương, dân quân du kích phát triển chiến tranh du kích, cô lập Vĩnh Yên – Việt Trì, có điều kiện thì tiêu diệt Vĩnh Yên. Chỉ tiêu diệt địch từ 2 tới 4 đại đội.

Các hướng phối hợp: Mặt trận Đông Bắc, Mặt trận Liên khu 3, Mặt trận Tả Ngạn, các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc…cùng chiến đấu phối hợp theo kế hoạch đã trao.

Thời gian nổ súng là đêm 26 tháng 12 năm 1951.

Người ta có thể thấy Tổng tư lệnh đã cân nhắc đến chừng nào sau khi vừa tiêu diệt hai binh đoàn Âu Phi của địch, trong chiến dịch Trung Du này chỉ đặt mục tiêu tiêu diệt từ 2 tới 3 tiểu đoàn địch trong đợt mở màn.

Sáng ngày 24 tháng 12, đại đoàn trưởng 312, đóng quân tại Liễn Sơn, Lập Thạch, Vĩnh Yên, gọi điện báo cáo với Chỉ huy trưởng chiến dịch:

- Một binh đoàn cơ động của địch đang tiến vào khu vực trú quân của chúng tôi. Tôi đoán đây là GM 3 của địch từ Vĩnh Yên lên. Xin mặt trận cho chúng tôi nổ súng đánh địch.

- Địa hình ở đó thế nào?

- Ở đây là vùng đồi cây cối lúp xúp có thể lợi dụng để tiếp cận quân địch.

- Cơ hội quá tốt! Đáng lẽ ta phải chọc cho nó ra, giờ nó lại tự dẫn thân đến nộp ta. Anh trực tiếp chỉ huy trận đánh này!

Về sau ta mới biết đây là cuộc hành binh Bécassine (Con dẽ giun) của địch nhắm vào vùng tự do của ta ở bắc Vĩnh Yên.

Lê Trọng Tấn sử dụng 3 tiểu đoàn, do mình trực tiếp chỉ huy diệt gọn một tiểu đoàn da đen

(1/24 RMTS) và tiêu hao nặng một tiểu đoàn khác. Địch bỏ chạy nhưng ta không truy kích.

Các đơn vị khác vẫn đánh theo kế hoạch. Trong ba đêm cuối tháng 12, Đại đoàn 308 tiêu diệt 7 cứ điểm địch tại Trung Du. Trung đoàn 209 đánh chợ Vàng hai lần không thành công. Các hướng phối hợp: Trung đoàn 174 tiêu diệt vị trí Bình Liêu. Bị uy hiếp mạnh. Bị uy hiếp mạnh địch, phải bỏ bốn vị trí quay về cố thủ ở Tiên Yên.

Ta kết thúc đợt 1 chiến dịch. Trong đợt này, ta tiêu diệt 1.200 tên địch trong đó ba phần tư là lính Âu Phi. Tinh thần địch sút kém, chống cự yếu ớt. Khi bị tiến công, chúng thường chui vào hầm cố thủ chờ quân viện tới. Có cứ điểm bao vây, địch kéo từng trung đội ra hàng. Có nơi, quân viện kéo tới thấy đồn đã bị tiêu diệt, lập tức rút chạy. Qua hỏi cung, binh lính ở trung du đều biết thất bại ở Biên Giới nên mất tinh thần chiến đấu. Đại đoàn 308 và trung đoàn 174 có nhiều tiến bộ trong chiến đấu công kiên, tiêu diệt nhiều vị trí đại đội, trên đại đội nhanh và gọn mặc dù vừa qua mười bốn ngày liên tục hành quân từ Cao Bằng về tới trung du là chiến đấu ngay.

Địch phán đoán ta sẽ đánh tiếp Bắc Ninh và Bắc Giang nên điều một số binh đoàn cơ động mạnh về hướng này. Chúng cảm thấy hướng đông bắc cũng bị uy hiếp mạnh, De Latour đã thay Alessandry làm tư lệnh Bắc Bộ, đề nghị Bộ Tổng chỉ huy cho rút miền duyên hải từ Tiên Yên đến Móng Cái. Đề nghị này không được chấp nhận. Đợt tiến công mới của ta khiến địch cảm thấy cả Hà Nội và Hải Phòng đều bị đe dọa.

Đê cứu vãn tình hình nguy ngập ở Đông Dương, chính phủ Pháp khẩn cầu tướng De Lattre de Tassigny sang Đông Dương. Delattre vốn đầy kiêu ngạo, tin rằng mình có khả năng khôi phục lại tình thế, thậm chí giành chiến thắng bằng cách giữ chắc đồng bằng Bắc Bộ và xây dựng một quân đội bản xứ thật mạnh với sự giúp đỡ của Mỹ. Ông ta muốn có thêm một đóng góp cuối đời với đế quốc Pháp.

De Lattre sang Đông Dương vào trung tuần tháng 12 năm 1950 với chức vụ Tổng chỉ huy kiêm Cao ủy quân viễn chinh. Lần đâu tiên, ở Đông Dương có một người Pháp kiêm cả hai chức vụ này.

