Chương IX HAI MẶT TRẬN
❖ 1 ❖
Những người làm việc gần Tổng tư lệnh lâu năm biết anh không bao giờ hài lòng với sự chuẩn bị cho một trận đánh. Anh tin là luôn luôn có những điều mình không chờ đợi, hoặc không biết, đang chờ đợi mình nằm ở phía trước. Sự lo xa đã giúp anh tránh được sự bất ngờ khi những tình huống phức tạp xuất hiện. Và khi thắng trận, anh cũng không bao giờ bị cuốn theo niềm vui vì tin là khó khăn phía trước vẫn còn nhiều.
Anh đã dự đoán được nhiều khó khăn đang chờ mình ở đồng bằng, nhưng không ngờ những trở ngại lại nhiều đến thế. Bộ đội ta đã chiến đấu với tinh thần của những người vừa chiến thắng. Những sĩ quan Pháp ngồi trên máy bay đã ngạc nhiên nhìn thấy những người chiến sĩ áo xanh mang lá ngụy trang lúc thì bám chắc những quả đồi, những chiến hào trên cánh đồng, lúc thì ào ạt tiến lên không lùi bước trước biển hỏa của bom đạn. Nhưng ở cương vị của người chỉ huy, anh không thể lạm dụng tinh thần quả cảm của bộ đội khi nó không đem lại hiệu quả trên chiến trường. Địa hình trung du đã mang lại cho binh đoàn cơ động địch cơ hội hiệp đồng chiến đấu với máy bay, xe tăng thành một sức mạnh mà ta chưa hề gặp. Anh đã phải nhiều lần kết thúc sớm những trận đánh, những chiến dịch để tránh những tổn thất đáng tiếc.
Từ ngày khởi đầu chiến tranh, bộ đội chủ lực của ta chưa bao giờ trong một năm mở liền bốn chiến dịch. Sau chiến thắng vang dội tại Biên Giới là chiến dịch Trung Du không suôn sẻ. Anh hy vọng chiến dịch Đông Bắc với địa hình rừng núi, bộ đội ta sẽ giành được một thắng lợi để cứu vãn lại tình hình nhưng lại gặp điều tệ hại hơn. Anh phải mở tiếp chiến dịch Hà Nam Ninh để tìm hiểu đến tận cùng khả năng đưa quân đội ta sang một bước mới của chiến tranh, đưa bộ đội về tác chiến với quân địch tại đồng bằng.
Về sau này, khi ta đọc sách của phương Tây mới biết ba chiến dịch của Việt Minh tiếp theo chiến dịch biến giới đã đẩy De Lattre vào thế phải xoay trở đối phó bị động trên toàn chiến trường miền Bắc gần hết năm 1951. Nhưng với Tổng tư lệnh thì cuộc rút quân lần này hết sức nặng nề. Mọi người đều thấy ta đã thua trong ba chiến dịch này, không riêng vì địa hình đồng bằng là nơi địch có thể phát huy tối đa sức mạnh của vũ khí và tính cơ động, ta còn thua cả về cách sử dụng chiến thuật. Và cuối cùng ta chưa thể giải đáp được câu hỏi lớn hiện nay: có cách nào để đưa bộ đội tiến lên, chuyển sang giai đoạn mới được không? Câu trả lời là: Chưa.
Ở đây, cũng nên nói tới vai trò của tướng 5 sao De Lattre. Ông ta là một kẻ cuồng tín trong việc sử dụng mọi quyền hạn của mình để giành thắng lợi trong cuộc chiến. Ông ta cũng là người có biệt tài trong việc khôi phục lại tinh thần của một đội quân chiến bại. Điều De Lattre làm được thật ra không phải là một phép thần kỳ. Ông ta chỉ tập trung tối đa những phương tiện, sức mạnh, sức cơ động của một quân đội hiện đại: máy bay, xe tăng, bom phá, bom napan để đánh vào một đội quân đơn thuần bộ binh, di chuyển chân đất, không có súng chống tăng và súng phòng không.
Ba chiến dịch mở ở trung du và đồng bằng không thành công đã giúp địch thoát khỏi thế hiểm nghèo, củng cố lại tinh thần, chuẩn bị những biện pháp mới để đối phó với ta.
Đây là những ngày khá căng thẳng trong cơ quan chỉ huy. Tỉ lệ thương vong giữa ta và địch trong ba chiến dịch được coi là những tổn thất nặng nề. Nhưng đối với Tổng tư lệnh, nặng nề hơn vẫn là câu hỏi: bao giờ ta mới có khả năng đối phó với quân địch trên chiến trường đồng bằng? Nếu ngày đó còn xa thì tương lai của cuộc kháng chiến sẽ ra sao? Câu hỏi lớn này sẽ còn day dứt anh trong suốt cả cuộc chiến tranh chống Pháp.
