← Quay lại trang sách

Chương XII MẤT MỤC TIÊU
❖ 1 ❖

Suốt mùa xuân và mùa hè năm 1953, các đại đoàn chủ lực của ta tập trung nghiên cứu cách đánh tập đoàn cứ điểm.

Các cố vấn Trung Quốc giới thiệu: theo kinh nghiệm của Giải phóng quân Trung Quốc, có hai cách đánh tập đoàn cứ điểm:

-Một là, dùng toàn bộ lực lượng chia làm nhiều hướng, với sự hợp đồng chặt chẽ của pháo binh và cao xạ đánh cùng một lúc, đồng thời tổ chức một mũi đột kích mạnh đánh thọc sâu vào sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm, tạo nên sự rối loạn ở trung tâm tập đoàn cứ điểm ngay từ đầu, từ ngoài đánh vào, từ trong đánh ra tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm trong một thời gian tương đối ngắn. Đây là cách “đánh nhanh, giải quyết nhanh”.

-Hai là, bao vây địch dài ngày, đánh dần từng cứ điểm, lần lượt tiến công tiêu diệt từng trung tâm đề kháng của địch bằng nhiều trận công kiên kế tiếp, tiến tới tiêu diệt hoàn toàn quân địch. Bạn gọi cách đánh thứ hai là “chiến thuật bóc vỏ” hay “đánh chắc, tiến chắc”.

Về sau ta mới biết, Quân ủy trung ương Giải phóng quân Trung Quốc theo dõi rất sát mọi hoạt động của đoàn cố vấn Trung Quốc tại Việt Nam. Đoàn cố vấn thường xuyên báo cáo về nước xin ý kiến và được chỉ đạo rất kịp thời. Có những điều cố vấn nói với ta, trên thực tế là ý kiến của Quân ủy Trung ương Trung Quốc. Đó là những kinh nghiệm chiến đấu của Giải phóng quân Trung Quốc. Bạn không công khai nói với ta điều này, vì muốn giữ đúng vai trò cố vấn trong công tác, chỉ giới thiệu kinh nghiệm và gợi ý cách làm chứ không áp đặt. Một cách làm việc thực sự cầu thị.

Ở Đại đoàn 308, cuộc họp bàn về đánh tập đoàn cứ điểm bắt đầu khá căng thẳng. Tất cả đều trầm ngâm. Trong trí nhớ mọi người còn bị ám ảnh về những trận đánh ngoại vi Nà Sản mùa đông năm trước. Họ và các đơn vị bạn vừa tiêu diệt Pú Chạng, Nghĩa Lộ kiên cố, có hầm ngầm; Mộc Châu với công trình phòng ngự nhiều tầng rất phức tạp nên khi nhận nhiệm vụ tiêu diệt những cao điểm Pú Hồng, Nà Si…của địch với công sự dã chiến, đều có vẻ coi thường, nhưng khi chạm vào chúng, họ như vấp vào đá.

Những người dự hội nghị hầu như không ai nghĩ đến phương án đánh nhanh thắng nhanh để tiêu diệt tập đoàn cứ điểm. Mọi người chỉ bàn tới cách đánh tiêu diệt dần dần từng cứ điểm, đây chính là cách họ đã làm tại Nà Sản năm trước và thất bại. Khó khăn thứ nhất là phải phá vỡ cái vỏ cứng của tập đoàn cứ điểm. Đánh điểm, người chiến sĩ xung kích thường chỉ phải đối phó với hỏa lực địch ở phía trước mặt; đánh tập đoàn cứ điểm, họ phải đối phó với hỏa lực địch ở trước mặt, ở hai bên sườn, ở cả sau lưng và từ trên cao xuống. Ai cũng ngán hỏa lực pháo của tập đoàn cứ điểm.

Trung đoàn trưởng trung đoàn 36 Hồng Sơn bỗng đứng lên nêu câu hỏi:

-Tại sao ta không đánh cùng lúc cả những cứ điểm ở bên ngoài và bên trong?

-Như vậy là chọn phương án “đánh nhanh, thắng nhanh”?

-Tôi vẫn nói đánh theo cách “đánh chắc, tiến chắc”. Ta không chỉ đánh những cứ điểm ở ngoại vi, mà có thể đánh cả những vị trí nằm sâu bên trong tập đoàn cứ điểm.

