Chương X CHUYỂN HƯỚNG
❖ 1 ❖
Thắng lợi của chiến dịch Hòa Bình của ta ở cả chính diện và hậu địch đã lập tức đẩy sâu quân địch vào thế phòng ngự chiến lược. Các giới chính trị ở Pháp càng bị phân hóa sâu sắc về chiến tranh Đông Dương. Nội các Edgar Faure đổ. Đây là lần thứ 16 có sự thay đổi chính phủ Pháp kể từ năm 1946. Nội các Antonin Pinay lên thay vẫn là một nội các thiên hữu chủ trương tiếp tục chiến tranh Đông Dương.
Trong tháng 4 năm 1952, Salan đã lên thay De Lattre, tổ chức thêm được 100.000 quân ngụy. Salan chủ trương: bình định tất cả những khu vực đã chiếm đóng, kiểm soát tất cả mọi nguồn tài nguyên không để rơi vào tay ta; mở các chiến dịch phụ để chiếm đóng các vùng tự do của ta nhất là các khu kinh tế đông dân, phá địa bàn hoạt động của ta; tổ chức những đơn vị cơ động không bị ràng buộc vào việc giữ đất.
Từ cuối năm 1950, chiến dịch mở ra liên tiếp, nhưng chưa có chiến dịch nào Tổng tư lệnh trở về với đầu óc thoải mái như lần này. Lần này, anh đã có thế báo cáo với Bác và Trung ương: De Lattre hay là ai nữa cũng không thể cứu vãn được sự thất bại trong cuộc chiến tranh này. Những thất bại vừa qua, chỉ là những vấp ngã trên con đường tiến lên, đó là cái giá mà ta phải trả cho mỗi bước trưởng thành. Với chiến dịch Hòa Bình, con đường tiến lên phía trước đã mở ra rất sáng sủa.
Trong cuộc làm việc với Thường vụ, anh đã thẳng thắn nói ra những thất bại trong các chiến dịch trước đây là do phần lớn bộ đội ta chưa có kinh nghiệm tác chiến tại đồng bằng, nói cho đúng hơn, với trang bị và trình độ kỹ thuật tác chiến của quân đội ta như hiện nay, ta chưa thể dành thắng lợi trong những cuộc đọ sức lớn với quân đội Pháp trên địa hình đồng bằng. Nhưng cuộc kháng chiến của ta vẫn có thể giành thắng lợi bằng cách không đi tìm một quyết chiến điểm với địch trên địa hình đồng bằng mà ở những nơi có lợi cho ta. Quyết định thắng thua vẫn là vấn đề có tiêu diệt được nhiều sinh lực địch hay không.
Khi được hỏi: “Địch tập trung ở đồng bằng, nếu không đánh đồng bằng thì đánh đâu?”, anh đã trả lời:
- Ta sẽ quay về vùng rừng núi. Ta mới giải phóng được cơ bản vùng Đông Bắc, vùng Tây Bắc vẫn còn nguyên vẹn. Còn cả Thượng Lào. Tôi không nghĩ Pháp muốn chiếm Đông Dương mà lại bỏ cả Tây Bắc, Thượng Lào. Ta có băn khoăn ở Tây Bắc không có nhiều lực lượng tinh nhuệ của địch, nhưng nếu Tây Bắc bị uy hiếp thì địch không thể không đưa quân từ đồng bằng lên cứu viện!
Cuối cùng anh đề nghị:
- Mùa khô này, địch không thể tiến công lớn vào vùng tự do của ta. Suốt năm nay, chúng sẽ tập trung vào càn quét, bình định những khu du kích ở hậu địch mà ta vừa phục hồi. Tôi đề nghị ta sẽ mở một cuộc tiến công sớm vào Tây Bắc, chí ít cũng phải giải phóng được một tỉnh như tỉnh Sơn La. Kinh nghiệm vừa qua cho thấy nếu không có một mặt trận thu hút lực lượng quân cơ động địch thì bộ đội xâm nhập hậu địch rất khó làm ăn. Xin các anh cho ý kiến sớm để tiến hành công tác chuẩn bị. Tôi được biết cơ sở của ta ở Tây Bắc rất kém và đường sá thì rất xấu. Thế nào cũng phải sửa lại một số con đường…
Tháng 3 năm đó, Bác và Thường vụ đã có quyết định mở chiến dịch Tây Bắc.
❖ 2 ❖Sau chiến dịch Hòa Bình, Tổng quân ủy quyết định hai Đại đoàn 316 và 320 vẫn tiếp tục hoạt động ở địch hậu một thời gian nữa để dìu dắt dân quân du kích, củng cố các khu du kích và căn cứ du kích.
Đúng như dự kiến, địch mở ngay hàng loạt trận càn liên tiếp nhằm tiêu diệt và khu trục bộ đội ta đã xâm nhập vào địch hậu. Đầu tháng 3 năm 1952, địch mở trận càn Sibérie ở Từ Sơn, Bắc Ninh, trận càn Sabre ở Yên Lạc, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc. Hai trận càn này, chúng huy động lực lượng nhỏ gồm 3 tiểu đoàn, bị lực lượng ta làm tiêu hao nặng. Chúng chuyển sang càn quét lớn.