Tổng tư lệnh đã nhiều lần trao đổi với Trưởng đoàn Cố vấn quân sự Vi Quốc Thanh. Vi Quốc Thanh là người dân tộc Choang tham gia cách mạng sớm, là cấp binh đoàn trưởng, đã lập nhiều chiến công trong chiến tranh. Sau khi đất nước Trung Quốc giải phóng, ông đang chuẩn bị sang làm đại sứ tại Anh thì được lệnh sang Việt Nam. Ở ông là sự chân chất của một người dân tộc cộng với sự hiểu biết, lịch lãm của một nhà cách mạng lâu năm. Ông làm việc với ta với một tinh thần trách nhiệm cao, rất trung thực và thực sự cầu thị. Ông đã nắm được những khó khăn của ta. Ông nói:
- Cái khó của cách mạng Việt Nam là các đồng chí ít quân quá!
Lúc này ta đã trang bị xong cho các Đại đoàn 308, 312, 316 và 304. Vũ khí, nhất là đạn được đối với ta là cực kỳ quý. Năm 1950, bạn viện trợ cho ta 949 tấn vũ khí. Năm 1951, do bạn đưa quân chí nguyện sang Triều Tiên, số viện trợ chỉ còn 463 tấn. Năm 1952, bạn đưa mức viện trợ trở lại bình thường. Vũ khí của bạn viện trợ gồm súng trường 7 ly 9, trung liên Brno, đại liên Maxim, những thứ này đều quá lớn so với tầm vóc bộ đội ta, một nửa là súng mới, một nửa là súng cũ của Tàu và của Nga sản xuất từ chiến tranh thế giới thứ nhất. Ta chỉ thị cho các đại đoàn nhận vũ khí mới xong, sẽ chuyển vũ khí cũ (cướp hoặc mua được của quân Pháp, quân Nhật, quân Tưởng) cho liên khu. Nhờ có sự giúp đỡ của bạn, ta đã cho những xưởng quân giới ngừng sản xuất pháo cối 120 ly, phóng bom SKZ nặng nề, kém chính xác sang sản xuất mìn (bạn không có nhiều), lựu đạn. Hỏa lực nặng của ta lúc này như sơn pháo 75 ly và lựu pháo 105 do bạn cung cấp là chủ yếu, ta chỉ lấy được của địch một ít. Ta thiếu cơ bản là hai loại súng chống tăng và súng phòng không. Trong hai năm 1950, 1951, ta còn nhận viện trợ bằng gạo của bạn, từ năm 1952, ta đã thu được thuế nông nghiệp đáp ứng được nhu cầu lương thực cho bộ đội, chỉ xin bạn viện trợ vũ khí và những nhu cầu khác về chiến tranh.
Thực ra, lúc này vùng giải phóng đã mở rộng, lại có thể lấy người từ vùng địch hậu ra, nhân lực không thiếu, nhưng vẫn còn vấn đề lương thực và vũ khí.
Sau những chiến dịch tiến công của ta, địch tiến hành hàng loạt cuộc càn quét lớn, với lực lượng huy động từ 12 đến 18 tiểu đoàn bộ binh, như ở Bình Giang, Kẻ Sặt, Hải Dương và Thái Bình. Chúng bắt được nhiều cán bộ, du kích, hàng vạn dân, đa số là thanh niên. Có những nơi như Thụy Anh và Phụ Dực, địch đốt ba phần tư làng chiến đấu. Âm mưu chủ yếu của địch lúc này là "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt". Địch dùng lực lượng lớn quân cơ động phối hợp với các đội biệt kích, gián điệp đánh phá các căn cứ du kích của ta, khủng bố nhân dân, củng cố ngụy quân, ngụy quyền, lập các tổ chức phản động làm cho phong trào trong vùng tạm chiến chuyển biến theo hướng xấu. Đặc biệt vùng địch hậu ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ gặp nhiều khó khăn, cơ sở bị phá nhiều, khu du kích và căn cứ du kích bị thu hẹp. Nghị quyết lần thứ 2 của Ban chấp hành Trung ương Đảng nhận định: " Cuộc chiến tranh giải phóng đã đi vào một thời ký gay go quyết liệt". Đây là cuộc chạy đua có ý nghĩa quan trọng giữa ta và địch trong Đông-Xuân tới.
Trước tình hình địch hậu đã thay đổi, Trung ương Đảng chia địch hậu thành hai vùng là: vùng tạm chiếm và vùng căn cứ du kích, xác định phương châm và nhiệm vụ riêng cho từng vùng. Nhiệm vụ tại vùng tạm chiếm: xây dựng và phát triển cơ sở là chính; nắm tề và lợi dụng tề; lợi dụng mọi tổ chức của địch, mọi khả năng hợp pháp để giác ngộ quần chúng, tập hợp và lãnh đạo quần chúng đấu tranh với địch... Hoạt động hợp pháp là chính. Khi có điều kiện thì chuyển lên đấu tranh vũ trang...tránh manh động, tránh trừ gian bừa bãi. Nhiệm vụ tại vùng du kích: giữ vững và đẩy mạnh đấu tranh vũ trang. Kiến quyết trừ gian, phá tề nhưng không bừa bãi. Tiến tới mở rộng vùng du kích, xây dựng căn cứ du kích. Nếu lực lượng của địch mạnh, ta có thể tạm thời thu hẹp vùng du kích và chuyển hướng đấu tranh xuống hình thức thấp hơn.
Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị phát động một tháng du kích chiến tranh bắt đầu từ trung tuần tháng 10 tới trung tuần tháng 11 tại Trung Du và Liên khu 3. Trong tháng phát động du kích chiến tranh, ta tiêu diệt được 2.678 tên địch (140 tên bị bắt) nhưng không thực hiện được mục đích đề ra là ổn định tình hình phát triển du kích chiến tranh.
Tình hình địch hậu vẫn xấu.
Một hôm, Trưởng đoàn Cố vấn Vi Quốc Thanh nói với Tổng tư lệnh:
- Hay là ta quay trở về với "du kích vận động chiến"
Võ Nguyên Giáp đã có lần trao đổi với Vi Quốc Thanh về chiến thuật ta vận dụng trong những năm khởi đầu chiến tranh, được gọi là "du kích vận động chiến". Nếu như có người khi mới nghe tỏ ra phân vân về tên gọi chiến thuật này, thì Vi Quốc Thanh vừa nghe đã hiểu ngay.
Võ Nguyên Giáp nói:
- Cái ta vừa làm trong mấy tháng qua, theo tôi, cũng chính là "du kích vận động chiến". Có người tưởng là tiến lên đánh lớn sẽ không còn phải dùng cách này. Bây giờ mới thấy rõ cho đến ngày kết thúc chiến tranh ta vẫn tiếp tục phải dùng cách này. Bây giờ mới thấy rõ cho đến ngày kết thúc chiến tranh ta vẫn tiếp tục phải dùng du kích vận động chiến. Nhưng với ta ngày nay, chỉ có du kích vận động chiến thì không thể đưa cuộc chiến tranh tiến lên...
❖ 2 ❖Đầu năm 1951, De Latte viết cho chính phủ Pháp: " Chúng ta không được phép thua xét cả về mặt đạo đức và hậu quả nó mang lại cho Liên hiệp Pháp. Mà chúng ta có thể thắng, tôi xin đảm bảo với các ngài điều đó."
Chính phủ Pháp vừa ký Hiệp ước Elysée, trao quyền "độc lập" và "xây dựng một quân đội quốc gia" cho chính phủ Bảo Đại. Đây cũng là một yêu cầu Mỹ đặt ra từ lâu, coi như là điều kiện để viện trợ xây dựng quân đội ngụy, mà từ trước tới giờ Pháp vẫn dây dưa. Nhưng De Latte kiên quyết thúc đẩy thực thi hiệp ước, không để cho nó chỉ nằm trên giấy tờ. De Lattre không phải là người muốn dâng Đông Dương cho Mỹ, nhưng cũng như nhiều người Pháp, đã nhận thấy không thể giữ Đông Dương nếu không dựa vào Mỹ. Ông ta cho rằng nếu giữ được Đông Dương thì sau đó vẫn còn thời giờ cho những chuyện khác.
Tháng 7 năm 1951, De Lattre công du Mỹ. Ông ta được bác sĩ thông báo mắc bệnh ung thư, thấy mình phải hết sức tranh thủ thời gian, De Lattre được đón với những nghi thức đầy đủ nhất tại Ngũ Giác Đài, gặp gỡ tổng thống Truman, những nhân vật trọng yếu của Mỹ, và xuất hiện nhiều lần trên vô tuyến truyền hình. Nhưng kết quả chuyến đi không gặt hái được bao nhiêu. Mỹ chỉ hứa sẽ cung cấp những vũ khí hiện đại cho quân đội viễn chinh và quân đội các "quốc gia liên kết".
Hơn ai hết, De Lattre biết việc mình đã làm ở Đông Dương chưa đủ. Cái cần cho ông ta bây giờ là một chiến công trên chiến trường, một cuộc tiến công thực sự của quân viễn chinh, chứ không phải là chạy đầu xuôi đuôi ngược để đối phó với những cuộc tiến công của đối phương. Cuối tháng 12 năm 1951, quốc hội Pháp sẽ bỏ phiếu về ngân sách chiến tranh Đông Dương. Chỉ có một cuộc tiến công thắng lợi mới hi vọng được quốc hội dành cho Đông Dương một ngân khoản cùng với số quân tăng viện nào đó. Một chiến thắng như vậy rất cần cho Mỹ trong cuộc chiến hiện nay ở Triều Tiên và thúc đẩy Mỹ nhanh chóng viện trợ cho chiến tranh Đông Dương.
Trung tuần tháng 10, Bộ Tổng tham mưu báo cáo với Tổng Quân ủy về dự kiến cuộc tác chiến Đông-Xuân 1951-1952. Cơ quan nhận định về tình hình các chiến trường:
- Hướng Đông Bắc: địch đã củng cố, địa hình phức tạp, gần biển, ta ít có điều kiện tiêu diệt nhiều sinh lực địch.