Mọi người ngạc nhiên nhìn anh. Rồi một cán bộ nói:

-Nếu làm được như vậy thì tuyệt vời! Nhưng chưa tiêu diệt được những cứ điểm địch bên ngoài thì làm sao tiêu diệt được những cứ điểm bên trong?

-Chính trung đoàn chúng tôi đã làm như thế trong chiến dịch Hòa Bình.

Mọi người nhớ lại trung tuần tháng 11 năm 1951, cũng chính Salan, tác giả của con nhím Nà Sản, theo lệnh De Lattre de Tassigny, đã tung 5 tiểu đoàn dù và 2 binh đoàn cơ động đánh chiếm thị xã Hòa Bình. Địch đã nhanh chóng cấu trúc một hệ thống phòng ngự dã chiến gồm 28 cứ điểm lớn, nhỏ với những công sự bằng gỗ, đất và hàng rào dây thép gai, bao quanh thị xã có sở chỉ huy, sân bay, trận địa pháo, và dọc đường số 6, dọc sông Đà để bảo vệ con đường tiếp tế trên bộ và trên sông. Ngày đó không ai nghĩ đây là một tập đoàn cứ điểm. Nhưng bây giờ nhìn lại khu vực thị xã Hòa Bình, cách bố trí của quân địch cũng có hình thái tương tự như một tập đoàn cứ điểm tuy không chặt chẽ bằng. Tại đây, địch đóng một loạt vị trí trên những đồi bao quanh thị xã để bảo vệ cho sở chỉ huy, sân bay, và một trận địa pháo nằm ở thị xã phía dưới cạnh sông Đà.

Hồng Sơn kể lại, trong chiến dịch, bộ đội ta thương vong nhiều vì pháo, đồng chí Tổng tư lệnh đã gọi anh lên trao nhiệm vụ cho trung đoàn dùng một lực lượng nhỏ tiềm nhập thị xã Hòa Bình tiêu diệt trận địa pháo nằm tại đó. Khi trung đoàn đi trinh sát địa hình thấy có một loạt đồn bốt bảo vệ thị xã, nằm trên những quả đồi ở hướng đột nhập. Một lực lượng nhỏ bộ đội ta nếu ngụy trang khéo, lợi dụng bóng tối có thể bí mật luồn vào thị xã, nhưng hoàn thành nhiệm vụ rồi họ sẽ khó trở về an toàn vì yếu tố bí mật không còn. Quân địch ở những vị trí này nhất định sẽ chặn đường rút của quân ta.

Đêm hôm đó, trung đoàn tổ chức một đại đội biệt kích trang bị thật gọn nhẹ, chỉ có tiểu liên và bộc phá, lợi dụng bóng đêm đột nhập thị xã. Cùng lúc, trung đoàn dùng hai tiểu đoàn đánh kiềm chế hai cao điểm Rậm và Rè nằm trên đường bộ đội rút ra. Những đơn vị làm nhiệm vụ ở hai cao điểm phải khống chế được những hỏa lực địch kiểm soát phía thị xã. Do đó, họ phải quay lưng về phía thị xã mở những mũi đột kích cứ điểm từ phía trong. Đại đội biệt kích của ta đã bất ngờ xuất hiện giữa trận địa pháo, nhanh chóng phá hủy toàn bộ các khẩu lựu pháo 105 ly, bắt được tên quan ba chỉ huy còn mặc quần áo ngủ. Hai đơn vị kiềm chế địch ở cứ điểm Rè và cứ điểm Rậm thấy quân lính bên trong rối loạn, chống cự yếu ớt, đã phát huy lợi thế tiêu diệt cả hai cứ điểm này.

Trung đoàn trưởng trung đoàn 36 nói tiếp:

-Chúng tôi không chỉ đột nhập thị xã một lần. Rút kinh nghiệm biệt kích pháo, trung đoàn tổ chức cho anh em biệt kích máy bay. Lần này trung đoàn chỉ sử dụng một tổ ba người mang theo thuốc nổ bí mật luồn vào sân bay, phá chiếc máy bay đỗ trên sân. Vì số lượng nhỏ, anh em rút an toàn. Chiếc máy bay bị phá hủy nằm ì tại chỗ khiến sân bay của địch trở thành vô dụng. Những người đánh các trận đó, hôm nay còn ngồi ở đây…

Với tư cách một người phụ trách tờ báo của Đại đoàn, tôi cũng có mặt tại cuộc họp này. Ngồi nghe trung đoàn trưởng Hồng Sơn nói, tôi chợt nhớ lại sau những trận đánh đó, tôi đã nhiều lần gặp đại đội trưởng Chu Tấn, chỉ huy đơn vị biệt kích pháo, và tổ trưởng Trịnh Quốc Oai, chỉ huy trận biệt kích máy bay, nghe kể chuyện để viết bài cho tờ báo đại đoàn. Nhiều người lúc đó mới chợt nhận ra đại đoàn đã từng giành thắng lợi khi đánh vào tập đoàn cứ điểm.

