Chương XIV BÀN CỜ CHIẾN CUỘC
❖ 1 ❖
Ngày 15 tháng 10 năm 1953, Tổng tư lệnh đang ăn cơm trưa, thì Cục trưởng Cục Tác chiến Đỗ Đức Kiên rảo bước đi vào. Anh nhìn ra hỏi:
- Có chuyện gì đấy?
- Thư anh, anh Dũng vừa điện báo cáo: sáng hôm nay địch đã đánh ra Nho Quan, Ninh Bình. Anh Thái xuống 308. Tôi sang để báo cáo.
Anh buông đũa, mời đồng chí cán bộ ngồi rồi hỏi tiếp:
- Anh Dũng có nói lực lượng và hướng tiến quân của địch không?
- Địch hành quân cơ giới theo đường 59, bọn đi đầu đã tới gần Rịa 25 ki lô mét. Trinh sát của đại đoàn báo cáo chúng là lực lượng cơ động, có cả pháo binh đi cùng.
Tổng tư lệnh nghe chăm chú, rồi hỏi:
- Cậu phán đoán như thế nào?
- Chúng tôi cho rằng Navarre bắt đầu làm một cái gì mới, có thể là để gây ảnh hưởng với phó tổng thống Mỹ Nixon sắp sang Đông Dương.
- Bao giờ Nixon sang?
- Báo chí đưa tin chỉ ít ngày nữa.
Hai người đang trao đổi, thì lại thêm một đồng chí cán bộ tác chiến đi vào. Tổng tư lệnh hỏi:
- Có tin mới à?
- Thưa anh, Liên khu 4 vừa báo cáo: ngày hôm nay có một hàng không mẫu hạm, nhiều tàu chiến và máy bay xuất hiện ở ngoài khơi tỉnh Thanh Hóa. Liên khu cũng báo cáo những ngày qua, máy bay địch thả nhiều giấy thông hành ở Liên khu 4 cho những ai muốn trở về vùng tạm chiếm. Liên khu cho rằng đây là những dấu hiệu chứng tỏ địch chuẩn bị đổ bộ vào liên khu 4.
Cục trưởng Cục tác chiến nói:
- Trong dự kiến ta cũng tính tới khả năng mùa khô này địch có thể đánh Liên khu 4! Mấy ngày trước đây, đã có tin một số binh đoàn cơ động địch tập trung ở khu vực Ghềnh, huyện Yên Mô, Ninh Bình.
- Đã báo cáo cho anh Thái biết chưa?
- Tôi định sau khi váo cáo với anh về sẽ gọi điện cho anh Thái. Anh có chỉ thị gì cho các đơn vị không?
- Điện ngay cho anh Dũng: ý của Bộ là 320 đang ở tại chỗ, dùng những lực lượng nhỏ tập kích, quấy rối tiêu hao quân địch ở những chỗ chúng mới tới, chưa kịp củng cố công sự. Điện cho 304 cùng với lực lượng vũ trang Quân khu 4 chuẩn bị đánh địch nễu chúng đổ bộ vào Liên khu. Với các đơn vị khác, nếu hỏi thì trả lời là: “ Sẵn sàng chờ lệnh”. Tham mưu phải theo dõi thật chặt những hiện tượng này. Cần đánh giá xem là có đúng Navarre đưa quân chiếm Khu 4 không? Có tin gì mới, báo cáo ngay bất kể lúc nào!
Ngày hôm sau, Tổng tham mưu trưởng Hoàng văn Thái từ Đại đoàn 308 quay về. Anh Thái thuật lại: đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ khi nghe tin địch đánh ra Ninh Bình đã vui vẻ nói: “308 đã sẵn sàng. Chỉ chờ lệnh của Bộ là lập tức lên đường”.
Lại có thêm những báo cáo mới. Trong ngày 15, khoảng 500 quân địch đổ bộ xuống bờ biển Thanh Hóa, một bộ phận biệt kích địch đã vào tận Khoa Trường đốt phá. Dọc đường 59, địch chiếm những điểm cao bố trí thành thế liên hoàn, đề phòng bộ đội ta tiến công.
Đài phát thanh địch vào báo chí ở Hà Nội đưa tin đây là sự khởi đầu một cuộc hành binh lớn của Tổng chỉ huy Navarre.