- Hướng Trung Du: Là nơi địch mạnh, phòng tuyến vững chắc, địch tập trung đông, ta ít có khả năng đánh vào phòng tuyến công sư địch mới xây dựng của De Lattre.
- Hướng Tây Bắc: địch bố trí phân tán, phần lớn là ngụy binh, đường sá rất xấu, nhân dân thưa thớt, giải quyết vấn đề cung cấp rất khó, ít có điều kiện sử dụng binh lực lớn.
- Hướng mở chiến dịch được cơ quan tham mưu lựa chọn vẫn là Hữu ngạn Liên khu 3. Khó khăn của hướng này là vấn đề tiếp tế, địa hình nhiều sông ngòi chia cắt và nhiều cánh đồng chiêm. Nhưng thuận lợi là địch tương đối yếu, xa những căn cứ chính. Ta có điều kiện đánh công kiên, đánh vận động, tiến sâu vào lòng địch. Thắng lợi ở hướng này sẽ gây được ảnh hưởng lớn về mặt chính trị, thúc đẩy phong trào chiến tranh du kích ở đồng bằng, có thể phá kế hoạch giành lại chủ động của địch.
Bí thư Tổng quân ủy nói:
- Tình hình Hữu ngạn Liên khu 3, Quân ủy đã nghe báo cáo nhiều lần. Nói chung đồng ý cả thôi. Chỉ có một điều tôi thấy phải cân nhắc: lỡ khi triển khai rồi sẽ lại gặp tình hình như ở Hà- Nam- Ninh thì sao?
Sau hai chiến dịch Đông Bắc và Hà- Nam- Ninh, anh thấy còn khá nhiều câu hỏi chưa được giải đáp. Nếu so sánh toàn bộ các chiến trường trên miền Bắc, thì Hữu ngạn Liên khu 3 vẫn là nơi thuận lợi hơn, nhưng ta vẫn chưa có cách đối phó nếu một số vấn đề trong những chiến dịch trước đây xuất hiện trở lại. Cuối cùng, Tổng quân ủy quyết định sử dụng nhiều lực lượng cùng lúc hoạt động trên nhiều chiến trường, bắt đầu bằng đánh nhỏ, đánh phân tán để đẩy mạnh chiến tranh du kích và thăm dò cách đối phó của địch. Hữu ngạn Liên khu 3 là hướng chính, lực lượng sử dụng đông hơn những hướng khác. Trung ương chỉ định Chủ nhiệm Chính trị Nguyễn Chí Thanh sẽ điều hành chiến dịch ở Liên khu 3. Anh Thanh chuẩn bị lên đường đi Hữu ngạn Khu 3.
Ngày 10 tháng 11, 12 tiểu đoàn bộ binh Pháp bất thần chiếm Chợ Bến, cắt đường di chuyển của ta từ Việt Bắc xuống đồng bằng.
Ngày 14 tháng 11, 16 tiểu đoàn, 8 cụm pháo bình, 2 tiểu đoàn công binh, 2 đại đội xe tăng cùng với không quân Pháp đánh chiếm thị xã Hòa Bình.
Chiều ngày 15 tháng 11, De Lattre đích thân chủ trì cuộc họp báo tại Hà Nội, loan tin “Chiến thắng Hòa Bình’’. Phụ họa là những luận điệu tuyên truyền của những phương tiện truyền thông: "Đây là một chiến thắng quyết định", "Ngài đại tướng Cao ủy sẽ cho Việt Minh biết tài thao lược của mình"...
Ngày 19 tháng 11 năm 1951, De Lattre tới Hòa Bình. Đây là cuộc chia tay lần cuối cùng của Tổng chỉ huy Pháp với quân viễn chinh. Bệnh tình của De Lattre vẫn được giữ kín.
Tối ngày 14, khi nghe Tham mưu báo tin địch đánh chiếm Hòa Bình, những căng thẳng của Tổng tư lệnh đối với trận đánh mùa khô năm nay dường như được giải tỏa. Ta đã dự kiến nếu chậm triển khai cuộc tiến công Đông-Xuân thì địch có thể tiến công trước ta. Với cuộc hành binh đánh chiếm Hòa Bình càng thấy rõ tham vọng của De Lattre. Anh nghĩ ngay đây chính là một cơ hội bằng vàng để thoát khỏi thế bế tắc hiện nay.