De Lattre ra lệnh dừng tất cả các cuộc rút lui và quyết định cho Salan, trong bộ sậu mang theo từ Pháp, nắm ngay quyền chỉ huy Bắc Bộ từ tay De Latour. De latter điều từ Nam Bộ và Trung Bộ ra 3 tiểu đoàn bộ binh, 1 cụm pháo tăng cường cho Bắc Bộ. Y cho lệnh Salan lấy ngay từ đồng bằng Bắc Bộ 4 tiểu đoàn bộ binh, 1 binh đoàn cơ động, 1 dàn pháo tập trung vào Tiên Yên, Móng Cái để bảo vệ khu vực này bằng mọi giá. Riêng Hà Nội sẽ được bảo vệ bằng ba binh đoàn cơ động.

Sang đợt 2, Bộ chỉ huy chiến dịch hạ quyết tâm, trên hướng chính trung du, sẽ tiêu diệt thị xã Vĩnh Yên, là nơi binh đoàn cơ động số 3 của địch đang chiếm giữ. Binh đoàn này đã bị ta đánh thiệt hại nặng trong đợt 1. Vĩnh Yên cũng là nơi yếu hơn so với những nơi khác trên tuyến trung du. Ta vừa tiêu diệt cứ điểm vừa chuẩn bị đánh quân viện.

Ngày 10 tháng 1 năm 1951, tại Sở chỉ huy đóng ở Khuôn Chu, chân núi Tam Đảo, Bộ tổng tham mưu tổ chức hội nghị trao nhiệm vụ cho các đơn vị ở hướng chính.

Để nghi binh thu hút địch, trên hướng thứ yếu ở Bắc Ninh, Bắc Giang, các trung đoàn 98 và 174 nổ súng trước. 174 tiêu diệt đồn Đồng Kế, 98 đánh Cẩm Lý.

Đêm ngày 13 tháng 1, ở hướng chình, trung đoàn 141 của Đại đoàn 312 đánh vị trí Bảo Chúc nắm ở tây-bắc Vĩnh Yên 11 kilômét. Đây là cứ điểm mạnh có hai đại đội bảo vệ thị xã Vĩnh Yên. Quân địch ở Bảo Chúc chống giữ quyết liệt. Từ nửa đêm đến sáng, bộ đội ta mới mở hết hàng rào.

Sáng ngày 14, binh đoàn cơ động số 3 từ Vĩnh Yên chia làm 2 cánh lên cứu nguy cho Bảo Chúc. Tiểu đoàn 8 của địch đi đầu tới Thủy An gặp trung đoàn 209 đánh chặn, vội co về dãy đồi Cẩm Trạch chống đỡ. Nhưng tiểu đoàn đi sau của GM 3 vẫn tiếp tục dồn lên. Chờ đại bộ phận quân địch lọt vào khu vực dự kiến, các trung đoàn 36 và 88 nhanh chóng xuất kích, vừa vận động tiếp cận vừa hình thành thế bao vây và chia cắt. Bộ đội ta và quân địch quần nhau trên cánh đồng giữa vùng gò đồi trống trải. Quân địch có máy bay và pháo binh yểm trợ nhưng lâm vào thế bị động ngay từ đầu, chúng dần dần tan vỡ. Địch quay đầu chạy về Vĩnh Yên. Bộ đội ta truy kích đến gần Vĩnh yên thì dừng lại vì trời đã tối.

Đêm 14 tháng 1, qua tin kỹ thuật, Bộ chỉ huy chiến dịch được biết quân địch ở thị xã Vĩnh Yên rất hoang mang. Chỉ huy trưởng điện cả cho Vương Thừa Vũ và Lê Trọng Tấn hỏi xem có điều được một trung đoàn nào đánh chiếm thị xã Vĩnh Yên ngay trong đêm. Cả hai đại đoàn trưởng đều nói từ sau khi truy kích quân địch, đại đoàn không nắm được đơn vị nào.

Ngay đêm 14 tháng 1, binh đoàn cơ động số 4 của địch ở Lục nam và binh đoàn cơ động số 1 ở Đáp Cầu đã được điều lên Vĩnh Yên. Riêng thị xã Vĩnh Yên, binh đoàn số 3 được tăng cường thêm một tiểu đoàn dù.

Sáng ngày 15 tháng 1, các binh đoàn cơ động của địch từ ngoài đánh vào, từ trong đánh ra phối hợp giải vây thị xã Vĩnh Yên. Binh đoàn cơ động số 1 bị trung đoàn 102 đánh chặn tại Ngoại Trạch, Khai Quang, Mậu Thông (đông nam thị xã Vĩnh Yên ). Trận đánh diễn ra quyết liệt suốt ngày. Cùng ngày, Bộ chỉ huy chiến dịch được tin De Lattre từ Sài Gòn cấp tốc ra Hà Nội và cùng Salan lên thị xã Vĩnh Yên đốc chiến.