Ngày 11 tháng 3 năm 1952, địch tập trung 3 binh đoàn cơ động (1, 2, 4), 2 tiểu đoàn pháo, 1 tiểu đoàn cơ giới và nhiều máy bay yểm trợ, lấy tên là Amphibie, càn quét các khu du kích của ta ở Lý Nhân, Bình Lục, tỉnh Hà Nam, nơi có trung đoàn 64 của ta đang hoạt động. Trung đoàn 64 có nhiều kinh nghiệm hoạt động hậu địch đã phối hợp với bộ đội địa phương, dân quân, du kích chặn đánh địch trong 10 ngày liên tục, tiêu diệt khoảng 500 địch rồi rút ra vùng tự do an toàn.
Ngày 25 tháng 3, địch tập trung 21 tiểu đoàn thuộc 6 binh đoàn cơ động cùng với 60 khẩu pháo, 500 xe cơ giới, hàng trăm máy bay và tàu chiến mở cuộc càn Mercure ở bốn huyện Vũ Tiên, Kiến Xương, Tiền Hải, Thái Ninh thuộc Thái Bình, nơi Đại đoàn 320 đang hoạt động. Bộ Tổng tham mưu đã thông báo với 320 về quy mô cuộc hành quân, các hướng tiến công của địch, để đại đoàn kịp thời xử trí. Ngày 29 tháng 3 năm 1952, bộ tư lệnh Đại đoàn 320 đã vượt vây sang Nam Định, và các tiểu đoàn lần lượt vượt vòng vây tiến lên phía bắc Thái Bình và Hưng Yên, đưa theo hàng ngàn dân ra khu an toàn. Đại đoàn 320 đã tiêu diệt 2.500 quân địch. Địch bắt của ta 5.000 dân và đóng lại một số vị trí trên đường 39.
Ngày 14 tháng 4, địch mở cuộc càn quét lớn lấy tên là Porthos , tập trung 18 tiểu đoàn thuộc 5 binh đoàn bộ binh cơ động, với pháo binh, thiết giáp và không quân yểm hộ đánh vào vị trí trú quân của trung đoàn 98 (thuộc Đại đoàn 316) ở Quế Võ, Bắc Ninh. Trận chiến đấu diễn ra quyết liệt. Trung đoàn 98 đã tiêu diệt được 1.200 quân địch và rút ra vùng tự do. Nhưng do thiếu kinh nghiệm, tổ chức rút tập trung nên bộ phận đi đầu ra thoát, bộ phận còn lại bị bộ binh và pháo binh địch ngăn chặn không kiên quyết vượt lên lại quay về chỗ trú quân cũ. Hôm sau, quân địch dồn tới bao vây. Chính trị viên trung đoàn và tham mưu trưởng hy sinh. Số người hy sinh, bị thương và bị bắt rất đông. Một số lợi dụng đêm tối phân tán rút ra vùng tự do.
Ngày28 tháng 4, địch mở cuộc càn Dromadaire nhằm tiêu diệt trung đoàn 42, được chúng gọi là Trung đoàn Ma ( Régiment fantôme ). Trung đoàn đã bình tĩnh chống trả, tiêu diệt một số lớn quân địch và vượt sông ban đêm nhẹ nhàng rút ra khỏi vòng vây.
Tháng 6 năm 1952, địch mở cuộc càn Antiolope ở Phú Xuyên (Hà Đông), Duy Xuyên (Hà Nam) và cuộc càn Boléro vào Nam Sách, Đông Triều, Chí Linh (Hải Dương) sau chuyển sáng Kinh Môn, Thanh Miện. Địch cho đội quân thứ hành chính lưu động (GAMO) đi theo làm công tác chiêu hồi và bình định. Địch thực hiện chính sách rất tàn ác và dã man: giết sạch, đốt sạch, phá sạch, dồn dân về sống ở những vùng tập trung.
Những cuộc can quét tốn kém này không phải thường đạt kết quả tốt. Như lời viên tướng De Berchoux, chỉ huy các cuộc càn quét lớn ở Bắc Bộ đã thú nhận: “Quả thật là một hiện tượng kỳ lạ, cứ diễn đi diễn lại nhiều lần. Khi hai cánh quân của ta khép chặt vòng vây lại chỉ còn vồ được cái bóng. Biết bao cuộc hành quân ở đồng bằng đã diễn ra như vậy” (1) .
❖ 3 ❖Tây Bắc là chiến trường rừng núi duy nhất còn lại ở Bắc Bộ, có nhiều dãy núi cao trên 1.000 mét. Dãy núi cao nhất là Hoàng Liên Sơn có mỏm Phan Xi Păng cao 3.143 mét. Có hai con đường chính đi vào Tây Bắc là đường 13 từ Yên Bái vào Ba Khe, qua Phù Yên, Tạ Khoa, Cò Nòi gặp đường 41 và đường số 6 từ Hòa Bình lên Mộc Châu nối liền với đường 41 lên Sơn La, Lai Châu. Đặc biệt những quãng đường tiếp xúc với vùng tự do của ta bị phá hoại lâu ngày biến thành rừng, không còn dấu vết. Tiến vào Tây Bắc phải qua hai con sông lớn: sông Hồng và sông Đà. Sông Hồng là ranh giới giữa ta và quân Pháp thời đó.
Đầu tháng 4 năm 1952, Bộ Tổng tham mưu sơ bộ dự thảo xong kế hoạch chiến dịch báo cáo lên Tổng quân ủy.
Tây Bắc là chiến trường rừng núi rộng lớn, xa các căn cứ lớn của địch, binh khí kỹ thuật của địch phát huy hạn chế. Lực lượng địch ở Tây Bắc, chủ yếu là ngụy binh Thái, tinh thần kém, chưa quen chiến trận. Công sự yếu so với các chiến trường khác ở Bắc Bộ, địch lại ít đề phòng, chủ quan vì đã từ lâu nơi đây được coi là hậu phương an toàn của chúng.