Tổng tư lệnh rất phân vân. Ta đã biết trong mùa khô 1953-1954, Navarre chủ trương duy trì thế phòng ngự chiến lược tại Bắc Bộ. Vì sao địch đột nhiên đưa lực lượng lớn quân cơ động từ đồng bằng Bắc Bộ ra tây-nam Ninh Bình?
Anh hỏi Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái:
- Anh có nghĩ là địch sẽ đánh chiếm Liên khu 4 không?
- Navarre hay dùng những đòn bất ngờ. Phải tính đến trường đến trường hợp hắn đã từ bỏ kế hoạch đánh các tỉnh tự do liên khu 5 mà chuyển sang đánh chiếm Liên khu 4. So với Liên khu 5, Liên khu 4 trực tiếp với chiến trường chính hơn!
- Ta phải tính nhiều khả năng. Khu vực địch vừa triển khai lực lượng rất gần với phòng tuyến De Lattre. Muốn mở một trận đánh lớn ở vùng này, cần phải huy động toàn bộ những đại đoàn chủ lực của ta. Và nếu sau nhiều ngày, các đại đoàn ta vận động tới nơi, địch nhanh chóng rút toàn bộ quân cơ động về những vị trí cũ tại đồng bằng? Lực lượng ta sẽ bị tiêu hao và mùa khô sẽ qua đi! Tiếp tục theo dõi diễn biến. Nếu địch thực sự đánh Liên khu 4, ta sẽ tính cách đối phó, không nhất thiết phải đưa tất cả chủ lực vào đó.
Lực lượng địch đổ bộ xuống bờ biển Thanh Hóa đã nhanh chóng rút lui. Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị cho Đại đoàn 320 tranh thủ cơ hộ địch đánh ra mà tiêu diệt chúng bằng cách tập kích, phục kích. Các đại đoàn khác vẫn ở nguyên vị trí tiếp tục học tập quân sự và sẵn sàng lên đường khi có lệnh.
Tổng tư lệnh sang gặp đồng chí Trường Chinh báo cáo tình hình. Tổng Bí thư nói:
- Nguyên tắc tác chiến của ta là giành chủ động. Ta buộc địch chạy theo ta, chứ không chạy theo địch.
Ngày 21 tháng 10, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra thông báo gửi các cấp ủy về cuộc tiến công của địch ra vùng tự do Liên khu 3 và Thanh Hóa, chỉ ra cách đối phó của ta là: ở mặt trận chính diện, tạo cơ hội phục kích tiêu diệt địch trong vận động, lợi dụng lúc địch vừa bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân; ở mặt trận sau lưng địch thuộc đồng bằng Bắc Bộ, phải hết sức lợi dụng khi địch sơ hở để mở rộng chiến tranh du kích, kết hợp vừa tác chiến vừa vận động binh lính ngụy.
Đầu tháng 11 năm 1953, chủ bút báo Expressen (Thụy Điển) gửi điện xin phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh về điều kiện và triển vọng giải quyết vấn đề hòa bình ở Việt Nam. Bác trả lời: “ Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là do chính phủ Pháp gây ra. Nhân dân Việt nam phải cầm vũ khí anh dũng chiến đấu bảy, tám năm chống kẻ xâm lược chính để bảo vệ nền độc lập và quyền tự do được sống trong hòa bình.(…) Nhưng nếu chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó (..). Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thực sự của nước Việt Nam.”
Trả lời của Bác tạo nên một dư luận rộng rãi trên quốc tế, khiến chính phủ Pháp phải nhắc lại: nước Pháp đã hai lần bày tỏ quan điểm, và gợi ý Việt Minh cũng cho biết quan điểm của mình theo con đường chính thức.
Chính phủ bù nhìn Bảo Đại và cả Thủ tướng Pháp Laniel đều tỏ thái độ tiêu cực đối với một cuộc ngừng bắn. Sau này ta biết chính Navarre đã khuyên Laniel chỉ điều đình khi nào có một thắng lợi quyết định trên chiến trường (1) .
Ngày 4 tháng 11 năm 1953, Phó tổng thống Mỹ Nixon tới thăm mặt trân Ninh Bình.
Sau 20 ngày đưa quân ra tây-nam Ninh Bình, hàng ngàn quân bị loại khỏi vòng chiến đấu mà không gặt hái được gì, Navarre lặng lẽ rút quân.