Sáng 16 tháng 1 năm 1951, các binh đoàn cơ động của địch dưới sự yểm trợ mạnh mẽ của máy bay và pháo binh, cơ giới tiến lên phía bắc Vĩnh Yên chiếm các cao điểm 40, 42, 101, 210 (Núi Đanh). Đồng thời De Lattre cấp tốc điều 5 tiểu đoàn từ Trung và Nam Bộ ra theo đường hàng không để tăng viện thêm cho Bắc Bộ.

Trong ngày 16 tháng 1, Đại đoàn 308 và trung đoàn 209 phối hợp đánh địch ở phía đông và phía bắc Vĩnh Yên. Ta đánh bật địch khỏi các cao điểm 40, 42, 101. Riêng cao điểm 210 do binh đoàn cơ động số 3 của địch chiếm giữ, trung đoàn 209 và một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 36 đã bốn lần xung phong không thành công. Địch phát huy cao độ các loại binh khí kỹ thuật. Nhiều trận địa pháo, xe tăng, máy bay bắn phá, ném bom kể cả bom cháy (napalm) vào các trận địa của ta rất ác liệt ngăn chặn quân ta tiến công. Bộ đội ta lần đầu gặp bom cháy của địch đối phó rất lung túng. Nhận thấy lực lượng địch được tăng cường, lực lượng ta bị tiêu hao không còn ưu thế nữa, chiều 16 tháng1, Chỉ huy trưởng chiến dịch ra lệnh lui quân và sau đó kết thúc chiến dịch.

Kết quả chung của chiến dịch Trung Du: Hướng chủ yếu ta tiêu diệt khoảng 5.000 địch. Kể cả các chiến trường phối hợp ta tiêu diệt 7.650 tên. Ta diệt gọn 6 tiểu đoàn, trong đó có 3 tiểu đoàn cơ động, tiêu diệt 30 vị trí (có 10 vị trí từ một đại đội trở lên). Vũ khí thu được đủ trang bị cho một trung đoàn mạnh. Ta giải phóng ba huyện: Đa Phúc (Vĩnh Phúc), Bình Liêu, Hoành Bồ (Hải Ninh).

Thiệt hại của ta ở hướng chính gồm: 675 người hy sinh, 1.730 người bị thương, 80 người mất tích. Kể cả hướng phối hợp ( Đông Bắc và Sơn Tây), thiệt hại của ta là 2.931 người, trong đó có 815 đồng chí hy sinh còn lại là bị thương và mất tích.

Tỷ lệ thiệt hại ở hướng chính: địch 2, ta 1.

Cuộc họp Đảng ủy và chỉ huy các đại đoàn ngày 20 tháng 1 năm 1951 đánh giá: “Chiến dịch Trung Du đã đạt được mục đích tiêu hao sinh lực địch còn việc mở rộng khu lương thực và phát triển du kích chiến tranh chỉ làm được một phần nào”.

Chiến dịch Trung Du đã mang lại cho Tổng tư lệnh bài học lớn về cách đánh giá địch khi chúng ở đồng bằng và rừng núi.

Tại địa hình đồng bằng, địch phát huy được toàn bộ tính năng các binh khí kỹ thuật chúng có, do đó sức mạnh của chúng tăng lên nhiều lần. Thị xã Vĩnh Yên đêm hôm trước bị cô lập, chồng chất binh lính bị thương, chỉ qua một đêm, sáng hôm sau đã trở thành một chiến trường đầy ắp quân địch, không chỉ đồn binh thị xã được tăng cường mà có thêm nhiều binh đoàn cơ động ở chung quanh sẵn sang ứng chiến với ta. Trên chiến trường này mới thấy rõ nhược điểm lớn của bộ đội ta là một đơn bị bộ binh đơn thuần, di chuyển bằng đôi chân, không có súng chống tăng, đặc biệt là không có súng phòng không để đối phó với máy bay địch được huy động tới mức tối đa. Bộ đội ta lần đầu trực tiếp đối đầu với quân địch trong một trận đánh ban ngày tại đồng bằng, chưa có biện pháp hạn chế sức mạnh binh khí kỹ thuật của địch. Tại chiến trường Trung Du, địch không chỉ sử dụng lực lượng tại chỗ mà tập trung tối đa lực lượng của chúng ở cả ba miền để đối phó với quân ta. Và phải kể đến việc có mặt của viên tướng 5 sao De Lattre, với quyền lực Tổng chỉ huy kiêm Cao ủy đã có thể huy động bất cứ thứ gì cần để lật lại tình thế và với uy tín của riêng mình đã vực lại được tinh thần của đội quân viễn chinh trước đó đang rất hoang mang.

❖ 2 ❖

Theo kế hoạch, sau chiến dịch Trung Du ta sẽ mở tiếp chiến dịch tại Liên khu 3. Khi chiến dịch Trung Du sắp kết thúc, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết thư gửi Trung ương Đảng và Bác: " Trước đây Trung ương Đảng đã quyết định sau chiến dịch Trung Du thì xuống Liên khu 3. Nhưng cũng có ý kiến đánh ở trung du một lần nữa ở hướng Lục Nam, Phủ Lạng Thương… Phòng tuyến Trung Du của địch đã củng cố nhưng là chiến trường quen thuộc có lợi về cung cấp, còn Liên khu 3 có lợi về địch (kẻ địch yếu hơn), nhưng cung cấp khó, vận chuyển bộ đội xa, địa hình phía nam có nhiều sông nước chia cắt…”. Anh đề nghị nên chuyển sang hướng đông bắc, nơi có các con đường 13 và 17, 18 nhằm mục đích tiêu diệt địch và phát triển chiến tranh nhân dân.

