← Quay lại trang sách

Chương XIII HƯỚNG CHÍNH LÀ TÂY BẮC
❖ 1 ❖

Hạ tuần tháng 9 năm 1953, các đồng chí Trung Quốc chuyển cho ta một bản kế hoạch Navarre có cả bản đồ đính kèm.

Tổng tư lệnh tự hỏi: Không biết bạn đã làm cách nào để có được bản kế hoạch này? Bạn đã giúp ta giải đáp câu hỏi lớn nhất khi bắt đầu vào chiến cuộc Đông – Xuân.

Anh nhận thấy mình đang gặp phải một kẻ địch nguy hiểm trong chiến tranh sau De Lattre de Tassigny.

Qua ba tuần thị sát trên chiến trường Đông Dương, Navarre đã chứng kiến tinh thần mệt mỏi của quân viễn chinh, sự thờ ơ với chiến tranh của quân đội ngụy, và sự thiếu hụt trầm trọng trên khắp chiến trường.

Quốc hội Pháp đã có nghị quyết không tặng thêm quân số người Pháp cho chiến tranh Đông Dương. Navarre biết rõ không thể lấy thêm binh linh từ nước Pháp. Cách duy nhất giải quyết vấn đề này là phát triển binh linh người Việt. Và phải có tiền đề làm việc này. Bộ trưởng Tài chính Pháp đã thẳng thừng nói với Navarre là công quỹ không còn một xu cho chiến tranh Đông Dương. Trong khi đó, Mỹ sẵn sàng giúp xây dựng những đơn vị người Việt, từ trang bị, huấn luyện đến nuôi dưỡng, nhưng với điều kiện quân đội ngụy hiện nay phải trở thành một “ quân đội quốc gia “ thực sự.

Nhà cầm quyền Pháp thừa biết khi một quốc gia trong Liên hiệp đã có quyền độc lập, có quân đội thì nó sẽ nhanh chóng tuột khỏi vòng tay của họ. Từ trước tới nay, Pháp vẫn chỉ trao cho ngụy quyền một thứ “ độc lập giả hiệu” đến mức những người như Bảo Đại cũng phải chán. Nhưng Navarre nhận thấy trong tình thế lúc này có thể buộc chính phủ Pháp phải làm cái việc lâu nay họ đã không chấp nhận.

Navarre tin rằng nếu giải quyết được vấn đề thiếu hụt quân số, tăng cường thêm phương tiện chiến tranh, sẽ dùng binh lính người Việt để bảo vệ và bình định lại vùng tạm chiến, rút những đơn vị viễn chinh Pháp khỏi những đồn bốt đóng rải rác khắp nơi và đang sa lầy trong những trận càn, tập trung lại xây dựng thành một lực lượng cơ động thật lớn mạnh để giành chiến thắng. Navarre đã nhận thấy “ quân đoàn tác chiến” của đối phương trên chiến trường chính Bắc Bộ, mặc dù rất thiện chiến nhưng chỉ mới là 6 đại đoàn bộ binh đơn thuần, di chuyển bằng đôi chân, vẫn phải né tránh, rút lui trước một lực lượng quân Pháp tập trung trên chiến trường đồng bằng, hoặc ở miền núi như Nà Sản.

Về chính trị, Navarre đề nghị chính phủ Pháp phải thực sự trao trả quyền “ độc lập” cho các quốc gia liên kết trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp, để động viên lý tưởng chiến đấu cả cho quân đội viễn chinh Pháp và “ quân đội quốc gia” chiến đấu cho chủ quyền của mỗi nước và cho Liên hiệp Pháp.

Về quân sự, Navarre đề ra kế hoạch giành chiến thắng trong 18 tháng. Trong Thu Đông 1953 và mùa Xuân 1954, giữ thế phòng ngự, tránh một cuộc giao chiến lớn ở miền Bắc Việt Nam và thực hiện tiến công chiến lược ở miền Trung và Nam Việt Nam, đặc biệt là xóa vùng tự do 4 tỉnh của Liên khu 5, đồng thời ra sức tập trung xây dựng lực lượng cơ động thật mạnh và nhanh chóng phát triển quân ngụy. Từ Thu Đông 1954, sau khi đã hoàn thành những mục tiêu trên, sẽ dồn toàn lực ra Bắc chuyển sang tiến công chiến lược trên chiến trường chính, tiêu diệt quân chủ lực Việt Minh để kết thúc chiến tranh.