Trung tuần tháng 11, Cục Tình báo mang tới cho Tổng tư lệnh một tờ Tia sáng đưa tin về cuộc họp báo của Cogny ngày 7 tháng 11 năm 1953 tại Hà Nội. Khi có nhà báo hỏi vì sao quân đội Pháp không ở lại những vùng mới chiếm được, Cogny trả lời: “Tôi xin cải chính, cuộc hành binh Mouette (Chim biển) không hề nhằm mục đích chiếm đóng vĩnh viễn đất đai. Vùng Nho Quan không có lợi gì cả, ta cũng chưa có ý định chiếm Thanh Hóa. Ta đổ bộ vào vùng duyên hải Thanh Hóa là để đánh lừa Việt Minh mà thôi. Quả nhiên họ đã bị lừa, ta đã đạt được mục đích…” (2) !
Anh Văn đọc xong, mỉm cười nhận xét:
- Tay Cogny này cũng thực thà!
❖ 2 ❖Hội nghị cán bộ phổ biến nhiệm vụ quân sự và kế hoạch Đông-Xuân 1953-1954 được triệu tập vào ngày 19 tháng 11 năm 1953, là hội nghị lớn nhất trong kháng chiến chống Pháp. Lần đầu, đại diện cho các chiến trường từ khu 5 trở ra đều có mặt. Không khí cuộc họp rất hào hứng. Hội nghị được nghe Đại tướng Tổng tư lệnh trực tiếp trình bày chủ trương quân sự nhằm phá kế hoạch Navarre.
Ngày đầu hội nghị, buổi tối, Cục trưởng Cục 2 tới báo các với tổng tư lệnh: bộ phận đi chuẩn bị chiến trường ở Tây Bắc điện về, máy bay trinh sát xuất hiện trên bầu trời Điện Biên Phủ. Mấy ngày trước đó, đã có tin từ Hà Nội báo ra: nhiều đơn vị dù đang tập trung tại sân bay Bạch Mai và Gia Lâm.
Tổng tư lệnh hỏi:
- Trung đoàn 174 qua sông Đà ngày nào?
Theo kế hoạch, đầu trung tuần tháng 11, toàn bộ lực lượng của đại đoàn 316 được lệnh tập trung lại ở Tây Bắc để chuẩn bị tiêu diệt quân địch tại Lai Châu. Cơ quan chỉ huy của đại đoàn 316 cùng với trung đoàn 174 về Thanh Hóa chỉnh huấn sau chiến dịch Thượng Lào đã lên đường đi Tây bắc.
Cục trưởng Cục 2 đáp:
- Thưa anh, ngày 15 tháng 11.
Anh tự hỏi phải chăng địch đã phát hiện chủ lực ta đang tiến lên Tây Bắc.
Hội nghị họp sang ngày thứ hai. Giờ nghỉ, Cục 2 báo tin bộ phận trinh sát ở Phú Thọ phát hiện nhiều tốp máy bay, kể cả máy bay vận tải, bay về phía Tây Bắc
Buổi tối, Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái vội vã tới gặp tổng tư lệnh:
- Báo cáo anh: Quân Pháo nhảy dù xuống Điện Biên Phủ! Anh em báo cáo về: ước lượng địch có vài tiểu đoàn. Rất tiếc là trung đoàn độc lập 148 không có tiểu đoàn nào đóng tại đây. Chỉ có một tiểu đoàn bộ, anh em đã nổ súng đánh địch và diệt được một số.
Tổng tư lệnh nói:
- Đúng là Navarre thấy Lai Châu bị uy hiếp, nên tăng cường lực lượng lên Tây Bắc.
Cuộc họp Tổng quân ủy được triệu tập ngay. Bí thư Tổng quân ủy nhận định: Địch đã phát hiện bộ đội ta đang tiến quân lên Tây Bắc. Chúng cảm thấy Lai Châu và Thượng Lào bị uy hiếp, nên đưa một bộ phận lực lượng lên Tây Bắc đối phó. Cuộc họp Bộ Chính trị ở Tỉn Keo cũng đã dự kiến điều này. Tổng quân ủy quyết định: Cần xúc tiến
nhanh việc đánh Lai Châu, không để cho quân địch ở Lai Châu co về Điện Biên Phủ.