Có thể thấy ở đây, Tổng tư lệnh đã tránh đề cập tới vấn đề chính: với trang bị chiến đấu và trình độ tác chiến của bộ đội ta hiện nay, không có khả năng đương đầu với địch hiệu quả ở đồng bằng. Đây sẽ là vấn đề rất lớn. Chúng ta đang chuyển sang thời kỳ tổng phản công, quân địch sẽ tập trung ngày càng nhiều ở đồng bằng, nếu không đánh địch ở đồng bằng thì đánh đâu? Anh thấy cần cân nhắc, suy nghĩ kỹ thêm trước khi trình bày với Trung ương. Anh là người được Trung ương phân công phụ trách về quân sự. Anh không được phép nói khó khăn trong phạm vi mình phụ trách trước khi đã tìm ra giải pháp, hay ít nhất cũng là phương hướng giải quyết vấn đề.

Đề nghị của anh chuyển hướng sang đông bắc là nơi địch yếu, nơi ta ít hoạt động, cách bố trí của địch còn sơ hở, lại nằm gần những thành phố, cơ sở công nghiệp quan trọng của địch, sẽ tạo điều kiện đánh điểm diệt viện để giành một vài thắng lợi vang dội.

Từ chiến dịch Biên Giới, cách đánh của ta đã thay đổi. Trước đây, lực lượng còn yếu, bộ đội ta đã tránh những binh đoàn tập trung của địch, nhưng ngày nay, ta đã tìm cách hút quân viện địch tới và dùng sức mạnh để tiêu diệt. Trong chiến dịch này, một tình hình mới đã xuất hiện, khi ta thu hút được những viện binh tinh nhuệ của địch tới, ta chỉ tiêu diệt được một số, sau đó chính chúng lại gây thiệt hại cho ta. Ta đã nhận thấy một bất lợi lớn của bộ đội ta tại đây là cuộc chiến diễn ra trên địa hình đồng bằng, nơi địch có thể phát huy tối đa sức mạnh binh khí kỹ thuật. Anh hy vọng địa hình rừng núi Đông Bắc sẽ là nơi thuận lợi để phát huy cách đánh của ta.

Đề nghị của Tổng tư lệnh được chấp thuận. Trung ương quyết định mở chiến dịch Đông Bắc, lấy bí danh là Chiến dịch Hoàng Hoa Thám . Đại Tướng Võ Nguyên Giáp vẫn là Bí thư Đảng ủy kiêm Chỉ huy trưởng chiến dịch.

Trong hai ngày 9 và 10 tháng 2 năm 1951, Đảng ủy chiến dịch họp ở Điềm Mạc (Định Hóa). Nhiệm vụ chiến dịch đề ra là: tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, từ 6 tới 8 tiểu đoàn, phá kế hoạch chuẩn bị phòng ngự của địch; đẩy mạnh chiến tranh du kích.

Ta mong tổ chức được một số trận đánh viện trên đường 17 và 18, nhưng chưa dự kiến được cách đối phó của địch ra sao, nên phương châm tác chiến lúc đầu là: “Đánh công kiên, đánh vận động ngang nhau”, sau đó điều chỉnh tùy theo tình hình phát triển của chiến dịch. Cơ quan tham mưu đề xuất hai phương án để Bộ lựa chọn. Phương án 1: lấy đường số 17 và 18 làm hướng chính, hướng phụ là đường số 13. Phương án 2 lấy đường số 13 làm hướng chính, hướng phụ là đường số 17 và 18. Trong trường hợp, địch đưa nhiều viện binh tới sẽ chọn quãng Đông Triều – Uông Bí là nơi tiêu diệt địch.

Đảng ủy quyết định chọn hướng chính của chiến dịch là đường 18, đoạn từ Bãi Thảo đến Uông Bí, dài 50 kilômét. Tại vùng này, địch có 3 phân khu: Núi Đèo, Quang Yên, Phả Lại hình thành tuyến phòng thủ đường 18, bảo vệ vòng ngoài cho Hải Phòng, Hải Dương và đường số 5. Lực lượng địch trong khu vực, kể cả quân chiếm đóng và quân cơ động là 11 tiểu đoàn, trong đó có binh đoàn cơ động số 7 đứng chân tại Phả Lại, thuộc lực lượng cơ động chung của địch. Do vị trí quan trọng của đường 18 nên khi bị tiến công có nhiều khả năng địch sẽ tăng viện nhanh và mạnh cả bằng đường bộ, đường thủy, đường không. Địa hình ở đây là rừng núi đan xen với ruộng đồng, nhiều sình lầy mọc đầy sú vẹt sẽ cho phép ta đánh vận động lớn tiêu diệt quân địch.