Kế hoạch Navarre là sự nhượng bộ lớn nhất của Pháp đối với Mỹ trong chiến tranh Đông Dương, đưa cuộc chiến tranh này vào quỹ đạo của Mỹ. Chắc Navarre tin là sau khi giành thắng lợi chung cuộc, sẽ còn thời gian và điều kiện để đối phó với đồng minh Mỹ trên vùng đất vẫn thuộc Liên hiệp Pháp.

Lần đầu tiên, có một Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp đề ra kế hoạch giành thắng lợi cuối cùng trong chiến tranh Đông Dương.

❖ 2 ❖

Trưởng đoàn cố vấn Trung Quốc Vi Quốc Thanh về Bắc Kinh mới sang.

Từ sau ngày giải phóng biên giới, Tổng tư lệnh đã có một thời gian dài làm việc ý hợp tâm đầu với đồng chí Vi. Vi Quốc Thanh cũng trạc tuổi anh, cùng với sự từng trải của một chiến sĩ cách mạng lâu năm, vẫn còn những nét thuần phác, chân thật của một người dân tộc. Anh biết khó khăn lớn nhất đối với các bạn sang giúp ta là cuộc kháng chiến ở Việt Nam diễn ra trong những điều kiện khác xa với chiến tranh giải phóng ở Trung Quốc. Đồng chí Vi luôn nhắc đến khó khăn lớn nhất là: “ Việt Nam quá ít quân!”. Trong khi đó, đối tượng tác chiến của ta không giống như Tưởng Giới Thạch trang bị kém và ô hợp, mà lại là quân đội của đế quốc Pháp có truyền thống bộ binh lâu đời, đánh hiệp đồng binh chung rất có bài bản và sử dụng pháo cực kỳ giỏi.

Tổng tư lệnh bàn với đồng chí Vi cùng lên Khuổi Tát gặp Bác, báo cáo về bản kế hoạch của Navarre và xin ý kiến. Sai khi nghe trình bày kế hoachj của địch, Bác nói: “ Navarre rất nhiều tham vọng, muốn giành chiến thắng về quân sự. Địch muốn chủ động ta phải buộc chúng lâm vào bị động. Địch muốn tập trung quân cơ động thì ta có kế hoạch buộc chúng phải phân tán mà đánh!”.

Sau khi gặp Bác, anh trao đổi nhiều lần với Vi Quốc Thanh. Hai người thống nhất là ta mới biết những nét lớn về chủ trương chiến lược của Navarre, chưa rõ ý định cụ thể của Navarre trên chiến trường chính Bắc Bộ trong khi địch đã tập trung một lực lượng cơ động lớn chưa từng có tại vùng châu thổ sông Hồng. Trong tình hình này, cần mở những chiến dịch với lực lượng không đông, nhưng nhăm vào những địa bàn trọng yếu, buộc địch phải đối phó, đó là cách để phân tán đội quân cơ động tập trung của địch, sau đó sẽ tùy tình hình tạo ra một trận đánh lớn với quân địch có lợi cho ta. Hai người nhất trí về chọn hướng mở chiến dịch là: Lai Châu, Trung Lào, Hạ Lào và Tây Nguyên.

Tổng tư lệnh phổ biến những ý chính với Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái, trao nhiệm vụ bàn bạc cụ thể với các bạn Lào về một kế hoạch phối hợp chiến đấu trong mùa khô, nghiên cứu vấn đề điều động và sử dụng lực lượng tương đối hoàn chỉnh, lập thành kế hoạch để đưa trình cuộc họp Bộ Chính trị sắp tới.