Ngày 15 tháng 11, Quân ủy họp. Tổng tham mưa trưởng Hoàng Văn Thái báo cáo ý kiến của cơ quan tham mưu. Hòa Bình là một nút giáo thông thủy bộ quan trọng nối liền Việt Bắc với đồng bằng và miền Trung, rất quan trọng đối với cả ta và đối phương. Địa hình Hòa Bình nhiều rừng núi phức tạp, lực lượng ta dễ thâm nhập, sức mạnh hỏa lực của quân viễn chinh khó phát huy. Đường số 6 nối liền Hòa Bình với Hà Nội chạy giữa vùng rừng núi rậm rạp khúc khuỷu, quân ta dễ phục kích. Đa số đề nghị đình chỉ chiến dịch ở Liên khu 3 để mở chiến dịch Hòa Bình có lợi hơn, vì địch mới đánh ra chưa kịp củng cố hệ thống phòng ngự. Hòa Bình là vùng rừng núi dễ bao vây chia cắt lại tiếp giáp Việt Bắc, cơ động lực lượng và tiếp tế của ta rất thuận lợi. Chủ lực của ta lại đang ở gần có thể tranh thủ nổ súng sớm. Mặt khác, không thể để địch chia cắt Liên khu Việt Bắc và các liên khu phía nam, sẽ gây cho ta nhiều khó khăn lâu dài. Ý kiến thứ hai, tuy thiểu số nhưng cũng quan trọng: Ta cứ tiếp tục kế hoạch đã định, không nên bị động chạy theo địch. Địch đánh ra là địch mạnh, đã có ý định kéo chủ lực ta về phía này. Ta phải tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, kéo địch ra chiến trường ta lựa chọn, không nên đi vào bẫy địch đã giăng ra.
Một số cố vấn Trung Quốc đồng tình với ý kiến thứ hai. Tổng tư lệnh cho rằng những tổn thất của ta qua ba chiến dịch liên tiếp, đã khiến các đồng chí cố vấn trước mắt thiên về những hoạt động đánh nhỏ và phân tán để hạn chế sức mạnh của máy bay và pháo địch.
Tổng tư lệnh kết luận:
- Địch đã quyết định giành lại quyền chủ động. Đánh Hòa Bình, chúng mở rộng phạm vi chiếm đóng, giành được một vị trí chiến lược quan trọng, cắt đứt Việt Bắc với phần đất nước phía Nam, gây cho ta nhiều khó khăn không chỉ về quân sự mà cả về chính trị, kinh tế. Nhưng địch đưa một lực lượng lớn quân cơ động ra Hòa Bình, địch hậu sẽ sơ hở, chiến tranh du kích sẽ có điều kiện phát triển. Địch phân tán cơ động lên chiến trường rừng núi, giao thông không thuận lợi, trong một thời gian nữa chúng mới củng cố được thế phòng ngự, bộ đội chủ lực ta sẽ có cơ hội để tiêu diệt sinh lực địch.
Tổng quân ủy đề nghị Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Cho mở rộng chiến dịch Hòa Bình, chuyển hướng hoạt động thụ động sang tiến công địch mới lấn chiếm. Hòa Bình là hướng chính. Các nơi khác là hướng phối hợp".
Mọi hoạt động chuẩn bị chiến dịch được nhanh chóng triển khai.
Ngày 20 tháng 11 năm 1951, Bộ Tổng tư lệnh trao nhiệm vụ cho các đại đoàn và các đơn vị sẽ tham gia chiến dịch.
Ngày 23 tháng 11, Bộ Chính trị họp dưới sự chủ trì của Bác, nhất trí với đề nghị của Tổng quân ủy chuyển hướng chiến dịch về Hòa Bình.
Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp gửi thư ngay cho đồng chí Nguyễn Chí Thanh và đồng chí Hoàng Văn Thái. Cả hai người đã đi trước lên sở chỉ huy tiền phương: " Đây là cơ hội rất tốt, thuận lợi để tiêu diệt địch. Đáng lẽ ra ta phải đánh điểm để diệt viện, phải điều nó ra để đánh. Ở đây ta không cần đánh điểm mà viện nó cũng ra. Đây là cơ hội hiếm có để kìm hãm địch. Đây là cơ hội rất thuận lợi để phát triển du kích chiến tranh rộng rãi. Cần hết sức tranh thủ thời gian, nhiều thắng lại nhỏ cộng lại sẽ thành thắng lợi lớn không nên chờ đợi lâu quá".
Chiến dịch này ta lên đường không có các đồng chí cố vấn Trung Quốc cùng đi.
❖ 3 ❖Như đã nói ở trên, De Lattre cần có một chiến thắng kịp thời để làm áp lực cho Quốc hội Pháp thông qua ngân sách chiến tranh 1951-1952, mặt khác để củng cố lòng tin với Mỹ và bọn chính phủ bù nhìn từ khi nhận chức đã có quá nhiều lời khoe khoang, De Lattre chủ quan cho rằng quân ta đã bị suy yếu qua ba chiến dịch tiến công thất bại, ở địch hậu coi như đã bình định xong, bộ đội ta không còn khả năng vào địch hậu vì dân chúng không ủng hộ và bộ đội ta cũng không tin ở dân nữa.
Ngày 1 tháng 12 năm 1951, Tổng quân ủy họp mở rộng để thông qua kế hoạch tác chiến. Cục 2 báo về tình hình địch tại Hòa Bình:
- Khu chiếm đóng mới của địch ở Hòa Bình gồm hai nơi.