Mở đầu chiến dịch, ở các hướng phối hợp, Đại đoàn 304 đánh địch từ Phú Yên tới Việt Trì, Đại đoàn 320 đánh địch ở Sơn Tây, Hà Đông, Liên khu Việt Bắc tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh du kích ở Trung Du và Đông Bắc, Liên khu 3 đẩy mạnh chiến tranh du kích ở Tả Ngạn và Hữu Ngạn. Ta chủ trương tạo thế uy hiếp cùng một lúc hai thành phố Hải Phòng và Hà Nội.

Thời gian chiến dịch dự tính là một tháng.

Lực lượng tham gia ở hướng chính Đông Bắc gồm hai đại đoàn: 318, 312, 2 trung đoàn: 174, 98, cùng 4 liên đội sơn pháo 75 ly.

Quân số ở hướng chính của ta là gần 26.000 người. Cùng đi ra mặt trận có 30.000 dân công. Mọi người đều mang vác nặng. Mỗi chiến sĩ có 30 kilôgam súng đạn, thuốc nổ, lương thực trên vai. Dân công vận chuyển gạo, đạn còn phải mang nặng hơn. Bộ đội và dân công tuy xuất phát từ nhiều hướng nhưng vẫn tạo ra dòng người nhiều vô tận không qua mắt được quân địch.

Ngày 19 tháng 3 năm 1951, Salan được tin hai Đại đoàn 308, 312 cùng với hai trung đoàn của Đại đoàn 316 đã tập trung tại dãy núi Đông Triều. Ở phía Tây, hai Đại đoàn khác là 320 và 304 đang hình thành một gọng kìm đe dọa Hà Nội.

Từ đầu năm 1951, De Lattre đã xin tăng viện 11 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh và một số máy bay thám thính. Hội đồng Tham mưu trưởng Pháp không đồng ý. Nhưng tướng Juin (Gioăng), toàn quyền Bắc Phi, đã cho điều số quân này từ Bắc Phi sang Đông Dương. Ngày 19 tháng 3 năm 1951, ta được tin 15.000 viện binh Pháp đã tới Sài Gòn.

Trước đây, hướng Đông bắc không phải là nơi được Bộ Tổng tham mưu chú ý nên hiểu biết của ta về chiến trường này còn rất sơ sài. Các đơn vị đi trinh sát về báo cáo địa hình đường 18 trong thực tế trống trải, chật hẹp, khó tập kết, khó giấu quân.

Đảng ủy chiến dịch quyết định mở đầu chiến dịch bằng đánh một loạt vị trí bảo vệ hệ thống dẫn nước ngọt duy nhất từ Vàng Danh về Hải Phòng, cắt con đường Quảng Yên đi Uông Bí, đồng thời bố trí hai trung đoàn phục kích tại đây để diệt quân viện. Có thể thấy cách dùng binh của ta từ khi chuyển từ biên giới về đồng bằng, trái với tinh thần cực kỳ hào hứng của bộ đội sau chiến thắng lớn, vẫn hết sức thận trọng, cân nhắc.

Đêm 23 tháng 3 năm 1951, mở đầu chiến dịch. Trong một đêm, toàn bộ những bốt bảo vệ hệ thống dẫn nước ngọt từ Vàng Danh về Hải Phòng đều bị tiêu diệt.

Ba ngày không thấy quân viện của địch xuất hiện.

Bộ chỉ huy chiến dịch hạ lệnh đánh những cứ điểm lớn hơn (từ đại đội trở lên). Trung đoàn 102 của Đại đoàn 308 tiêu diệt vị trí Bí Chợ, tây- nam Uông Bí 15 kilômét. Trung đoàn 141 của Đại đoàn 312 tiêu diệt vị trí Tràng Bạch, tây- nam Uông Bí 18 kilômét. Khắp khu vực sông Bạch Đằng và sông Kinh Thầy, nhân dân đánh trống, đánh mõ suốt đêm uy hiếp quân địch. Các cầu trên đường 18 đều bị phá sập. Đường 18 bị cắt đứt một quãng dài trên 40 kilômét. Hải phòng và Đông Triều đều bị uy hiếp.

Nhưng vẫn không thấy quân viện của địch.

Ngày 28 tháng 3, cơ quan tham mưu của ta được tin De Lattre mới từ Pháp sang, đã ra thị sát mặt trận Đông Bắc. Địch đã cho tăng thêm quân bảo vệ Đông Triều, Mạo Khê. Địch đẩy mạnh việc sử dụng máy bay, pháo binh mặt đất và pháo trên hạm tàu đậu ở sông Đá Bạc bắn phá mãnh liệt, chi viện cho các đồn bốt bị tấn công.

Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh đánh tiếp một số vị trí quan trọng là Uông Bí, Mạo Khê Mỏ và Mạo Khê Phố.

Trưa 28 tháng 3, địch ở Uông Bí rút chạy. Trung đoàn 174 phục kích thiếu chặt chẽ để địch chạy thoát.