Băn khoăn lớn nhất của anh là làm cách nào để đối phó với cuộc tiến công chiến lược của địch ở Liên khu 5. Nếu bộ đội chủ lực ta đánh mạnh trên chiến trường khác trong mùa khô này có thể tác động đến ý đồ đánh chiếm vùng tự do Liên khu 5 của địch. Nhưng điểm lại các chiến trường mà ta đã nhắm, anh không thấy nơi nào có khả năng mở một chiến dịch lớn để tác động tới kế hoạch chiến lược của địch.

Anh trao đổi với Hoàng Văn Thái:

- Riêng về việc đối phó với kế hoạch địch đánh vùng tự do Liên khu 5, tôi nghĩ ta nên đưa chính bộ đội chủ lực của Liên khu 5 lên mở một chiến dịch ở Tây Nguyên. Địch rất coi trọng Tây Nguyên và lực lượng của chúng ở đây tương đối yếu. Ta uy hiếp mạnh ở Tây Nguyên sẽ buộc địch phải từ bỏ tiến công ở Liên khu 5. Mở chiến dịch ở Tây Nguyên là cách tốt nhất để bảo vệ các tỉnh tự do ở Liên khu 5. Nếu địch đổ bộ vào Liên khu 5, ta sẽ sử dụng bộ đội địa phương và dân quân du kích đối phó cầm chân quân địch.

Bộ Tổng tham mưu đề nghị về sử dụng binh lực: Trên chiến trường Bắc Bộ, tại mặt trận Tây Bắc ( Lai Châu) và Thượng Lào bố trí Đại đoàn 316 và Trung đoàn 148. Tại mặt trận Trung Du, bố trí từ hai tới ba đại đoàn và bộ đội địa phương. Tại Mặt trận Hữu ngạn Khu 3, bố trị hai đại đoàn, trong đó có một bộ phận sẽ vào hậu địch. Mặt trận Trung và Hạ đoàn, sử dụng lực lượng một đại đoàn. Ta sẽ đề nghị Quân giải phóng Pathet Lào phối hợp với bộ đội Việt Nam mở cuộc tiến công vào hai hướng này, nhằm tiêu diệt sinh lực địch và giải phóng đất đai… Mặt trận Tây Nguyên, sử dụng các trung đoàn chủ lực của Liên khu 5.

Thời gian hoạt động là hai tháng, bắt đầu từ cuối tháng 11 năm 1953.

Võ Nguyên Giáp hỏi Hoàng Văn Thái:

- Có ai có ý kiến gì về việc đưa chủ lực Liên khu 5 lên mở chiến dịch ở Tây Nguyên không?

- Có người cho rằng cứ để bộ đội chủ lực ở lại chiến đấu bảo vệ vùng tự do Liên khu 5, tinh thần chiến đấu của anh em chắc sẽ tốt hơn là đưa lên Tây Nguyên khi vùng tự do Liên khu 5 bị địch tấn công lần đầu.

- Tôi vẫn cho rằng đưa chủ lực của Liên khu 5 lên mở một chiến dịch ở Tây Nguyên là cách tối ưu để bảo vệ vùng tự do Liên khu 5.

- Nhiều đồng chí lo đưa bộ đội chủ lực lên Tây Nguyên trong khi địch đã có kế hoạch tiến công Liên khu 5, Liên khu ủy sẽ khó đồng tình.

- Chỉ cần mọi người nhận thấy làm như thế có lợi hơn thì Thường vụ sẽ tìm cách thuyết phục khu ủy Liên khu 5. Anh trao đổi thêm với anh em trong cơ quan về vấn đề này. Nếu cứ để chủ lực tại Liên khu 5 chờ quân địch tới là cách đối phó bị động, lỡ chúng không tới ta sẽ lãng phí lực lượng và thời gian. Đưa chủ lực lên đánh Tây Nguyên ta sẽ giành được chủ động, buộc kẻ địch phải chạy theo để đối phó với ta trên chiến trường do ta lựa chọn.

Tổng tham mưu trưởng biết Tổng tư lệnh đã quyết vấn đề này. Trong quá trình chuẩn bị, anh ít khi đưa ra ý kiến trước, bao giờ cũng thúc giục mọi người nói ý kiến của mình và lắng nghe. Nhưng khi anh đưa một ý kiến là đã có chủ định, chỉ có những lý lẽ thật chính xác mới thuyết phục được anh. Và điều anh nói lúc này thật khó bác bỏ.