❖ 2 ❖

Sau chiến dịch Sầm Nưa, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp nảy ra ý nghĩ có thể tập đoàn cứ điểm là biện pháp cuối cùng của địch mà bộ đội ta phải vượt qua trong cuộc kháng chiến này. Rõ ràng là từ sau chiến dịch Tây Bắc, mỗi khi thấy quân ta xuất hiện ở một vùng rừng núi thì tập đoàn cứ điểm cũng xuất hiện theo. Tập đoàn cứ điểm đã trở thành phương pháp chủ yếu để cứu vãn quân địch tránh khỏi bị tiêu diệt. Chiều hướng diễn ra là nếu lực lượng tiến công của ta mạnh thì tập đoàn cứ điểm sẽ lớn dần lên. Nhưng không phải nó sẽ lớn lên vô hạn. Vì nếu địch dồn quân xây dựng những tập đoàn cứ điểm lớn thì phạm vi chiếm đóng của chúng sẽ bị thu hẹp.

Anh không ngờ cuối cùng trong chiến tranh lại phải đương đầu với loại hình chiến đấu này.

Đây là một biện pháp đơn giản và lợi hại của địch để đối phó với những cuộc tiến công của ta ở vùng rừng núi, khi những đồn bốt bị uy hiếp, chúng chỉ cần nhanh chóng rút chạy tới một địa hình có một thung lũng và những núi đồi vây quanh rất dễ gặp tại đây.

Anh nghĩ mãi về sự thay đổi sức mạnh của một cứ điểm đơn lẻ khi nó được đặt kề sát nhau. Nhất định sẽ phải tiến hành những trận công kiên liên tiếp. Anh cảm thấy mừng vì bộ đội ta đã qua nhiều năm tiến hành những trận công kiên, sẽ không xa lạ với chiến thuật này.

Tổng tư lệnh theo dõi rất chặt chẽ những cuộc thảo luận về cách đánh tập đoàn cứ điểm ở các đơn vị. Mắt anh bừng sáng mỗi khi phái viên từ đơn vị về báo cáo một ý kiến mới. Người ta hiểu anh sẽ không bỏ qua bất cứ một kinh nghiệm thành công nào của bộ đội ta.

Cũng giống như mọi lần, anh chuẩn bị cho trận đánh với một sự mê say. Và hình như thử thách trước mắt càng lớn, sự mê say càng tăng, vì anh hiểu là vượt qua được thử thách này thắng lợi của chiến tranh càng gần.

Đầu năm 1953, trung đoàn lựu pháo 105 ly, hỏa lực mạnh nhất của ta do Trung Quốc trang bị và huấn luyện, gồm 20 khẩu pháo 105 ly của Mỹ với 3.500 viên đạn, đã về nước. Việc vận chuyển trọng pháo từ Vân Nam về Việt Bắc phải dùng bè đi theo sông Hồng qua nhiều ghềnh thác. Ta đang gấp rút chuẩn bị về nhân sự cho trung đoàn cao xạ 37 ly, do Liên Xô trang bị, sẽ được huấn luyện tại Trung Quốc, và có thể xuất trận trong mùa khô năm nay.

Không khí chuẩn bị rất hào hứng.

❖ 3 ❖

Trung tuần tháng 5 năm 1953, nước Pháp đưa Henri Navarre, Tổng chỉ huy mới của quân đội viễn chinh, tới Sài Gòn. Từ khi bắt đầu chiến tranh, nước Pháp đã bảy lần bổ nhiệm Tổng chỉ huy. Các hãng truyền thông phương Tây đưa tin Navarre là tướng bốn sao, 55 tuổi, nguyên tham mưu trưởng Lục quân Pháp thuộc khối Bắc Đại Tây Dương, đã từng chỉ huy một sư đoàn thiết giáp, phụ trách công tác tình báo phản gián trong quân đội Pháp.