Đêm ngày 28 tháng 3, Trung đoàn 209 của Đại đoàn 312 và trung đoàn 36 của Đại đoàn 308 đồng thời đánh Mạo Khê Mỏ và Mạo Khê Phố. Tại Mạo Khê Mỏ, trung đoàn 209 chỉ tiêu diệt được một bộ phận quân địch rồi phải rút vì pháo địch ngăn chặn quá mạnh. Tại Mạo Khê Phố, trung đoàn 36 được báo cáo là do một đại đội địch chiếm giữ, nhưng khi đột nhập thì quân địch vừa được tăng viện thêm tiểu đoàn dù lê dương số 2 ( 2è BEP). Bộ chỉ huy chiến dịch đã lệnh cho trung đoàn 36 ngừng trận đánh, nhưng lệnh không kịp tới nơi. Trung đoàn 36 chiến đấu gần tới sáng, thấy địch còn rất đông, phải rút lui.

Nhận thấy địch trên đường 18 được củng cố, đánh tiếp không có lợi, Bộ chỉ huy chiến dịch cho kết thúc đợt 1.

Đợt 2, Bộ chỉ huy chiến dịch chuyển hướng sang đường 17. Ta định đánh Đông Triều, nhưng được tin địch đã tăng cường cho Đông Triều hai tiểu đoàn và một bộ phận binh đoàn cơ động số 4 đã về Phả Lại, ta bỏ mục tiêu này. Bộ chỉ huy chiến dịch chọn hướng tây bắc Đông Triều và trao nhiệm vụ cho các đơn vị tiêu diệt các vị trí: Bến Tắm, Bãi Thảo, Hoàng Gián, Hạ Chiêu. Đêm 4 tháng 4, cả bốn trung đoàn đánh điểm đều đột phá không thành công. Đặc biệt, trong các trận đánh, các cứ điểm địch chỉ được bảo vệ bằng pháo từ xa, địch kiên quyết không đưa quân tăng viện tới.

Thấy tình hình tiến triển không thuận lợi, Tổng tư lệnh quyết định kết thúc chiến dịch.

Bộ chỉ huy chiến dịch đánh giá: “ Ta không hoàn thành nhiệm vụ chiến dịch”.

Bộ tổng tham mưu tự kiểm điểm nghiêm khắc, nêu lên nhiều thiếu sót: Chuẩn bị chiến trường thiếu chu đáo, đơn giản. Nắm địch không chắc: địch tăng quân, chuyển quân đều không nắm được, đánh giá địch thấp. Nắm tình hình chiến đấu của ta cũng không chắc. Chuyền đạt mệnh lệnh không kịp thời. Vận dụng chiến thuật thiếu cụ thể…

Nhưng Tổng tư lệnh thấy những khuyết điểm của cơ quan tham mưu trong chiến dịch này không thật đặc biệt, nó chỉ phản ánh trình độ một cơ quan chuyên môn chưa được đào tạo về cơ bản, vừa làm vừa học, nên nhược điểm nổi lên trong trường hợp khẩn trương, và cũng thường được bỏ qua trong trường hợp chiến dịch giành thắng lợi.

Anh thấy chiến dịch không thành công chủ yếu vì trong tư tưởng của người chỉ huy định giành thắng lợi bằng chiến thuật “ đánh điểm diệt viện”, nhưng quân địch không tới những nơi tình hình bất lợi cho chúng, nói cách khác: địch đã không mắc mưu ta.

Ta đã khai thác những nhược điểm nhạy cảm của địch, thử mọi cách từ đánh nhỏ đến đánh lớn, từ phục kích đến bao vây, nhưng tuyệt đối quân địch không nhúc nhích. Chúng đã biết tránh bài học thất trận bi thảm ở chiến dịch Biên Giới, nhất định không chịu chấp nhận chiến đấu với ta ngoài công sự trên địa hình bất lợi. Khi ta bất đắc dĩ phải chuyển sang đánh địch bằng công kiên, vẫn với mục đích kéo viện của địch lên, chúng vẫn kiên quyết không chịu đưa bộ binh tới, chỉ tận dụng hỏa lực pháo binh mặt đất, hạm tàu tạo nên một hàng rào lửa dày đặc để ngăn chặn các đợt tiến công của bộ đội ta. Đây chính là nguyên nhân đã đưa ta đến thất bại trong chiến dịch này. Và đây sẽ là một trở ngại lâu dài đối với bộ đội ta.

3

Như đã nói ở trên, từ đầu tháng 1 năm 1951, Trung ương Đảng đã có chủ trương mở tiếp một chiến dịch ở Liên khu 3 sau chiến dịch Trung Du. Chiến dịch đặt bí danh Quang Trung. Từ đó, Liên khu đã khẩn trương chuẩn bị. Đồng chí Văn Tiến Dũng được cử làm Trưởng ban chuẩn bị chiến trường Liên khu 3. Mọi mặt công tác tiến hành rất tích cực. Mạng đường sá từ Phú Thọ về Rịa, từ Rịa vào Thanh Hóa đã thong suốt. Từ Dốc Cun ( đường 12 ) tới Hòa Bình, xe ô tô con đã đi được. Các con sông nhỏ đều lắp cầu phao. Về lương thực, đã huy động 5.000 tấn thóc, một số thực phẩm. Các kho đã bố trí. Liên khu ủy mở lớp cán bộ phục vụ chiến dịch gồm 200 chi ủy viên và huyện ủy viên.