- Khu thị xã Hòa Bình và đường số 6, địch có 7 tiểu đoàn chiếm đóng. Tại thị xã Hòa Bình có 4 tiểu đoàn, tại đường số 6 có 3 tiểu đoàn do đại tá Clémens chỉ huy. Pháo binh có 3 đại đội, 2 đại đội bố trí ở thị xã, 1 đại đội bố trí ở Pheo.
- Khu Sông Đà, địch có 2 tiểu đoàn Âu Phi chiếm đóng và 3 tiểu đoàn cơ động do đại tá Dodelier chỉ huy. Pháo binh địch có 3 đại đội: 1 đại đội bố trí ở Đá Chông, 1 đại đội ở Thủ Pháp, 1 đại đội ở Chẹ. Ở Tu Vũ, có một trung đội xe tăng. Khu Sông Đà có hai cụm phòng ngự then chốt: La Phù- Đan Thê, Tu Vũ- Chẹ. Mỗi cụm do 1 tiểu đoàn Âu Phi phòng ngự. Khu sông Đà là hệ thống bảo vệ vòng ngoài và bảo vệ đường sông, là đường tiếp tế chính của địch lên Hòa Bình.
Tổng quân ủy nhận định: "Muốn diệt tiếp tế của địch và thọc sâu vào địa hình của chúng, ta phải đánh khu sông Đà trước. Ở đây, ta có thể triển khai lực lượng đánh lớn ở vòng ngoài. Trong hai khu vực phòng ngự chủ yếu địch thiết lập ở tả ngạn sông Đà là: La Phù và Tu Vũ, nên chọn một nơi làm trận then chốt. Nếu đánh điểm trước thì chủ động được thời gian. Đánh viện trước, sợ phải chờ đợi lâu".
Sau khi trao đổi, Tổng quân ủy quyết định: "Tập trung lực lượng tiêu diệt các vị trí Tu Vũ, Chẹ, đồng thời tranh thủ đánh viện trên sông Đà. Ta có thể đưa thêm lực lượng sang hữu ngạn sông Đà để tùy tình hình phát triển. Tình hình địch hậu trung du, đồng bằng đang sơ hở, cần phát triển du kích chiến tranh ngay.
Kế hoạch đánh Tu Vũ và Chẹ vào ngày 10 tháng 12 năm 1951.
Sáng ngày 10 tháng 12, qua tin kỹ thuật ta được biết địch sử dụng 5 tiểu đoàn chia làm ba cánh càn vùng tây-nam Ba Vì thuộc khu vực tập kết của Đại đoàn 312. Bộ chỉ huy chiến dịch lệnh cho 312 sử dụng một lực lượng chống càn. Trung đoàn 209 đánh tan cánh quân thứ nhất của địch tại khu vực Đồng Song, tiêu diệt được 2 đại đội, những tên còn lại bỏ chạy, và các cánh quân khác cũng rút theo.
Ngay hôm đó, địch tăng cường cho Chẹ một trung đội xe tăng. Do đánh viện, trung đoàn 209 không còn đủ sức tiêu diệt Chẹ.
Đêm 10 tháng 12, theo đúng kế hoạch, trung đoàn 88 của Đại đoàn 308 đánh Tu Vũ. Tu Vũ nằm bên sông Đà do một tiểu đoàn Bắc Phi tinh nhuệ bảo vệ, được tăng cường thêm 6 xe tăng. Pháo binh Pháp của khu vực sông Đà đã bắn hơn 5000 viên đạn pháo để chi viện cho Tu Vũ. Mờ sáng, Tu Vũ bị hoàn toàn tiêu diệt.
Trận Tu Vũ gây một nỗi kinh hoàng cho kẻ địch, vì đây là một trung tâm đề kháng mạnh nhất của địch được pháo binh bảo vệ tới mức tối đa.
Ngày 22 tháng 12, trung đoàn 36 tiêu diệt một đoàn tàu vận tải của địch tại Lạc Song và Đồng Việt (bắc thị xã Hòa Bình 10 kilômét ở hướng đường số 6 và đường 21).
Trước đó, ngày 2 tháng 12, trung đoàn 66 thuộc Đại đoàn 304 phục kích Cầu Dụ (cách thị xã Hòa Bình 15 kilômét) tiêu diệt một đoàn xe vận tải 34 chiếc và 1 đại đội đi hộ tống. Tiếp đó, đại đoàn đánh nhiều trận phục kích nhỏ trên đường số 6, nổi lên là trận Giang Mỗ (tây thị xã Hòa Bình 8 kilômét) tiêu diệt 200 tên địch, phá hủy 10 xe có cả xe tăng và thiết giáp.
Ở mặt trận phối hợp, hướng Đại đoàn 316, ngày 16 tháng 12, trung đoàn 174 tiêu diệt vị trí công sự mới Larrivie', diệt 1 đại đội da đen và một trung đội ngụy. Đây là trận tiêu diệt cứ điểm mới bunker đầu tiên trên tuyến phòng ngự của De Lattre do 1 tiểu đoàn của ta thực hiện.