Như một luồng sáng vừa xuất hiện trong đêm đen. Cơ hội đã xuất hiện sớm hơn mong đợi của ta.
Bí thư Tổng quân ủy giữ Hoàng Văn Thái lại sau cuộc họp. Anh nói:
- Chưa biết tình hình Tây Bắc sẽ diễn biến như thế nào, nhưng ta phải triệt để tranh thủ thời gian. Bố trí ngay một sở chỉ huy tiền phương của Bộ tại Tây Bắc. Trước mắt, lệnh cho đại đoàn 308 tiến thật nhanh lên Tây Bắc. Nếu có tác chiến Tây Bắc, sẽ phải huy động phần lớn các đại đoàn chủ lực của Bộ. Cần tính ngay đến chuyện địch sẽ dùng cách chúng thường làm là tiến công vào khu căn cứ để buộc chủ lực ta quay lại. Ở Liên khu 4 sẽ không còn chuyện gì lớn. 304 vẫn còn hai trung đoàn, có thể điều cả lên đây để bảo vệ khu căn cứ.
Anh viết ngay một bức điện khẩn được gửi cho 316 đang trên đường hành quân: “ Địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ là để che chở cho Lai Châu và Thượng Lào bị uy hiếp. Như vậy là bị động phân tán lực lượng để đối phó với ta, tình hình căn bản có lợi cho ta…Nắm cơ hội tốt tạo cơ hội tốt để tiêu diệt địch ”. Mệnh lệnh quy định 316 tổ chức thành những tiểu đoàn hành quân cho nhanh, chậm nhất ngày 6 tháng 12 năm 1953 phải có mặt ở Tuần Giáo, trên ngã ba đường từ Sơn La lên Lai Châu và đi Điện Biên Phủ.
Ngày 21, Bộ Tổng tư lệnh thông báo cho các đại đoàn sẵn sàng lên đường chiến đấu. Riêng đại đoàn 304 (thiếu một trung đoàn) ở Thanh Hóa, được lệnh hành quân ngay lên hướng Tây Bắc làm nhiệm vụ nghi binh, rồi bí mật luồn rừng quay về Phú Thọ. Buổi tối, bộ phận tiền trạm của Bộ tổng tham mưu dùng xe ô tô lên Tây bắc bố trí sở chỉ huy tiền phương.
Ngày 24 tháng 11 năm 1953, trong buổi kết luận kết luận hội nghị, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp nói:
- Địch nhảy dù xuống Điên Biên Phủ mặc dù ta không phán đoán được cụ thể địa điểm và thời gian, nhưng cũng nằm trong phạm vi phán đoán trước của ta là: nếu Tây Bắc bị uy hiếp thì địch sẽ tăng viện trợ lên hướng đó. Như vậy là trước sự uy hiếp của ta, địch đã phải bị động đối phó, phải phân tán một bộ phận lực lượng cơ động lên Điện Biên Phủ để yểm hộ cho Tây Bắc, che chở cho Thượng Lào, và phá vỡ kế hoạch tiến công của ta… Chúng có thể vừa giữ Điện Biên Phủ vừa giữ Lai Châu, một nơi chính, một nơi phụ, có thể lấy Điện Biên Phủ làm chính. Nếu bị uy hiếp, chúng có thể co về một nơi và tăng viện thêm một chừng mực nào đó; cũng chưa nhất định co về nơi nào, nhưng khả năng co về Điện Biên Phủ nhiều hơn. Nếu bị uy hiếp mạnh hơn, chúng có thể tăng viện nhiều và biến thành một tập đoàn căn cứ điểm, trong trường hợp này chúng có thể lấy Điện Biên Phủ làm nơi thiết lập trận địa. Nhưng chính chúng cũng có thể rút lui. Vô luận rồi đây địch tình thay đổi thế nào, địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ căn bản là có lợi cho ta…
Hội nghị sắp kết thúc thì Bác tới. Trước mỗi mùa khô xuất quân, bao giờ Người cũng gặp bộ đội. Từ lâu, sự có mặt của Bác như báo hiệu một chiến thắng lớn sắp tới. Cả hội trường hò reo hân hoan. Người khen ngợi các đại biểu đã sôi nổi thảo luận và nhất trí với phương hướng và kế hoạch tác chiến của Trung ương. Bác nhấn mạnh phương châm chỉ đạo tác chiến: “ Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”. Lường trước những thử thách chưa từng có trên chiến trường cả nước trong mùa khô này, Người căn dặn cán bộ, chiến sĩ vượt mọi khó khăn quyết giành thắng lợi lớn nhất trong Đông-Xuân 1953-1954.