Navarre, một cái tên còn rất lạ lẫm đối với ta. Tổng tư lệnh chỉ thị cho phòng tình báo gấp rút tìm hiểu về viên Tổng chỉ huy mới này.

Anh nói:

-Navarre làm việc trong khối Bắc Đại Tây Dương, xem mối quan hệ với Mỹ như thế nào? Chú ý, Navarre không những đã là tham mưu trưởng Lục quân Pháp mà còn nhiều năm làm công tác tình báo.

Ta chỉ mới biết sau khi tới Đông Dương, Navarre đi thăm nhiều nơi, đáng chú ý, Nà Sản là một nơi y tới thăm đầu tiên.

Chiều ngày 17 tháng 7 năm 1953, Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái tới gặp anh với vẻ khẩn trương:

-Lạng Sơn báo cáo về: sáng nay quân Pháp đã nhảy dù xuống thị xã và Lộc Bình trên đường số 4. Tôi đã chỉ thị phải bảo vệ dân chúng, các kho tàng, và Quân khu Việt Bắc điều ngay lực lượng tăng cường cho Lạng Sơn tiêu diệt quân địch.

Những nơi này đều nằm sâu trong hậu phương ta. Lạng Sơn được giải phóng cách đó ba năm, là đầu mối giao thông quan trọng giữa ta với Trung Quốc, nơi đón nhận phần lớn hàng viện trợ quân sự. Tin này khiến anh rất ngạc nhiên.

-Sao chúng lại có hành động liều lĩnh như vậy?

-Chúng tôi phán đoán là địch muốn phá một số kho tàng của ta và tạo thanh thế cho Navarre mới nhậm chức.

-Navarre vốn chỉ huy tình báo, chắc đã nắm được tình hình chủ quan của ta ở Lạng Sơn. Cần rút kinh nghiệm về bố trí kho tàng đề phòng biệt kích và máy bay. Có thể chúng sẽ rút nhanh. Nếu địch ở lại đây thì điều chủ lực của Bộ khẩn trương bao vây tiêu diệt bằng hết.

Buổi tối anh được báo cáo tiếp: sau khi vào phá hoại một số kho tàng của ta, quân Pháp đã vội vã rút theo đường số 4 về Tiên Yên. Đây chỉ là một đòn thăm dò. Nhưng nó cũng nói lên phần nào tính chất táo bạo của viên Tổng chỉ huy mới.

Cũng trong tháng 7, có tin Navarre đã trình Hội đồng Tham mưu trưởng và Hội đồng Quốc phòng tối cao Pháp một bản kế hoạch quan trọng về chiến tranh Đông Dương. Navarre là con người thế nào mà chỉ mới sang Đông Dương hơn một tháng đã có ngay một kế hoạch? Những ngày sau đó có tin thêm kế hoạch Navarre được nhà cầm quyền Pháp tán thưởng, và đặc biệt là được Mỹ ủng hộ.

Trong tháng 7, có nhiều diễn biến mới khác. Thủ tướng chính phủ bù nhìn Nguyễn Văn Tâm được Tổng thống Eisenhower mới sang Hoa Kỳ. Eisenhower thúc giục Tâm nhanh chóng tổ chức một “quân đội Việt Nam thực sự” và dành cho 400 triệu đô la để làm việc này. Mỹ hứa năm tới sẽ tăng viện trợ tại Đông Dương cho Pháp lên gấp đôi cùng với việc chuyển giao nhiều trang bị, vũ khí, và hàng trăm máy bay, tàu chiến các loại. Khi nghe tin này, Tổng tư lệnh chợt nhớ đến cuộc gặp Bác ở Khuổi Tát… Mỹ đang chuẩn bị nhảy vào chiến tranh Đông Dương bằng cách nắm đội quân bù nhìn.

Ngày 27 tháng 7 năm 1953, hiệp định ngừng bắn ở Triều Tiên được ký tại Bàn Môn Điếm. Các cường quốc chuẩn bị bàn một giải pháp chính trị cho chiến tranh Triều Tiên. Tại Paris, Albert Sarraut, cựu toàn quyền Đông Dương, lên tiếng trên báo: “Đây là cơ hội tốt nhất lúc này để giải quyết vấn đề Đông Dương với người sẵn sàng điều đình nhất, nghĩa là với Hồ Chí Minh”.

Anh tự hỏi: Phải chăng Bác đã tiên liệu trước chuyện này? Từ sau lần gặp Bác khi ở Thượng Lào về, Bác không nhắc lại điều đã nói với anh ở Điềm Mạc.