❖ 3 ❖

Cuộc họp Thường vụ bàn về kế hoạch Đông – Xuân 1953 -1954 được triệu tập vào đầu tháng 10 năm 1953. Trước đó, các ủy viên đã thường xuyên gặp nhau trao đổi đều thấy mùa khô này đánh địch rất khó. Mọi năm vào thời gian này, cán bộ các đơn vị chiến đấu đã lên đường đi trinh sát đồn địch.

Từ sau những hoạt động biệt kích kiểu Navarre xảy ra, Bác đã chuyển lên Khuổi Tát, một bản nhỏ ở vùng cao huyện Định Hóa. Cuộc họp của Thường vụ thường được tổ chức ở những địa điểm khác nhau. Nơi họp lần này là Tỉn Keo, một bản của thôn Lục Giã. Có con đường mòn từ nơi Bác ở tại Khuổi Tát chạy xuống đây. Ngôi nhà tre được dựng từ lâu bên sườn đồi, được cây cối che khuất, nhìn xuống cánh đồng nhỏ với những thửa ruộng bậc thang, một con suối chạy ngang.

Nhiều bạn Trung Quốc khi mới sang ta rất ngạc nhiên vì các cơ quan ở an toàn khu hầu như không có người canh gác, các đồng chí lãnh đạo của ta không có những đơn vị bảo vệ. Thực ra, an toàn khu đã được bảo vệ khá nghiêm ngặt bởi một mạng lưới vô hình, đó là những đồng bào địa phương. Dân chúng tuy ở thưa thớt nhưng người lạ qua lại khó lọt khỏi cặp mắt luôn cảnh giác của họ.

Những cánh cửa sổ bằng nứa của ngôi nhà đã được chống cao. Người đến họp ngồi trên nhưng chiếc ghế ghép bằng ống bương, quanh chiếc bàn tre hăng hăng mùi mốc vì những ngày mưa kéo dài.

Bác từ trên núi đi xuống, đầu đội mũ lá, khoác chiếc áo mưa chiến lợi phẩm của bộ đội tặng. Bác dựng chiếc gậy và cởi áo mưa vắt bên cửa sổ, nhìn mọi người.

Đồng chí Trường Chinh nói:

- Thưa Bác, anh Thanh xin phép vắng mặt vì mới bị sốt. Thường vụ đã mời anh Thái là Tổng tham mưu trưởng cùng họp với Thường vụ.

Cuộc họp có Bác, Tổng bí thư Trường Chinh, các Ủy viên Thường vụ: Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái.

Tổng bí thư Trường Chinh mở đầu cuộc họp:

- Ở Triều Tiên đã có ngừng bắn. Cuộc chiến trên bán đảo Triều Tiên thực sự là cuộc đối đầu giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và đế quốc chủ nghĩa. Đế quốc Mỹ đã huy động toàn bộ sức mạnh quân sự, kéo cả các nước chư hầu tới đây, vũ khí chỉ còn thiếu bom nguyên tử. Phe ta cũng tung ra tất cả sức mạng của mình: bộ binh Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, máy bay phản lực của Liên Xô. Kết quả một trận đấu “ hòa”. Mỹ đã chi đến 70% chiến phí trong chiến tranh Đông Dương. Suốt mấy tháng qua, Quân ủy Trung ương đã trao đổi rất nhiều với Thường vụ về kế hoạch quân sự của ta trong mùa khô này. Mùa khô đã tới một tháng rồi. Hôm nay, Thường vụ hợp để cho ý kiến lần cuối cùng về dự thảo kế hoạch của Tổng quân ủy. Anh Văn, Bí thư Tổng quân ủy sẽ trình bày kế hoạch. Đề nghị Bác cho ý kiến chỉ đạo.

Bác nói:

- Để chú Văn trình bày. Thường vụ sẽ cho ý kiến quyết định trong lần họp này.