Địch tổ chức Tây Bắc thành một liên khu độc lập, gồm bốn phân khu: Nghĩa Lộ, Sơn La, Lai Châu, sông Đà và một tiểu khu độc lập là Tuần Giáo. Lực lượng địch có 8 tiểu đoàn bộ binh. Ngoài ra còn 40 đại đội ngụy binh Thái làm nhiệm vụ chiếm đóng.
Nghĩa Lộ và Mộc Châu là hai lá chắn bảo vệ hai đầu cửa ngõ vào Tây Bắc, nên lực lượng mỗi nơi đều có một tiểu đoàn ngụy Thái, công sự được củng cố vững chắc. Toàn liên khu, địch đóng 400 cứ điểm phần nhiều là trung đội, chỉ có khoảng 40 cứ điểm đại đội.
Ngày 16 tháng 10, De Linarès – tư lệnh Bắc Bộ, lên thị sát Nghĩa Lộ. Trong khi bộ đội ta đã tiếp cận chung quanh những mục tiêu chiến đấu, thì De Linarès vẫn không nhận thấy có gì khác tại Tây Bắc mà chủ yếu vẫn lo hướng đồng bằng.
Ngày 16 tháng 10, trung đoàn 141 của Đại đoàn 312 tiêu diệt tiền đồn Sài Lương, trung đoàn 174 của Đại đoàn 316 đánh Ca Vịnh và Ba Khe, một số đồn chung quanh đó. Cùng ngày, trung đoàn 98 của Đại đoàn 312 tiêu diệt vị trí Gia Phù.
Đêm 17 tháng 10, Đại đoàn 308 đánh phân khu Nghĩa Lộ. Thung lũng Nghĩa Lộ dài 15 kilômét, rộng từ 3 đến 8 kilômét, chính giữa có thị trấn Nghĩa Lộ. Vị trí Nghĩa Lộ có khoảng 500 quân địch. Tại đây có một sân bay dã chiến chạy về phía đông nối liền với cứ điểm Pú Chạng (còn gọi là Nghĩa Lộ Đồi). Cứ điểm Pú Chạng có khoảng 300 quân địch, đóng trên đồi cao, địa thế hiểm trở, công sự vững chắc, có hầm ngầm. Địch vừa chuyển sở chỉ huy phân khu về Pú Chạng.
Trong đêm 17, trung đoàn 102 diệt vị trí Pú Chạng (Nghĩa Lộ Đồi), sở chỉ huy phân khu Nghĩa Lộ. Trung đoàn 88 tiêu diệt vị trí Nghĩa Lộ Phố ở ngay tại thị xã.
Cùng ngày 17 tháng 10, trung đoàn 98 tiêu diệt vị trí Bản Mo, chỉ huy sở tiểu khu Phù Yên. Địch rút chạy sang hữu ngạn sông Đà. Cánh đồng Quang Huy rộng thứ tư ở Tây Bắc được giải phóng.
Đêm 18 tháng 10, trung đoàn 36 đánh vị trí Cửa Nhì, diệt và bắt sống gần 300 địch.
Trong đêm, trung đoàn 165 phục ở Gia Hội để đánh viện, nhưng không biết quân địch đã cho tiểu đoàn dù số 6 của Bigeard nhảy xuống Tú Lệ. Trung đoàn 165 đánh Gia Hội, địch bỏ chạy khỏi Tú Lệ và tiếp đó chạy sang tả ngạn sông Đà. Trung đoàn 165 truy kích năm, sáu ngày đêm tiêu diệt khoảng 400 tên địch, trong đó có một bộ phận của tiểu đoàn dù số 6.
Bộ trưởng quốc phòng Pháp Pléven phải ra điều trần trước Quốc hội: “Việc để mất Nghĩa Lộ có hại cho uy tín chúng ta và tôi rất đau lòng”. Tổng chỉ huy Salan bị phê phán là: “bị động, không có sự đối phó tích cực” và được lệnh: “Phải hành động gấp”. Salan vội vơ vét quân, điều lên Tây Bắc. Y công bố tại Hà Nội: “Chúng ta đã lấy lại tự chủ, một con đê ngăn sóng vững chắc, đồng thời một căn cứ hành quân đã được thiết lập xung quanh Nà Sản”. “Con đê ngăn sóng” là tuyến phóng thủ dọc sông Đà gồm 3 chi đoàn (tương đương với tiểu đoàn): Béthenot, Favreau, Rouquette. “Căn cứ hành quân” là tập đoàn cứ điểm Nà Sản đang được gấp rút xây dựng.
Địch đã nhanh chóng tổ chức lại Tây Bắc thành hai mặt trận. Mặt trận Sơn La do đại tá Gilles chỉ huy, với Nà Sản là căn cứ hành quân chính. Mặt trận Lai Châu do đại tá La Joix chỉ huy, đóng ở Lai Châu 1 tiểu đoàn, Pắc Má 1 tiểu đoàn, Phong Thổ 1 tiểu đoàn, Điện Biên Phủ 1 tiểu đoàn. Quân số địch ở Tây Bắc được nâng lên 16 tiểu đoàn và 32 đại đội.
Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định giải phóng đông nam Sơn La (vùng Mộc Châu, Cò Nòi) trước. 6 trung đoàn thuộc các Đại đoàn 308, 312, 316 cùng các binh chủng phối thuộc tiêu diệt Mộc Châu, Bản Hoa, Ba Lay, Mường Lụm phá vỡ thế trận địch ở phía đông nam Sơn La. Đồng thời tổ chức mũi thọc sâu gồm 4 tiểu đoàn tiêu diệt địch ở Than Uyên, Quỳnh Nhai, phát triển về phía Luân Châu, Tuần Giáo trên đường 41. Khi trung đoàn 165 nhận lệnh lên đường chưa có gạo mang theo, Chỉ huy trưởng chiến dịch nói: “Nhanh chóng đánh thắng địch sẽ có ăn”. Quả nhiên, sau khi giành thắng lợi ở Tạ Bú, trung đoàn đã lấy được toàn bộ kho tàng của địch còn nguyên vẹn, thừa gạo ăn để phát triển về Mộc Châu, Sơn La sau này.
Trong lúc ta đang tích cực chuẩn bị đợt 2 chiến dịch, thì ngày 5 tháng 11, có tin Delinarès, tư lệnh Bắc Bộ, đích thân chỉ huy 13 tiểu đoàn bộ binh, 4 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn cơ giới, 7 đại đội công binh mở cuộc hành binh Lorraine đánh lên Phú Thọ, gần hậu phương của chiến dịch.
Hành động đối phó này của địch đã được ta dự kiến. Tiền phương của Bộ lập tức điều trung đoàn 36 thuộc Đại đoàn 308, một trung đoàn đánh vận động giỏi, quay về Phú Thọ với nhiệm vụ: tiêu diệt sinh lực địch, phối hợp giúp đỡ dân quân du kích địa phương đấy mạnh du kích chiến tranh, bảo vệ các cơ quan, kho tàng, hậu phương chiến dịch.
Suốt thời gian này, các đơn vị bộ đội của ta nhanh chóng tập kết ở tả ngạn sông Đà. Việc vượt sông rất phức tạp. Do nước chảy siết, trời lại giá lạnh, không bắc được cầu phao, không có phương tiện vượt sông, chủ yếu từng đơn vị tự làm mảng, phao bơi để vượt sông. Người biết bơi, người không biết bơi. Cán bộ và chiến sỹ phải bàn bạc tổ chức cách nào để vượt sông an toàn và bảo vệ được vũ khí, đạn dược, lương thực không bị ướt, cách đưa vũ khí nặng sang sông, cách đối phó với máy bay, pháo địch bắn phá ngăn chặn.
Yêu càu vượt sông là bí mật, nhanh chóng nhưng phải sẵn sàng vượt sông bằng sức mạnh. Các đơn vị tổ chức một bộ phận bơi giỏi sang sông trước, chiếm lĩnh đầu cầu để bảo vệ bến vượt.
Lúc này ở Phú Thọ, địch đã lên tới Yên Bình Xã, không phát hiện được kho tàng quan trọng của ta, chỉ gặp những cuộc đụng độ nhỏ với du kích địa phương. Việc đưa thêm 30.000 quân lên Phú Thọ đã hút hầu hết lực lượng vận tải trong lúc tập đoàn cứ điểm Nà Sản đang gấp rút xây dựng khẩn thiết yêu cầu không quân phải tiếp tế vật liệu xây dựng, súng đạn, lương thực hàng ngày. Mặt khác, địch đã phát hiện một sự đe dọa đặc biệt, đó là có tin một bộ phận chủ lực tại Tây Bắc đang nhanh chóng quay về.
Ngày 14 tháng 11 năm 1952, quân địch vội vã rút khỏi Đoan Hùng theo đường số 2. Trung đoàn 36 đã kịp tổ chức một trận địa phục kích ngay tại Chân Mộng và Trạm Thản, diệt 44 xe cơ giới, tiêu diệt và bắt trên 400 quân địch thuộc binh đoàn cơ động số 4 do Kergaravat chỉ huy.
Trung đoàn 176 ở địa phương đánh nhỏ, từ khi địch lên tới khi địch rút tiêu diệt khoảng 600 quân địch. Ấy là chưa kể số quân địch thương vong vì những hoạt động của bộ đội địa phương và dân quân du kích.
Tính chung ở mặt trận Phú Thọ, ta tiêu diệt khoảng 2.000 quân địch, phá hủy 100 xe các loại.
Trong khi quân địch rút khỏi Phú Thọ, thì ở hướng chính của chiến dịch, các đại đoàn vượt sông Đà.
Ngày 12 tháng 11, Đại đoàn 312 tiêu diệt các vị trí Bản Hoa, Ba Lay, xóa sổ chi đoàn Rouquette. Ngày 18, Đại đoàn 308 tiêu diệt Hát Tiếu, Mượng Lụm. Địch bỏ nhiều vị trí rút chạy. Đại đoàn truy kích quét sạch địch khỏi phòng tuyến thiết lập ở hữu ngạn sông Đà. Chi đoàn Favreau Tạ Khoa chạy về Cò Nòi. Chi đoàn Bethenot tan rã. Cái mà Salan gọi là “đê chắn sóng” đã bị hoàn toàn vô hiệu hóa.
Ngày 19, địch vội vã lập một khu phòng thủ mới ở Chiềng Đông để ngăn chặn quân ta trên đường tiến về Nà Sản. Địch ở khu vực này đã lên tới 5 tiểu đoàn. Trung đoàn 88 truy kích tiêu diệt gọn tiểu đoàn ngụy số 55 và một đại đội dù lê dương. Dù rất mệt mỏi, trung đoàn tiếp tục truy kích về phía Chiềng Đông. Bốn tiểu đoàn địch ở Chiềng Đông vội bỏ khu cố thủ chạy về Nà Sản.