Ngày 2 tháng 8 năm 1953, Navarre trở lại Sài Gòn.

Ngày 15 tháng 8 năm 1953, Võ Nguyên Giáp nhận được báo cáo quân địch đã rút khỏi Nà Sản cách đó ba ngày!

Sau khi chiến dịch Tây Bắc kết thúc, ta vẫn để đại bộ phận Đại đoàn 316 ở lại Tây Bắc, chỉ đưa một trung đoàn về Thanh Hóa chỉnh huấn. 316 rất am hiểu chiến trường này. Đại đoàn có nhiệm vụ không cho địch nống ra chiếm lại những căn cứ đã mất. Chúng chỉ làm việc trong thời gian đầu, khi thấy ta có đề phòng, địch co lại như cũ trong căn cứ. Một số đơn vị của 316 đã được cử đi làm công tác tiễu phỉ để bảo vệ vùng tự do. Tập đoàn cứ điểm vẫn được theo dõi chặt chẽ để chuẩn bị cho trận đánh sắp tới. Trường hợp địch rút lui tuy không được dự kiến, vì không có lý do gì, nhưng nếu chúng rút lui, chúng không thể tránh khỏi những thiệt hại.

Mấy ngày liền thấy máy bay vận tải xuất hiện nhiều, bộ đội đóng chung quanh Nà Sản báo cáo có dấu hiệu địch đang tăng cường lực lượng. Bộ Tổng tham mưu phán đoán địch chuẩn bị đối phó với cuộc tiến công mùa khô của ta. Nhưng đó chỉ là những hoạt động nghi binh. Địch đã đưa trọn vẹn lực lượng ở Nà Sản rút lui một cách êm ả. Đây là một chiến công mới của Navarre.

Tổng tư lệnh hoàn toàn bất ngờ khi nhận được tin. Tại sao địch bỗng nhiên từ bỏ chiến thuật lợi hại đang gây cho ta rất nhiều lo âu? Với việc địch rút khỏi Nà Sản, Tây Bắc hầu như hoàn toàn giải phóng. Căn cứ địa Tây Bắc đã nối liền với căn cứ địa Thượng Lào của bạn. Cái nhọt bọc bỗng nhiên biến đi. Nhưng anh cảm thấy có một sự hụt hẫng. Bao nhiêu công sức bỏ ra suốt thời gian qua đã trở thành vô nghĩa. Nhưng điều quan trọng hơn, nếu địch chủ động bỏ tập đoàn cứ điểm Nà Sản thì chúng hẳn đã nghĩ ra điều gì có lợi cho chúng hơn.

❖ 4 ❖

Nếu như đòn biệt kích của Navarre nhằm vào Lạng Sơn chỉ nhắc ta đề cao cảnh giác, thì sau khi địch rút quân khỏi Nà Sản, Tổng quân ủy phải trao nhiệm vụ cho Bộ Tổng tham mưu nhìn lại tình hình toàn cục, nghiên cứu một kế hoạch mới cho mùa khô đang tới gần.

Thu Đông này, Navarre tập trung một lực lượng cơ động rất lớn tại đồng bằng Bắc Bộ. Những trận đánh xuân hè năm 1952 cho thấy chiến trường đồng bằng vẫn chưa thích hợp với bộ đội ta.

Suốt tháng 8, cơ quan tham mưu trăn trở với câu hỏi: Mùa khô này đánh địch ở đâu? Trên chiến trường chính Bắc Bộ chỉ có hai hướng là đồng bằng và rừng núi. Ta chưa thể mở một cuộc tiến công lớn ở đồng bằng, nơi Navarre đã bày sẵn thế trận, và ta chưa có khả năng hạn chế sức mạnh của máy bay và pháo địch. Do đó, ở đồng bằng vẫn phải tiến hành chiến tranh du kích kết hợp với vận động đánh nhỏ của bộ đội chủ lực. Còn ở rừng núi? Trên toàn bộ vùng thượng du phía Bắc, chỉ có hai ngàn ngụy binh Thái ở Lai Châu. Không cần tới một lực lượng lớn để tiêu diệt số quân này. Có thể mở tiếp một chiến dịch ở Thượng Lào? Nhưng sau khi giải phóng Sầm Nưa, tuyến đường tiếp tế vốn đã xa lại càng xa. Và cũng không thể đưa phần lớn các đại đoàn chủ lực của ta sang Thượng Lào, trong lúc già nửa số quân cơ động của Navarre đang tập trung ở đồng bằng sẵn sàng khai thác mỗi sơ hở ở hậu phương ta.