Bí thư Quân ủy Võ Nguyên Giáp tóm tắt những diễn biến về phía địch từ khi Navarre sang. Ta đã nắm được kế hoạch Navarre. Mùa khô này, quân Pháp sẽ tránh giao chiến lớn với chủ lực ta trên chiến trường Bắc Bộ, tiến hành bình định ở Nam Việt Mam và đánh chiếm vùng tự do Liên khu 5. Quân Pháp sẽ dùng mọi cách đánh phá vùng tự do, đánh sâu vào hậu phương nhằm kìm giữ và tiêu hao chủ lực ta, phá vỡ kế hoạch tấn công của ta trên chiến trường chính. Đồng thời, Navarre ra sức phát triển quân đội ngụy, đặc biệt là tranh thủ xây dựng lực lượng cơ động lớn mạnh nhằm đè bẹp các đại đoàn chủ lực của ta trong một trận đánh quyết định vào mùa khô sau để giành thắng lợi cuối cùng. Kế hoạch Navarre trên những nét lớn là như vậy, nhưng còn những việc làm cụ thể của địch, đặc biệt là trên chiến trường chính miền Bắc trong mùa khô này ta chưa nắm được, chỉ mới có những dự đoán. Điều nổi bật là hiện nay địch đang tập trung một lực lượng quân cơ động lớn chưa từng có tại đồng bằng Bắc Bộ.

Bác ngồi họp, đôi mắt chợt ánh lên vẻ chăm chú. Người nói:

- Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh… Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn.

Bí thư Quân ủy báo cáo tiếp:

- Bác và đồng chí Tổng bí thư đã cho ý kiến phải phân tán quân cơ động địch tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ, tạo cơ hội cho bộ đội chủ lực mở một trận đánh lớn trong Đông – Xuân. Những hướng tiến công mà Quân ủy đã thống nhất với các Cố vấn là: Tây Bắc, Trung Lào, Hạ Lào và Tây Nguyên. Cho tới nay, chiến trường rừng núi vẫn là nơi tác chiến có lợi cho chủ lực ta. Trên chiến trường rừng núi phía bắc, chỉ còn hai nơi có lực lượng nhỏ của quân địch là Lai Châu và Hải Ninh. Lúc này, toàn bộ quân viễn chinh Pháp đều tập trung ở đồng bằng. Sau chỉnh huấn chính trị về cải cách ruộng đất, bộ đội ta phần lớn xuất thân từ nông dân, đều mong ta mở chiến dịch ở đồng bằng để trở về giải phóng quê hương. Nhưng với trang bị hiện nay, bộ đội ta vẫn khó giành thắng lợi nếu đánh lớn trên chiến trường đồng bằng…

Bác nói:

- Chiến trường ta hẹp, người và của ta không nhiều, cho nên chỉ được thắng không được bại, vì bại thì chúng ta hết vốn!

Bí thư Quân ủy rời mắt khỏi bản báo cáo. Anh đã nhiều lần nghe Bác bàn về những việc trọng đại của cách mạng, của đất nước như nói chuyện trong gia đình. Anh còn nhớ một lần khi nhắc tới những sách lược đưa Đảng từ hoạt động công khai trở lại hoạt động bí mật trong những ngày đầu thành lập nước để đối phó với giặc ngoài, thù trong, Bác đã nói đó là những biện pháp “ đau đớn”. Lần này, đề cập tới khó khăn lớn hiện nay trong so sánh lực lượng giữa ta và địch, Bác đã nói một cách rất cụ thể là người cầm quân của ta không được phép thua một trận, vì thua là “hết vối”! “ Vốn” đó là sáu đại đoàn chủ lực đã được xây dựng qua tám năm chiến tranh, không mùa khô nào là không có mặt trên chiến trường, hầu như không có một ngày nghỉ ngơi… Anh sẽ không bao giờ quên lời Bác nói hôm nay.