Đêm 19, trung đoàn 174 phối hợp với trung đoàn 98 đánh Mộc Châu, chiếc lá chắn quan trọng của địch trên đường số 6, thiết lập trên một núi đá lớn do tiểu đoàn ngụy Thái số 2 chiếm giữ. Bộ đội ta đã nhanh chóng tiêu diệt Mộc Châu, diệt và bắt sống toàn bộ quân địch do tên tiểu đoàn trưởng Vinvent, đã có mặt ở Tây Bắc được hơn hai mươi năm chỉ huy.
Ngày 18, địch rút khỏi Sơn La.
Hướng thọc sâu đã hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt 400 tên địch, bắt sống 1.000 tên, giải phóng một vùng đất đai rộng lớn gồm 6 huyện: Than Uyên, Quỳnh Nhai, Mường La, Thuận Châu và Điện Biên Phủ, rộng khoảng 3.000 kilômét vuông.
Ở Tây Bắc, địch chỉ còn co cụm lại hai nơi: Lai Châu và Nà Sản. Tại Nà Sản địch xây dựng thành tập đoàn cứ điểm mạnh có cả sân bay dã chiến. Lực lượng địch tại Nà Sản đã lên tới 8 tiểu đoàn bộ binh, 8 đại đội lẻ, 4 đại đội pháo binh và 1 đại đội công binh. Địch có từ 36 tới 38 đại đội trong đó có 4 tiểu đoàn dù lê dương tương đối nguyên vẹn, và hai tiểu đoàn Bắc Phi. Địch đóng 24 cứ điểm đại đội và 4 cứ điểm trung đội. Các cứ điểm bố trí trên đồi cao, công sự dã chiến, giữa là sân bay và trận địa pháo.
Tiếp tế của địch hoàn toàn dựa vào không quân.
Về phía ta, số thương vong trong 2 đợt chiến dịch tương đối ít.
Chỉ huy trưởng hỏi cơ quan tham mưu chiến dịch:
- So sánh cụ thể các lực lượng tác chiến của địch và của ta hiện nay như thế nào?
- Lực lượng ta lúc này có 36 đại đội, tương đương với số đại đội của địch. Qua truy kích đường dài anh em có phần mỏi mệt, nhưng đang trên đà thắng lợi, mọi người đều rất phấn khởi, tin tưởng.
Về sau mới thấy sự so sánh này có phần không thích hợp, vì ta và địch có số đại đội tương đương, nhưng các đơn vị của địch thuộc lực lượng mới tăng cường, đều đầy đủ quân số, còn các đơn vị của ta qua một thời gian dài chiến đấu đã bị hao hụt một phần ba.
Trên cơ sở đề nghị của cơ quan tham mưu, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định mở cuộc tiến công thứ 3 tiêu diệt địch ở Nà Sản giành toàn thắng cho chiến dịch. Phương châm tác chiến của ta là: “Đánh chỗ yếu trước, đánh chỗ mạnh sau, bao vây toàn diện, công kích có trọng điểm, đánh ngoại vi trước, tranh thủ mở một mặt rồi đánh vào trung tâm”.
Đêm 30 tháng 11, Đại đoàn 308 tiêu diệt cứ điểm Phú Hồng và Bản Hời. Nhưng sau đó địch phản kích chiếm lại Phú Hồng.
Đêm 1 tháng 12, trung đoàn 174 đánh Nà Xi, và trung đoàn 209 đánh Bản Vậy đều không thành công.
Bộ chỉ huy chiến dịch nhận định: “ Ta chưa nắm được tình hình địch thật rõ ràng. Lực lượng ta qua hai đợt chiến đấu đã bị tiêu hao khôn đủ sức tiêu diệt Nà Sản. Cần có thời gian chuẩn bị chu đáo hơn. Cần nghiên cứu kỹ về địch, về kiểu phòng ngự theo tập đoàn cứ điểm.”
Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định kết thúc chiến dịch Tây Bắc. Nhiệm vụ trước mắt của ta là củng cố căn cứ địa Tây Bắc, chuẩn bị tiến lên giành thắng lợi mới. Bộ đội ta một bộ phận ở lại bảo vệ vùng giải phóng, đại bộ phận bí mật rút về căn cứ theo những con đường khác nhau. Một tháng sau khi ta rút quân, địch mới phát hiện.
❖ 4 ❖Chiến dịch Tây Bắc tiến hành nhanh và kết thúc sớm hơn nhiều so với dự kiến. Mùa khô còn khá dài. Nếu ta không tiếp tục tạo áp lực nhắm vào lực lượng cơ động của địch, địch hậu đồng bằng Bắc Bộ sẽ lại gặp khó khăn. Mùa đông này ta giành được thắng lợi lớn khá thuận lợi do ta đã chọn đúng nơi địch yếu và sơ hở, địa hình tác chiến thuận lợi. Chính sau này, Navarre cũng viết trong hồi ký là quân Pháp bị bất ngờ khi ta chọn Tây Bắc làm mục tiêu của những cuộc tiến công lớn, điều mà trước đây người Pháp chưa hề nghĩ tới, họ vẫn tin là ta sẽ tiếp tục tiến công vào đồng bằng.