Tổng tư lệnh và Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái cùng bàn bạc với Cố vấn xây dựng một kế hoạch mới cho mùa khô năm 1953-1954.

Cuối tháng 8 năm 1953, Bộ Tổng tham mưu báo cáo với Tổng quân ủy một bản kế hoạch tác chiến với bốn nhiệm vụ:

1. Đẩy mạnh chiến tranh du kích ở địch hậu, phá tan âm mưu bình định của địch, phá kế hoạch mở rộng quân ngụy.

2. Bộ đội chủ lực dùng phương thức hoạt động thích hợp tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch, có thể rèn luyện tác chiến lớn trên chiến trường đồng bằng…

3. Tăng cường lực lượng vũ trang và bán vũ trang ở vùng tự do và có kế hoạch bố trí lực lượng tiêu diệt địch khi chúng đánh ra vùng tự do…Các đại đoàn phải có kế hoạch chuẩn bị các hướng địch có thể đánh ra như: Chũ, Phổng, Thái Nguyên, Phú Thọ, Nho Quan, Thanh Hóa.

4. Tăng cường hoạt động lên hướng Tây Bắc (Lai Châu), Thượng Lào và các chiến trường khác để phân tán chủ lực địch.

Trong bốn nhiệm vụ trên thì nhiệm vụ thứ hai: đẩy mạnh du kích chiến tranh ở địch hậu và rèn luyện chủ lực là quan trọng hơn cả.

Kế hoạch này nhằm mục đích:

“-Tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch chủ yếu là ở địch hậu. Đẩy mạnh du kích chiến tranh, mở rộng căn cứ du kích, phá âm mưu bình định địch hậu và khuếch trương ngụy quân của địch. Rèn luyện bộ đội tác chiến ở đồng bằng.” (1)

Sau buổi họp, Bí thư Quân ủy trung ương gặp riêng Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái. Anh nói:

-Sao tôi đọc rất kỹ, và cố tìm hiểu xem trọng tâm kế hoạch là ở đâu mà tìm mãi không thấy! Chiến trường miền Bắc càng ngày càng trở thành chiến trường chính quyết định tình hình kháng chiến toàn quốc. Theo kế hoạch này thì những cố gắng chủ yếu của ta đều nhằm về đồng bằng, tôi sợ ta sẽ không giải quyết được gì!

Tổng tư lệnh chỉ hài lòng mỗi lần thông qua kế hoạch, khi thấy mọi việc lần lượt hiện hình lồ lộ qua những dòng chữ, lần này anh có cảm giác như mình đang nhìn những trang giấy trắng.

Tổng tham mưu trưởng băn khoăn rồi nói:

-Không năm nào tôi thấy bí như năm nay. Bạn cũng có gợi ý: nếu chọn rừng núi thì ta nên đánh ở Hải Ninh, giải phóng trọn vẹn vùng biên giới Đông Bắc. Nhưng Hải Ninh ở sâu trong vùng địch lại nằm ngay bên Vịnh Hạ Long, phải đối phó với pháo hạm và quân địch đổ bộ đường biển, giải phóng rồi liệu có giữ được không? Rõ ràng là sau khi kẻ địch rút khỏi Nà Sản, mùa khô này không biết đánh đâu! Tôi cũng biết đưa bộ đội về đồng bằng sẽ rất khó khăn…Anh cho biết phương hướng sửa chữa như thế nào?

-Tôi không tin Navarre rút quân khỏi Nà Sản rồi không làm gì nữa. Phải chỉ thị cho Cục Quân báo gấp rút tìm hiểu kế hoạch Navarre. Ta cũng sẽ nhờ các bạn Liên Xô, Trung Quốc giúp ta việc này. Nhiệm vụ của Bác và Trung ương trao cho quân đội mùa khô này là phải tạo một biến chuyển trên chiến trường làm thay đổi cục diện chiến tranh. Bản kế hoạch này sẽ phải sửa chữa thật cơ bản.

Cũng may mùa khô 1953-1954 chỉ mới bắt đầu.

Chú thích:

1. Lịch sử Bộ Tổng tham mưu trong kháng chiến chống Pháp, Bộ Tổng tham mưu. Ban Tổng kết – Biên soạn lịch sử. 1991. Tr. 714, 715.