Chỉ huy các chiến trường đều phấn khởi nhận nhiệm vụ. Một số đại biểu được giữ lại để làm việc với Tổng tư lệnh.
Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Thái cũng làm việc với Hoàng Sâm, đại đoàn trưởng 304, và Trần Quý Hải, đại đoàn trưởng 325, cụ thể hóa nhiệm vụ và hoạt động trên chiến trường Trung, Hạ Lào.
Bí thư Tổng Quân ủy nói:
- Ở hướng này ta chưa có hoạt động quân sự lớn, nên kẻ địch chủ quan, có nhiều sơ hở. Bộ đội ta và Quân giải phóng Pathet Lào mở cuộc tiến công bất ngờ có thể tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng trên đất bạn. Và đây cũng là một hướng nhiều khả năng thu hút quân cơ động của địch để thực hiện ý đồ chiến lược của Trung ương.
Riêng mũi thọc sâu xuống Hạ Lào lúc đầu dự kiến lực lượng là một trung đoàn, nhưng khi chuẩn bị cụ thể thấy đường quá xa, đặc biệt là việc tiếp tế đạn dược, lương thực cực kỳ khó khăn, nên phải rút xuống tiểu đoàn tăng cường. Bí thưu Tổng Quân ủy gặp riêng Lê Kích, trung đoàn phó trung đoàn 101, người trực tiếp phụ trách mũi thọc sâu. Sau khu trao nhiệm vụ cụ thể, anh nói:
- Đường hành quân xa và hiểm trở, các đồng chí phải chuẩn bị rất kỹ về lương thực, đạn dược trước khi lên đường. Chỉ có tuyệt đối giữ bí mật mới tạo một bất ngờ lớn và giành chiến thắng. Các đồng chí chỉ có một tiểu đoàn tăng cường, nhưng nếu biết sử dụng hết khả năng, sức mạnh của một tiểu đoàn không nhỏ. Phương Tây đã định nghĩa: đơn vị tiểu đoàn là một binh đoàn tác chiến nhỏ.
Bí thư Tổng Quân ủy đã lường trước khó khăn khi làm việc với đồng chí Nguyễn Chánh, Tư lệnh kiêm Bí thư Liên ủy Liên khu 5.
Nguyễn Chánh nói:
- Ở liên khu đã được phổ biến tin mùa khô này địch sẽ đánh chiếm các tỉnh tự do ở đồng bằng, bây giờ Quân ủy quyết định đưa đại bộ phận bộ đọi chủ lực lên Tây Nguyên, tôi sợ khi trở về khó thuyết phục liên khu ủy, kể cả cán bộ, chiến sĩ cũng khó thông. Anh em được nhân dân nuôi nấng đùm bọc suốt nhiều năm qua, bây giờ địch sắp đến lại bỏ dân mà đi!
Bí thư Tỏng Quân ủy nói:
- Cả Thường vụ bộ Chính trị và Quân ủy cũng biết đây là vấn đề tâm lý không dễ giải quyết. Nhưng Bộ Chính trị đã cân nhắc kỹ, mở cuộc tiến công lên Tây Nguyên là cách tốt nhất để bảo vệ vùng tự do Liên khu 5. Tây Nguyên có vị trí quan trọng với toàn bộ chiến trường Đông Dương lại là nơi địch sơ hở, nếu chiến dịch bất ngờ nổ ra, bộ đội chủ lực của liên khu thời gian qua tiến bộ nhiều, chắc chắn sẽ giành thắng lợi lớn. Ta đánh mạnh ở Tây Nguyên, có khả năng buộc địch phải bỏ kế hoạch đánh các tỉnh đồng bằng Liên khu 5. Dù địch vẫn tiếp tục đánh các tỉnh đồng bằng thì sức tiến công cũng giảm nhẹ, bộ đội địa phương và dân quân du kích ở liên khu có điều kiện tiêu diệt địch. Hơn thế, theo kinh nghiệm tác chiến các đại đoàn chủ lực củ Bộ, bộ đội chủ lực của liên khu đánh địch ở Tây Nguyên thuận lợi hơn nhiều so với đánh địch trên địa hình đồng bằng. Tác chiến ở Tây Nguyên sẽ phát huy được toàn bộ sức mạnh của bộ đội liên khu, đây là cách bảo vệ tốt nhất các tỉnh tự do ở đồng bằng.