Với chiến thắng Tây Bắc, cánh cửa tiến vào Thượng Lào đã mở toang. Ngay tại Tây Bắc vẫn còn quân địch ở Lai Châu và Nà Sản. Ở Lai Châu địch chỉ có một lực lượng nhỏ, cô lập, địa bàn nhở hẹp, ít có ý nghĩa lớn về chính trị. Nà Sản đã được tổ chức thành một tập đoàn cứ điểm mạnh. Theo các cố vấn, muốn đánh Nà Sản, quân đội ta phải có thời gian chuẩn bị huấn luyện bộ đội đánh tập đoàn cứ điểm, và tổ chức thêm lực lượng pháo binh và pháo phòng không. Bạn đang xây dựng cho chúng ta một trung đoàn lựu pháo 105, theo kế hoạch cuối tháng 2 năm 1953 sẽ có mặt ở Tuyên Quang. Trung đoàn pháo cao xạ 37 ly, do Liên Xô trang bị, mới chuẩn bị xong về nhân sự, sẽ phải qua huấn luyện 5, 6 tháng ở Trung Quốc…
Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp và Chủ nhiệm Chính trị Nguyễn Chí Thanh đã nghĩ tới mở một chiến dịch ở Thượng Lào. Từ lâu, mặt trận Lào nói chung và Thượng Lào nói riêng được coi là hậu phương an toàn nhất của địch, đồng thời lại là nơi địch yếu và sơ hở. Ta đánh vào đây sẽ gây cho địch nhiều khó khăn về quân sự, chính trị và kinh tế buộc địch phải đối phó, phải đưa lực lượng từ đồng bằng Bắc Bộ lên bảo vệ Thượng Lào tạo điều kiện cho ta tiêu diệt sinh lực địch, làm cho địch bị nhiều nơi co kéo, không nống ra chiếm lại Tây Bắc và cũng khó mở những cuộc càn quét lớn ở đồng bằng Bắc Bộ.
Trong tháng 1 năm 1953, Tổng quân ủy nhiều lần thảo luận về chiến dịch Thượng Lào. Ngày 2 tháng 2 năm 1953, Tổng quân ủy triệu tập một hội nghị mở rộng để có kết luận dứt khoát về vấn đề này. Toàn thể đề thống nhất ý kiến: Mở chiến dịch Thượng Lào, ta có thể tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch từ 2.000 đến 3.000 tên. Ta sẽ xây dựng được một cơ sở đứng chân cho bạn. Buộc địch phải phân tán lực lượng hơn nữa, vừa tạo điều kiện cho Tây Bắc kiềm chế quân địch, vừa tạo điều kiện cho chiến tranh du kích ở đồng bằng phát triển. Và một điều rất quan trọng là bộ đội ta có dịp tập dượt đánh một tập đoàn cứ điểm nhỏ trước khi đánh tập đoàn cứ điểm Nà Sản. Mục tiêu được lựa chọn là thị xã Sầm Nưa, nơi địch đã xây dựng một tập đoàn cứ điểm nhỏ với 3 tiểu đoàn và sân bay.
Sau hội nghị, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã tổng hợp ý kiến báo cáo lên Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh xin mở chiến dịch tại Thượng Lào. Bạn rất hoan nghênh và cho biết năm nay ở Sầm Nưa được mùa, riêng huyện Xiềng Khọ có thể dùng muối đổi cho dân lấy 200 tấn gạo.
Được sự nhất trí của Đảng và Chính phủ cách mạng kháng chiến Lào, Tổng tư lệnh chỉ thị cho cơ quan tham mưu xây dựng kế hoạch chiến dịch ở Thượng Lào. Ngày 16 tháng 3 năm 1953, các đơn vị ở Việt Bắc được lệnh tới khu vực tập kết Mộc Châu. Cuối tháng 3, ta tiến hành nghi binh đánh Nà Sản thu hút nhiều máy bay trinh sát tới và bắn phá.
Mặc dù việc chuẩn bị đánh Thượng Lào chuẩn bị khá sớm, nhưng tới lúc này địch vẫn chưa phát hiện được hướng chiến dịch của ta. Khi các đại đoàn ta xuất phát từ Phú Thọ, đài phát thanh địch đưa tin bộ đội ta sẽ tiến công Thượng Lào bằng hai hướng Mộc Châu sang Sầm Nưa hoặc từ Điện Biên Phủ tới Luông Phabang, hoặc sẽ tiến công Nà Sản. Do kế hoạch nghi binh của ta thực hiện tốt, nên địch ráo riết đề phòng ta đánh Nà Sản và tăng cường nhiều lương thực, đạn dược cho Nà Sản.
Ngày 5 và 6 tháng 4, cơ quan tham mưu tổ chức hội nghị phổ biến kế hoạch tác chiến tại sở chỉ huy tiền phương của Bộ gần Mộc Châu.
Địch ở Sầm Nưa có 3 tiểu đoàn quân Lào và một trung đội lê dương do viên trung ta Malplate chỉ huy. Thị xã Sầm Nưa được địch biến thành một tập đoàn cứ điểm nhỏ gồm 11 vị trí trong phạm vi chiều dọc 1.800 mét và chiều ngang 2.000 mét. Tại đây có 2 sân bay. Một sân bay thả dù ở Na Viêng, một sân bay dã chiến cho máy bay trinh sát hạ cánh ở Na Thông.