Đầu tháng 4 năm 1951, Bộ Tổng tham mưu tổ chức thảo luận về kế hoạch chiến dịch mở ở Liên khu 3. Đồng chí Tổng tư lệnh vừa đi từ Đông Bắc về, ghé vào tham dự thảo luận. Cán bộ Bộ Tổng tham mưu đi chuẩn bị ở Liên khu 3 về báo cáo tình hình rất thuận lợi, địch tại đây yếu. Riêng Ninh Bình là nơi địch yếu và hở hơn cả, lại xa căn cứ chính,các đồng chí lãnh đạo ở Liên khu đều muốn chọn làm địa bàn để mở chiến dịch Nhân dân Liên khu 3 nức lòng đón chờ bộ đội về.

Bộ Tổng tham mưu tổng hợp tình hình đề đạt kế hoạch tác chiến lên Tổng quân ủy. Sau chiến dịch đường 18, tình hình địch ở Đông Dương chưa có gì thay đổi lớn. Địch vẫn chú trọng củng cố phòng tuyến Trung Du, bố trí những binh đoàn cơ động mạnh và tăng cường binh khí kỹ thuật. Ở Liên khu 3, địch yếu hơn, thành phần ngụy binh nhiều, quân cơ động ít, thế bố trí phân tán, tuyến ngoài mạnh nhưng bên trong sơ hở, công sự chưa được củng cố nhiều, binh khí kỹ thuật ít. Địch lợi dụng phòng tuyến thiên là sông Hồng và sông Đáy để tổ chức phòng ngự. Nhìn riêng Liên khu 3,địch mạnh ở Sơn Tây và Hà Đông, còn Hà Nam, Ninh Bình và Nam Định, địch yếu hơn cả.

Về phía ta, các Đại đoàn chủ lực 308, 312 và trung đoàn 174 đã tham gia ba chiến dịch liên tiếp có nhiều cán bộ, có kinh nghiệm chiến đấu. Nhưng bộ đội bị mệt mỏi, lực lượng bị tiêu hao, bổ sung nhiều tân binh, cán bộ mới đề bạt nhiều chưa có thời gian bồi dưỡng. Về những đại đoàn đang được xây dựng, Đại đoàn 320 chưa được trang bị thêm, Đại đoàn 304 vừa được trang bị xong nhưng cả hai đại đoàn này đều chưa qua huấn luyện chiến thuật, ký thuật mới. Qua chiến dịch Trung Du, xuất hiện tư tưởng ngại chiến đấu ở đồng bằng.

Ngày 20 tháng 4 năm 1951, Trung ương Đảng ra nghị quyết chính thức mở chiến dịch ở Liên khu 3 ( còn được gọi là Chiến dịch Hà Nam Ninh ) nhằm: Tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch. Phá tan khối ngụy quân. Đẩy mạnh chiến tranh du kích. Tranh thủ nhân dân, giải quyết một phần lương thực.

Về nhiệm vụ của chiến dịch, như Nghị quyết của Trung ương Đảng ngày 20-4-1951 xác định. Bộ Tổng tham mưu xác định chỉ tiêu diệt địch là 3 tiểu đoàn.

Ngày 4 tháng 5 năm 1951, Ban chấp hành trung ương Đảng chỉ định Đảng ủy chiến dịch gồm 7 người, vẫn do đồng chí Võ Nguyên Giáp làm bí thư Đảng ủy kiêm Chỉ huy trưởng chiến dịch.

Lực lượng sử dụng trong chiến dịch là đại đoàn 308, Đại đoàn 304, Đại đoàn 320 và các lực lượng địa phương ba tỉnh: Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình.

Đại đoàn 308 sẽ phải trải qua một chặng đường hành quân 400 kilômét từ Bắc Giang qua Thái Nguyên, Phú Thọ, Hòa Bình tới Ninh Bình. Đại đoàn 304 đang tập kết ở Tây Nam Ninh Bình, và Đại đoàn 320 tập kết ở Tây Nam Ninh Bình, và Đại đoàn 320 tập kết ở khu vực Bồng Lạc, Hà Nam chỉ phải di chuyển ngắn.

Ba tỉnh Hà –Nam- Ninh thuộc Liên khu Nam đồng bằng, địch có 4 tiểu đoàn và 27 đại đội chiếm đóng, chủ yếu là quân ngụy. Một tiểu đoàn cơ động chiến thuật ( thuộc 6è RIC ) bố trí ở Nam Định. Địch đóng trên 100 vị trí, có 20 vị trí cỡ đại đội. Riêng Ninh Bình có khoảng 50 vị trí, trong đó có 9 vị trí cỡ đại đội. Địch phán đoán được phần nào hướng chiến dịch ta sẽ mở nên đã huy động lực lượng tăng cường thêm cho Sơn Tây và Hà Đông. Một bộ phận binh đoàn cơ động số 4 đã về Phủ Lý. Tuyến sông Đáy từ Phủ Lý trở lên được phòng ngự nghiêm mật.

Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái nói với cán bộ về vận dụng chiến thuật ở vùng đồng bằng ruộng nước, yêu cầu cán bộ phải linh hoạt thích ứng với điều kiện địa hình và địch tình. Cần thấy hết khó khăn tác chiến ở vùng đồng bằng ruộng nước, có nhiều sông ngòi chia cắt, mục tiêu dễ bộc lộ, rất khó giữ bí mật, tình hình thay đổi nhanh chóng dễ mất thời cơ, địch rất thuận lợi trong phát huy uy lực của binh khí kỹ thuật. Về chiến thuật, cần vận dụng cách bôn tập cường kích, mạnh dạn đánh vào chỗ quan trọng của địch, chia cắt các chỗ yếu, bao vây tiêu diệt. Bộ đội phải trong bị gọn nhẹ, mang theo trong người những vũ khí đạn dược cần thiết. Phải cảnh giới nghiêm ngặt đề phòng địch ở các hướng tăng viện tới theo đường bộ và đường sông. Không nhất thiết cứ thấy quân viện địch xuất hiện là vận động tiêu diệt. Ta chỉ vận động đánh viện binh địch khi nhận thấy điều kiện có lợi để tiêu diệt.

Chỉ huy sở chiến dịch được chuyển về thôn Á (tây bắc Nho Quan 10 kilômét).

Đêm 28 tháng 5, được quân báo địa phương dẫn đường, tiểu đoàn 79 thuộc trung đoàn 102 tiêu diệt một đại đội thủy quân lục chiến mới về đóng tại nhà thờ Đại Phong trong thị xã Ninh Bình.

Đêm 29 tháng 5, trung đoàn 102 tiêu diệt hai vị trí Non Nước và Gối Hạc. Hai vị trí ở cách nhau khoảng 200 mét, thiết lập trên núi đá cao để bảo vệ thị xã Ninh Bình. Lực lượng của địch ở mỗi vị trí đại đội. Trận đánh diễn ra trong các đêm 28 và 29 tháng 5 hoàn toàn bất ngờ với địch. Sau khi hai vị trí Non Nước và Gối Hạc bị tiêu diệt, suốt đêm qua tin kỹ thuật, ta biết địch đang tìm kiếm một người có tên là Bernard mất tích. Tổng tư lệnh chỉ thị cho các đơn vị xác minh xem có phải Bernard là một sĩ quan cao cấp của địch không. Sau đó ta mới biết đó là: trung úy Bernard, con trai duy nhất của De Lattre de Tassigny, bị chết trong trận Gối Hạc.

Trưa 30 tháng 5, địch dùng 2 tiểu đoàn dù và 1 tiểu đoàn ngụy phản kích chiếm lại Non Nước và gối Hạc.

Cùng thời gian, Đại đoàn 304 hoạt động trên đường 59 tiêu diệt được 4 vị trí nhỏ.

Địch thận trọng điều từng đại đội, tiểu đoàn tăng viện trợ cho Ninh Bình. Sau ba ngày, hai binh đoàn cơ động số 1 và số 4 được đưa về Hà Nam và Ninh Bình để đối phó với ta. Địch phát huy cao độ vai trò cỉa binh khí kỹ thuật, dùng máy bay, pháo bắn mặt đất, pháo hạm tàu trên sông bắn phá ngăn chặn quân ta phát triển, tránh đưa bộ binh trực tiếp đối đầu với ta.

Ngày 1 tháng 6 năm 1951, Đảng ủy chiến dịch quyết định mở đợt 2 chiến dịch.

Đêm 4 tháng 6, trung đoàn 88 thuộc Đại đoàn 308 đánh vị trí Chùa Cao không thành công.

Ngày 5 tháng 6, trung đoàn 88 đánh Chùa Cao lần thứ hai, vẫn không thành công và chịu đựng nhiều tổn thất.

Cũng đêm đó, trung đoàn 36 chuẩn bị đánh Hoàng Đan nhưng do hiệp đồng không thông suốt, thiếu thuyền vượt sông. Ngày hôm sau, được tin địch đã tăng cường cho vị trí này, Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh ngừng trận đánh.

Quân địch lúc này đã được tăng viện và củng cố, thế phát triển của ta khó, bộ đội ta lại tiêu hao, mệt mỏi, Đảng ủy chiến dịch quyết định cho bộ đội nghỉ ngơi củng cố một thời gian, mỗi đại đoàn cử một trung đoàn phối hợp với bộ đội địa phương phân tán hoạt động đẩy mạnh chiến tranh du kích.

Địch biết rõ lúc này một lực lượng đông đảo bộ đội ta đang tập trung ở vùng núi đá chung quanh thị xã Ninh Bình. Chúng rất tránh đi vào vùng này.

Ngày 20 tháng 6 năm 1951, Đảng ủy quyết định kết thúc chiến dịch.