Một lần nữa, Tổng tư lệnh lại thấy mình đang làm một điều trái với sách vở. Anh đang đem một lực lượng nhỏ hơn quân địch tiến hành bao vây và tiến công chúng. Nhưng lần này, anh không mảy may lo lắng và rất tin tưởng vào thắng lợi. Anh không hề có tham vọng tiêu diệt toàn bộ quân địch mà chọn đánh một số trận chắc thắng để tiêu hao địch, nhiệm vụ chính của anh là kìm chân quân địch ở đây. Trận đánh chính sẽ diễn ra tại hậu địch. Nếu như tình hình chiến tranh nhân dân ở hậu địch phục hồi là chiến dịch này sẽ giành thắng lợi.
Tính chung trong đợt 1, Đại đoàn 320 đã diệt 800 tên địch, tiêu diệt nhiều vị trí, giải phóng hầu hết huyện Yên Mô và một phần huyện Kim Sơn, Ninh Bình, đẩy mạnh chiến tranh du kích và phát triển được nhiều cơ sở.
Trung tuần tháng 12 năm 1951, ta kết thúc đợt 1 chiến dịch. Tổng quân ủy nhận định: "Địch bị thất bại lớn về quân sự và chính trị. Trong một thời gian ngắn, địch bị tiêu diệt 23 đại đội. Với chiến thắng Tu Vũ, nam Ba Vì, đường 6, ta trực tiếp uy hiếp kế hoạch chiếm đóng của địch. Trận đánh vào Phát Diệm và những trận thắng ở trung du đã góp phần vào việc phát triển du kích chiến tranh và làm rối loạn hậu phương của chúng, hiện nay vẫn còn sơ hở... Những trận đánh thắng vừa qua đã giải quyết được nhiều vấn đề chiến thuật. Bộ đội ta có thể tiếp tục đi sâu trong lòng địch làm cho hậu phương của địch mất ổn định và đối phó lúng túng".
Tổng quân ủy chủ trương trong đợt hai chiến dịch sẽ: "Tranh thủ tiêu diệt thêm sinh lực địch trong khu cơ động Ba Vì, đường số 6, bắc thị xã Hòa Bình, chuẩn bị có thể đánh điểm diệt viện trong khu vực Đá Chông, Chẹ và tiếp tục kiềm chế lực lượng của chúng để các hướng và địch hậu có thể phát triển thuận lợi. Ở các chiến trường phối hợp: Trung Du mạnh dạn đưa thêm chủ lực vào địch hậu. Liên khu 3 cần có kế hoạch giúp Tả Ngạn phát triển chiến tranh du kích... Bình Trị Thiên, Liên khu 5, Nam Bộ ra sức hoạt động kiềm chế địch, tích cực phối hợp với chiến trường chính".
Đêm 30 tháng 12, tiểu đoàn 16 thuộc trung đoàn 141 có hàng binh dẫn đường đã tập kích tiêu diệt nhanh chóng cao điểm 600 ở Ba Vì, diệt và bắt sống 150 tên địch, thu toàn bộ vũ khí. Phòng tuyến Sông Đà mất cao điểm 600 coi như mất chỗ dựa, buộc địch phải bỏ hẳn đường tiếp tế trên sông Đà.
Ở mặt trận phối hợp, Đại đoàn 316 đưa trung đoàn 174 vào nam phần Bắc Ninh.
Đại đoàn 320 mở rộng thêm nhiều khu du kích. Trung đoàn 64 chưa đầy một tháng đã tiêu diệt 45 vị trí tề vũ trang, phá 312 trong tổng số 380 ban tề trong tỉnh Hà Nam. Trung đoàn 48 tiêu diệt 115 ban tề, cả tỉnh Ninh Bình còn lại 6 ban tề.
Hệ thống ngụy quyền, ngụy quân tan rã từng mảng lớn. Tình hình địch hậu ở Trung Du và Đồng bằng Bắc Bộ đã sáng sủa, chẳng những các khu du kích, căn cứ du kích được khôi phục mà còn mở rộng. Các khu du kích đã nối tiếp từ Hữu Ngạn sang Tả Ngạn sông Hồng, đồng bằng Trung du, uy hiếp hậu phương địch làm cho chúng đối phó rất lúng túng. Các binh đoàn cơ động của địch phải điều động như đèn cù ứng cứu cả mặt trận chính diện và hậu địch.
Đầu tháng 1 năm 1952, Bộ Tổng tham mưu sơ kết đợt 2 và chuẩn bị đợt 3 của chiến dịch.
Tổng quân ủy nhận định: Ta đã hoàn thành nhiệm vụ. Địch bị tiêu diệt 45 đại đội. Tính cả tiêu diệt lẻ tẻ lên tới 8.000 tên. Căn cứ du kích được phục hồi và mở rộng. Địch thiệt hại nặng phải điều quân từ Pháp sang và từ Trung, Nam Bộ ra. Địch phải co hẹp phạm vi chiếm đóng và rút quân ở các vị trí bên trong địch hậu bổ sung cho quân số cơ động bị tổn thất nên tình hình địch hậu càng sơ hở... Ở chiến trường chính, các binh đoàn cơ động của địch bị tiêu diệt một bộ phận làm cho kế hoạch chiếm đống của địch gặp nhiều khó khăn, nhất là về giao thông, tiếp tế...