Đồng chí Nguyễn Chánh đã có thái độ thoải mái hơn trước khi ra về.
❖ 3 ❖
Cơ quan tham mưu của ta lúc này chưa biết gì về Điện Biên Phủ. Năm 1949, mới có một số chiến sĩ tuyên truyền xung phong của ta đặt chân trên dải đất miền cực tây Tổ quốc này trong một thời gian ngắn. Điện Biên Phủ chỉ mới được giải phóng từ cuối chiến dịch Tây Bắc năm 1952. Trên những bản đồ 1/100.000 ta hiện có, khu vực Điện Biên Phủ thiếu nhiều chi tiết và có những khoảng để trắng.
Từ tháng 11, để tăng cường cơ quan Tổng tư lệnh, Bộ Chính trị đã quyết định điều anh Văn Tiến Dũng về làm Tổng tham mưu trưởng. Anh Dũng vốn trước đây là Cục trưởng Cục Chính trị, khi thành lập đại đoàn 320 được cử xuống lại làm đại đoàn trưởng, sau những năm chiến đấu ác liệt ở châu thổ sông Hồng, nay lại trở về Bộ. Sau hội nghị phổ biến nhiệm vụ quân sự Đông- Xuân, anh Dũng ở lại nhận công tác mới. Anh Hoàng Văn Thái trở thành Tổng tham mưu phó.
Võ Nguyên Giáp nói:
- Phương án tác chiến Đông- Xuân ở Tây Bắc của ta coi như đã thay đổi. Bộ Tổng tham mưu cần thảo một phương án tác chiến mới ở Tây Bắc, trọng tâm là phương án tác chiến ở Điện Biên Phủ. Cần làm sớm để ta còn kịp chuẩn bị về mặt cung cấp. Dự kiến tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ sẽ là 10 tiểu đoàn.
Văn Tiến Dũng hỏi:
- Có 2 cách đánh tập đoàn cứ điểm, anh Văn cho biết là chuẩn bị theo cách nào? Có cần chuẩn bị cả hai không?
- Chỉ cần chuẩn bị theo cách “đánh chắc tiến chắc”.
Tổng tư lệnh trả lời một cách có chủ định. Đúng là từ khi bạn giới thiệu về hai cách đánh tập đoàn cứ điểm, anh đã nhận thấy bộ đội ta chỉ có thể tiêu diệt con nhím bằng cách tiêu diệt dần từng trung tâm đề kháng.
Mấy ngày sau, Bộ Tổng tham mưu đưa trình bản dự thảo về phương án tác chiến Đông-Xuân ở Tây Bắc. Về Điện Biên Phủ, dự thảo viết:
“ Lực lượng sử dụng tại Điện Biên Phủ là 9 trung đoàn bộ binh công binh và một bộ phận cao xạ.
Về thời gian hoạt động ở Tây Bắc chia làm 2 đợt:
- Đợt 1: Đánh Lai Châu kết thúc vào cuối tháng 1-1954. Sau đó cho bộ đội nghỉ ngơi chấn chỉnh khoảng 20 hôm và tập trung đầy đủ lực lượng.
- Đợt 2: Tiến công Điện Biên Phủ
Thời gian đánh Điên Biên Phủ ước tính 45 ngày. Tình hình thay đổi có thể rút ngắn hơn. Chiến dịch sẽ kết thúc vào đầu tháng 4-1954, bộ đội chủ lực sẽ rút về, một bộ phận còn lại tiếp tục phát triển sang Lào uy hiếp Luông Pha Băng.
Về nhu cầu vật chất rất lớn. Bộ Tổng tham mưu đã làm việc với Tổng cục Cung cấp, dự kiến bước đầu cần 4200 tấn gạo (chưa kể gạo cho dân công), 100 tấn rau, 100 tấn thịt, 80 tấn muối, 12 tấn đường. Tất cả đều phải đưa từ hậu phương lên quãng đường dài 500km. Dân công từ trung tuyến lên cần 14.500 người…” (3) .