Im lặng giây lát, anh trình bày tiếp dự kiến của Quân ủy là sẽ dùng một bộ phận quân chủ lực, kết hợp với lực lượng quân địa phương mở cuộc tiến công vào những hướng chiến lược hiểm yếu mà địch tương đối yêu, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai, buộc địch phải phân tán nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai, buộc địch phải phân tán quân cơ động để đối phó. Ta sẽ tiếp tục khoét sâu vào mâu thuẫn cơ bản giữa tập trung và phân tán binh lực của địch, tạo nên thế trận mới, thời cơ mới. Những hướng tiến công đã được Quân ủy lựa chọn là Tây Bắc, Thượng Lào, Trung và Hạ Lào. Riêng tại miền Trung, để đối phó với âm mưu đánh chiếm các tỉnh tự do Liên khu 5, ta sẽ đưa bộ đội chủ lực của Liên khu 5 lên mở một chiến dịch lớn ở Tây Nguyên, một chiến trường rất trọng yếu của địch. Nếu ta đánh mạnh ở Tây Nguyên có khả năng sẽ làm thất bại âm mưu đánh chiếm các tỉnh tự do ở Liên khu 5… Trong khi đó, ta sẽ bí mật bố trí những đại đoàn chủ lực ở một số vị trí cơ động đề phòng địch mở cuộc tiến công vào căn cứ địa của ta. Và theo dõi sát tình hình, khi thời cơ xuất hiện sẽ nhanh chóng tập trung lực lượng, tập trung chủ lực, tiêu diệt sinh lực quan trọng của địch, làm chuyển biến cục diện chiến tranh.

Bác hỏi:

- Dự kiến đưa quân lên Tây Bắc thì địch sẽ phản ứng ra sao?

- Chúng sẽ tăng cường lực lượng giữ Tây Bắc, hoặc đánh ra vùng tự do kéo quân ta về. Chúng cũng có thể rút quân khỏi Lai Châu, như vậy toàn bộ Tây Bắc sẽ được giải phóng. Ta sẽ phát triển sang Thượng Lào.

- Các hướng khác có khả năng thu hút quân cơ động địch không?

- Ngoài Tây Bắc và Thượng Lào, còn Tây Nguyên và Trung Lào, Hạ Lào là những hướng xung yếu mà địch không thể bỏ.

Đồng chí Trường Chính nói:

- Nam Bộ ở xa là chiến trường có khó khăn. Nếu toàn quốc đánh mạnh sẽ chia sẻ khó khăn cho Nam Bộ. Cần phát động chiến tranh du kích thật mạnh ở Nam bộ để phối hợp với toàn quốc. Trên miền Bắc, chú ý bảo vệ đồng bào ở những nơi đang tiến hành cải cách ruộng đất.

Bí thư Quân ủy nói:

- Đáng lẽ trong cuộc họp này, Quân ủy phải báo cáo với Bác và Thường vụ về chiến dịch trọng điểm trong mùa khô hanh này, chỉ tiêu tiêu diệt sinh lực địch, nhưng do tình hình đặc biệt năm nay, Quân ủy chỉ mới báo cáo được kế hoạch phá thế tập trung quân cơ động của địch ở đồng bằng Bắc Bộ và cách đối phó với cuộc tiến công chiến lược của địch vào vùng tự do Liên khu 5. Đây là thực hiện tinh thần giành chủ động. Ta phải chờ xem địch sẽ phản ứng ra sao. Do đó, Quân ủy xin đề nghị với Bác và Thường vụ: Phương châm hoạt động của bộ đội ta trong Đông- Xuân này là “ tích cực ”- tích cực để tìm mọi cách phá âm mưu địch, “ chủ động ” – chủ dộng không để cho địch buộc ta phải chạy theo đối phó với những âm mưu của chúng, “ cơ động và linh hoạt” – tức là Bác và Thường vụ cho phép có những sự điều chỉnh, thậm chí thay đổi để giành thắng lợi lớn khi thời cơ mới xuất hiện.

Bác nói:

- Phép dùng binh là phải “thiên biến vạn hóa”.

Hội nghị Bộ Chính trị đồng ý với phương châm: “ Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt” trước khi thông qua bản đề án tác chiến Đông – Xuân 1953-1954 của Tổng quân ủy.