Chúng cố gắng củng cố chiếm giữ Hòa Bình nhưng do tình hình khách quan cũng có thể buộc chúng phải rút lui.
Tổng quân ủy chủ trương: "Hướng chính sẽ chuyển xuống phía nam Hòa Bình và đường số 6 nhằm tiêu diệt sinh lực địch, cắt đường số 6, mở rộng địch vận...thu hút kiềm chế lực lượng của chúng để các mặt trận phối hợp và địch hậu có thể phát triển thuận lợi".
Đêm 7 tháng 1 năm 1952, trung đoàn 102 đánh vị trí Pheo, do một tiểu đoàn lê dương thứ 13 chiếm đóng cùng một trận địa pháo 105 ly bốn khẩu và một trung đội xe tăng. Trung đoàn 66 phối thuộc đánh Đầm Huống, vị trí do 1 đại đội địch chiếm giữ.
Cả hai trận đánh đều không thành công. Nguyên nhân chính là do cán bộ chủ quan, coi thường nhiệm vụ, kém tỉ mỉ trong chuẩn bị, đại khái lúc đặt kế hoạch, khi thi hành thì thiếu đôn đốc, kiểm tra.
Riêng trung đoàn 36 được cấp trên chỉ đạo chặt chẽ dùng lực lượng nhỏ, luồn sâu vào thị xã Hòa Bình đã tiêu diệt hoàn toàn một trận địa pháo 105 ly bốn khẩu và một đại đội địch, tiếp đó tiêu diệt hai vị trí ngoại vi bảo vệ thị xã Hòa Bình là Rậm và Dè.
Đại đoàn 304 đánh giao thông trên đường số 6 tiêu diệt 7 đại đội Âu Phi, phá hủy nhiều xe cơ giới và pháo bình địch.
Ngày 10 tháng 1, địch bỏ vị trí Chẹ.
Ngày 11 tháng 1, có tin công khai tướng De Lattre qua đời.
Đêm 22 tháng 2, địch lặng lẽ lợi dụng đêm tối chuyển quân từ thị xã Hòa Bình sang hữu ngạn sông Đà. Địch dùng pháo bắn chặn chung quanh Hòa Bình. Chỉ huy trưởng chiến dịch tỉnh giấc vì tiếng súng nổ, đoán quân địch bắt đầu rút lui, lệnh cho toàn thể mặt trận đánh địch rút lui. Đại bộ phận bộ đội chủ lực ta lúc này còn ở tả ngạn sông Đà. Trung đoàn 36 ở bắc thị xã Hòa Bình nhận lệnh, nhưng do trời tối lại bị pháo địch bắn chặn nên ban đêm không tiếp cận được quân địch.
Sáng 23 tháng 2, trung đoàn 36 tới thị xã Hòa Bình thấy quân địch đang rút lui, lập tức truy kích, nhưng lúc này đã quá muộn, chỉ tiêu diệt được bộ phận cuối cùng còn lại trong thị xã. Địch đã phá hủy chiếc cầu phao bắc qua sông.
Một trận địa pháo bí mật của ta ở khu vực Bến Ngọc đã kịp thời bắn vào đội hình địch rút chạy, làm đắm 1 ca nô, phá hủy một số xe cơ giới.
Hai trung đoàn 9 và 57 thuộc Đại đoàn 304 bố trí dọc đường số 6, trận địa xuất kích xa, lại bị pháo binh và máy bay địch ngăn chặn nên chỉ tiêu diệt được một bộ phận nhỏ cuối cùng của địch.
Địch thú nhận từ ngày 22 tháng 2 đến 25 tháng 2 năm 1952 đã bắn hết 30.000 viên đạn pháo để yểm trợ cho cuộc rút lui khỏi Hòa Bình.
Kết quả đánh địch rút lui khỏi Hòa Bình, ta chỉ tiêu diệt được 6 đại đội, phá hủy 20 xe cơ giới, thu hàng trăm tấn đạn,
Nhìn chung, chiến dịch Hòa Bình đã giành được thắng lợi rất lớn. Ở mặt chính Hòa Bình, ta tiêu diệt được 6.012 tên địch, thu 788 súng các loại, 88 máy vô tuyến điện, 24 khẩu pháo cối, giải phóng 4.000 kilômét vuông với 20.000 dân. Ở mặt trận địch hậu (trung du và Liên khu 3),chiến thắng còn lớn hơn nhiều. Ta tiêu dệt 15.237 địch, thu 6.126 súng các loại, 10 khẩu pháo, 41 máy vô tuyến điện, giải phóng 4.000 kilômét vuông với 1.900.000 dân.