Đại đoàn 308 được phối thuộc trung đoàn 98 thuộc Đại đoàn 316 hành quân chiếm lĩnh trận địa xung quanh Sầm Nưa. Đại đoàn cử 3 tiểu đoàn đi trước khống chế cánh đồng Mường Sầm không cho địch nhảy dù tăng viện, chặn đường số 6 không cho địch ở Sầm nữa rút chạy về Xiêng Khoảng.
Đại đoàn 312 phái một tiểu đoàn và một đại đội thuộc trung đoàn 165 đi trước bao vây kiếm chế sân bay Nà Thông (đông thị xã Sầm Nưa 1 kilômét) không cho địch nhảy dù hoặc sử dụng lên xuống, chiếm lĩnh các ngọn đồi ở dãy núi phía bắc Phouloupe khống chế bãi thả dù không cho địch sử dụng.
Sở chỉ huy chiến dịch đi ở hướng chủ yếu với Đại đoàn 308. Bộ chỉ huy chiến dịch gồm: Chỉ huy trưởng Võ Nguyên Giáp, Chủ nhiệm chính trị Nguyễn Chí Thanh, Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái, Chủ nghiệm cung cấp Nguyễn Văn Nam. Phía bạn Lào có hoàng thân Souphanuvông, Thủ tướng Chính phủ kháng chiến Lào - đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Bộ trưởng Quốc phòng Lào – đồng chí Xanhgapo, Thứ trưởng bộ Quốc phòng Lào và đồng chí Thao Ma, Bí thư tỉnh Sầm Nưa đi bên cạnh Bộ chỉ huy chiến dịch.
Ngày 12 tháng 4, qua tin kỹ thuật ta được biết có một trung đội trưởng thuộc tiểu đoàn 888 hàng địch ở Sầm Nưa, báo cho địch biết một phần kế hoạch tiến công của ta.
Ngày 13 tháng 4, bộ phận quân báo của Bộ bám sát địch ở Sầm Nưa báo cáo về là địch đã rút khỏi Sầm Nưa đêm 12 tháng 4 năm 1953. Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái vội vã gặp Chỉ huy trước chiến dịch báo cáo.
Chỉ huy trưởng hỏi:
- Đơn vị đi đầu của ta cách địch bao nhiêu.
- Nếu địch rút đêm 12 tháng 4 thì bộ phận chủ lực đi đầu của ta cách địch một ngày đường, ta vẫn có thể truy kích kịp quân địch.
Lệnh truy kích gửi cho các đơn vị cùng lúc với động viên lệnh của Đại tướng Tổng tư lệnh kêu gọi các đơn vị: “Các đồng chí! Địch đã bỏ Sầm Nưa chạy. Sầm Nưa đã giải phóng. Nhưng muốn giúp được nước bạn củng cố căn cứ địa thì chúng ta phải tiêu diệt cho kỳ được sinh lực địch… Đường rút chạy của chúng khá xa, tinh thần chúng càng kém… Chúng ta phải khắc phục tất cả khó khăn… chuyển thành quyết tâm tiêu diệt địch trong cuộc truy kích này. Đó là nhiệm vụ ta phải làm cho kỳ được, vượt lên thực nhanh, bám sát và chia cắt chúng, chặn đường rút của chúng, tiêu diệt chúng, tiêu diệt, tiêu diệt cho giòn, cho gọn”.
Cơ quan tham mưu cũng chuyển lệnh cho Đại đoàn 304 đánh mạnh ở đường số 7 ngăn chặn bọn địch ở Sầm Nưa chạy về cánh đồng Chum.
Sau này, ta biết rõ thêm về việc quân địch rút khỏi Sầm Nưa.
13 giờ ngày 12 tháng 4 năm 1953, Malplate, chỉ huy phân khu Sầm Nưa, nhận lệnh rút khỏi Sầm Nưa. Vì phải phá hủy những vũ khí nặng và những kho tàng đạn dược, lương thực không thể mang theo, mãi tới 22 giờ, bộ phận đi đầu mới xuất phát, và đến 9 giờ sáng ngày 13 tháng 4, toàn bộ quân địch mới ra khỏi doanh trại.
Số quân địch rút chạy có khoảng 1.900 tên. Chúng mang theo vũ khí nhẹ, một cơ số đạn, bốn ngày lương thực. Đêm 12 tháng 4 trời lại mưa to. 19 giờ ngày 13 tháng 4, Malplate mới đưa hết quân đến Nà Noọng (tây – nam Sầm Nưa 23 kilômét) và nghỉ lại một đêm ở Nà Noọng. Sáng ngày 14 tháng 4 tiếp tục hành quân.
Khi bộ phận cuối cùng của quân địch rút, lúc 10 giờ và 12 giờ sáng 13 tháng 4 nhiều đơn vị của ta chỉ còn cách Sầm Nưa từ 5 tới 10 kilômét. Các trung đoàn 209 và 102 do công tác tổ chức chậm đến 17 giờ mới xuất phát truy kích địch, chậm hơn bộ phận cuối cùng của địch rút là 8 giờ và bộ phận đi đầu của địch là 19 giờ.
Đêm 13 tháng 4, tiểu đoàn 888 của trung đoàn 98 báo cáo đã đuổi kịp các cơ quan ngụy quyền tỉnh Sầm Nưa ở Mường Hàm, bắt được toàn bộ bọn này cùng với 40 lính dõng.