Bác kết thúc hội nghị:

- Tổng quân ủy phải có một kế hoạch lâu dài về mọi mặt để đối phó với những kẻ địch trên chiến trường toàn quốc, sau đó phải có một kế hoạch đẩy mạnh những hoạt động du kích tại đồng bằng Bắc Bộ. Về hướng hoạt động lấy Tây Bắc là hướng chính, các hướng khác là phối hợp. Hướng chính hiện nay không thay đổi, nhưng trong kế hoạch là có thể thay đổi.

Tỏng tư lệnh không ngờ kế hoạch đã được Bác và Thường vụ thông qua chỉ trong một buổi họp. (1)

Sau này nhiều lần, anh tự hỏi: không biết vì sao khi kết luận của Thường vụ hồi đó, Bác đã xác định Tây Bắc là hướng chính. Điều này không có trong đề án của Tổng quân ủy. Bác đã dựa vào những yếu tố nào để quyết định như vậy? Có thể vì Bác thấy trận đánh lớn sắp tới nhất định phải diễn ra ở địa hình rừng núi, mà trên vùng rừng núi lúc này chỉ có quân địch ở Lai Châu và Thượng Lào, hay là Bác đã dự đoán nếu về hướng này, hay còn vì những lý do nào khác… Hơn một tháng sau đó, Tây Bắc đã thực sự trở thành hướng tiến công chính của ta trong chiến cuộc Đông - Xuân 1953-1954.

❖ 4 ❖

Bản kế hoạch tác chiến Đông- Xuân 1953-1954 được sửa thêm một lần nữa.

- Hướng tiến công chính là Tây Bắc. Bước đầu, ta sử dụng Đại đoàn 316 tiêu diệt địch ở Lai Châu giải phóng hoàn toàn khu Tây Bắc. Bước thứ hai, phối hợp với trung đoàn 148 của khu Tây Bắc, bộ đội tình nguyện và Quân giải phóng Pathét Lào giải phóng tỉnh Phông Xa Lỳ.

- Hướng Trung và Hạ Lào: Lực lượng gồm trung đoàn 66 thuộc Đại đoàn 304, trung đoàn 101 thuộc Đại đoàn 325 cùng với bạn đánh thông hành lang Nam Bắc Đông Dương. Trung đoàn 101 được tăng cường quân số, hỏa lực thọc sâu chiến dịch xuống Hạ Lào.

- Hướng Tây Nguyên: Lực lượng gồm 2 trung đoàn bộ binh 108 và 803, chủ lực của Liên khu 5 đánh chiếm bàn đạp bắc Tây Nguyên.

- Hướng phối hợp ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ: Đại đoàn 320 và các trung đoàn chủ lực của Liên khu 3 sẽ chiến đấu nhằm thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch, đánh giao thông, phá hủy các phương tiện vận chuyển đường bộ, đường thủy, đường không.

Ở khắp các vùng tạm chiếm từ trung du, đồng bằng Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Đến chiến trường Lào và Campuchia sẽ đẩy mạnh chiến tranh du kích buộc địch phải căng mỏng lực lượng đối phó với ta.

- Khối chủ lực còn lại gồm các Đại đoàn 308, 312, 304 ( thiếu một trung đoàn), Đại đoàn công pháo 351, trung đoàn 246 bí mật giấu quân tại Trung Du, sẵn sàng cơ động lên Tây Bắc, và đánh địch tiến công ra vùng tự do.

Riêng Đại đoàn 325 ( thiếu trung đoàn 101) để lại trung đoàn 18 hoạt động ở Bình- Trị - Thiên, trung đoàn 95 ra Nghệ An chỉnh huấn, làm lực lượng dự bị cho Bộ, sẵn sàng cơ động trên các hướng.

Lần đầu ta có một kế hoạch tác chiến phối hợp trên quy mô hầu hết bán đảo Đông Dương, tuy ở nhiều nơi ta mới chỉ sử dụng những lực lượng nhỏ.

Tổng tư lệnh đã yên tâm hơn khi chờ những diễn biến mới của địch trong Đông- Xuân này.

Chú thích:

1. Trích từ “Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử”.