Như vậy địch chạy chưa xa. Cơ quan tham mưu chuyển lệnh của Chỉ huy trưởng chiến dịch cho Đại đoàn 308, trung đoàn 209 nói rõ: “Bộ đội ta còn gặp bọn hành chính của địch đi sau, như vậy chủ lực của địch chưa xa lắm, cần phải đôn đốc bộ đội cố gắng vượt lên đánh địch dãn ra hai bên rồi quét trở lại. Cần động viên bộ đội lúc này gắng một bước thì tiêu diệt thêm một tên địch, không vì mệt mỏi, thương hại bộ đội mà bỏ lỡ cơ hội”.
Sáng 14 tháng 4, trung đoàn 98 đuổi kịp địch ở Nà Noọng, diệt 50 tên trong đó có viên quan ba Rousselot, và bắt sống 206 lính ngụy, một nhóm 15 sĩ quan và binh lính người Âu, trong đó có 5 quan ba.
Cùng lúc, trung đoàn 102 cùng một bộ phận của trung đoàn 209 tới Nà Noọng, tiếp tục đuổi theo quân địch đã rút chạy. Tới Hứa Mường, bộ đội bắt kịp địch đã tiêu diệt khoảng 1 đại đội trong đó có 40 lính Âu Phi. Một bộ phận của trung đoàn 102 truy kích địch về phía Bản Ban.
Đảng ủy chiến dịch nhận định: Ta mở chiến dịch Thượng Lào nhằm tiếp tục tạo sức ép với quân địch ở đồng bằng Bắc Bộ, tạo cơ hội cho bộ đội ta tập dượt đánh tập đoàn cứ điểm, và giúp bạn xây dựng một cơ sở đứng chân vững chắc ở Thượng Lào. Nay quân địch rút chạy, cơ hội đánh tập đoàn cứ điểm không còn, ta có thể tiêu diệt được một bộ phận địch rút chạy trên đường truy kích nhưng không gây được sức ép với quân địch theo như kế hoạch cũ. Ta cần điều chỉnh mục tiêu, để khai thác hết lợi thế của một lực lượng lớn chủ lực ta đang có mặt ở Thượng Lào.
Lực lượng của ta đã đuổi kịp quân địch tiêu diệt được một số, quân địch phần lớn là người Lào chắc chắn sẽ tiếp tục bị bắt hoặc tan rã trên đường rút chạy. Ta chỉ cần sử dụng một số đơn vị vào việc truy kích địch, và nên huy động mọi lực lượng tham gia chiến dịch chuyển sang uy hiếp mạnh Thượng Lào, tiếp tục tạo sức ép với quân địch ở đồng bằng Bắc Bộ, và tập trung vào việc tạo một vùng đứng chân vững chắc cho bộ đội bạn tại Thượng Lào.
Trên hướng chủ yếu Sầm Nưa, ngày 17 tháng 4, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định cho 1 tiểu đoàn thuộc trung đoàn 98 trang bị gọn nhẹ cấp tốc hành quân vào Mường Hiểm (tây – nam Sầm Nưa 80 kilômét). Tiếp đó trung đoàn 98 được tăng cường 1 đại đội sơn pháo 75 ly và 1 trung đội súng cối 120 ly có nhiệm vụ tiêu diệt quân địch giữa Hứa Mường và Bản Ban, tranh thủ tiến quân vào lưu vực sông Nậm Hu (bắc Luông Phabăng) là khu vực quan trọng về quân sự, chính trị và kinh tế. Ngày 20 tháng 4, trung đoàn 148 được điều từ Điện Biên Phủ sang phối hợp với trung đoàn 98, do đồng chí Bằng Giang chỉ huy, tiêu diệt vị trí Mường Ngòi và Pakseng. Tiếp đó, trung đoàn 98 cùng với 1 tiểu đoàn của đơn vị bạn Lào hành quân sâu về phía Luông Phabăng. Ngày 9 tháng 5, Salan buộc phải điều binh đoàn cơ động số 1 gồm 1 tiểu đoàn dù, 2 đại đội súng cối ở đồng bằng Bắc Bộ lên tổ chức một tập đoàn cứ điểm bảo vệ Luông Phabăng.
Từ Bản Ban, Đại đoàn 304 cử 2 tiểu đoàn thuộc trung đoàn 9 tiến về Sầm Nưa phối hợp với hướng chính. Tiểu đoàn còn lại của trung đoàn 9 tiến theo đường số 7 vào Khăng Khai, Cánh Đồng Chum để uy hiếp địch. Trước sự uy hiếp của ta ở Xiêng Khoảng, địch phải điều từ Nà Sản và đồng bằng Bắc Bộ 7 tiểu đoàn bộ binh và 2 tiểu đoàn pháo binh thành lập một tập đoàn cứ điểm mới tại Cánh Đồng Chum.
Số tàn binh của địch ở Sầm Nưa còn lại khoảng 200 tên chạy về phía Cánh Đồng Chum, ngày 20 tháng 4 tới nơi. Riêng viên trung tá chỉ huy Malplate, mãi một tháng sau, ngày 18 tháng 5, mới về Cánh Đồng Chum.
Trung tuần tháng 3 năm 1953, bộ chỉ huy chiến dịch quyết định kết thúc chiến dịch Thượng Lào và lệnh cho các đơn vị rút quân về nước để phòng mùa mưa tới sớm. Để giúp bạn củng cố vùng mới giải phóng, ta quyết định để trung đoàn 98 ở lại Sầm Nưa, 1 tiểu đoàn của trung đoàn 98 ở lại vùng Nậm Hou cùng với các đơn vị tình nguyện của ta. Hướng Xiêng Khoảng, Đại đoàn 304 để lại 2 tiểu đoàn.
Chú thích:
1. Berchoux.