Bộ phận tiền phương chiến dịch nhanh chóng được chỉ định, gồm các đồng chí: Hoàng Văn Thái – Tổng tham mưu phó, Lê Liêm – Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Đặng Kim Giang – Phó chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp, Đỗ Đức Kiên – Cục phó Cục Tác chiến (4) . Trước đó, Đặng Kim Giang đã cùng với một bộ phận cán bộ đi Tây Bắc để chuẩn bị công tác cung cấp.
Võ Nguyên Giáp gặp Bộ Tổng tham mưu trước ngày bộ phận tiền phương chiến dịch lên đường.
Anh nói:
- Tôi đã xin ý kiến Bộ Chính trị, Đông- Xuân năm nay, Bộ Tổng tư lệnh sẽ tổ chức hai bộ phận: Sở chỉ huy tiền phương và sở chỉ huy ở khu căn cứ. Tôi sẽ ở sở chỉ huy tiền phương. Ở khu căn cứ có anh Nguyễn Chí Thanh và anh Văn Tiến Dũng. Về tác chiến, sở chỉ huy tiền phương sẽ chịu trách nhiệm chỉ huy chung. Sở chỉ huy hậu phương đặc trách chiến trường đồng bằng. Anh Thái đi trước, tới sở chỉ huy tiền phương đôn đốc 316 giải phóng Lai Châu thật nhanh, không để địch tại đây co về Điện Biên Phủ. Riêng tại Điện Biên Phủ, phải đề phòng địch từ đây rút chạy qua Tây Trang sang Thượng Lào. Sở chỉ huy tiền phương tranh thủ ý kiến các Cố vấn đi cùng chuẩn bị ngay một phương án tiến công Điện Biên Phủ để trình Tổng quân ủy.
Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái hỏi:
- Chừng nào anh sẽ có mặt ở Tây Bắc?
- Tôi nghĩ sẽ vào cuối tháng 12 năm 1953, hoặc đầu tháng 1 năm 1954.
Ngày 26 tháng 11 năm 1953, cơ quan tiền phương của Bộ lên đường đi chiến dịch Tây Bắc.
Tổng tư lệnh chợt nhận thấy mọi sự điều động hiện nay sẽ trở thành vô nghĩa nếu quân địch ở Điện Biên Phủ rút qua Lào.
Tư lệnh đại đoàn 308 được triệu tập. Tổng tư lệnh hỏi Vương Thừa Vũ:
- Tư tưởng bộ đội thế nào?
- Thưa anh, ngày nào cũng có đơn vị hỏi: “Đã có lệnh lên đường chưa?”
- Anh em cho rằng Đông- Xuân này sẽ đánh đâu?
- Nhiều cán bộ chiến sĩ vẫn nghĩ sẽ đánh đồng bằng.
- Nếu bây giờ đánh tập đoàn cứ điểm?
- Lại càng phấn khởi. 308 sẽ có dịp trả cái hận Pú Hồng năm trước.
- 308 chuẩn bị lên đường ngay! Có một nhiệm vụ đặc biệt trao cho đại đoàn.
Đại đoàn trưởng chăm chú lắng nghe.
- Muốn đánh tập đoàn cứ điểm, phải giữ quân địch lại Điện Biên Phủ. Bộ đang lo nếu thấy chủ lực ta kéo đông, địch sẽ chạy sang Lào.
Anh nhìn tấm bản đồ đặt trên bàn, nói tiếp:
- Các đồng chí cho ngay một trung đoàn đi trước, tìm đường tắt đến chốt chặt tại đây, không cho bất cứ một tên địch nào vượt qua!
Anh trỏ phía nam –tây-nam Điện Biên Phủ trên bản đồ, địa điểm Pom Lót đã được khoanh tròn, nằm giáp đường ranh biên giới Việt Lào.
Anh hỏi:
- Trung đoàn nào có thể làm tốt nhiệm vụ này?
- Tôi thấy nên chọn 36. Trong chiến dịch Tây Bắc, 36 đã chạy từ Tây Bắc về Phú Thọ kịp tiêu diệt địch ở Trạm Thản.
Anh mỉm cười:
- Đồng ý.
Trao nhiệm vụ xong cho Vương Thừa Vũ, anh tạm yên tâm.
Đầu tháng 12 năm 1953, đại đoàn 308 vượt sông Hồng. Cùng lên đường với 308, có trung đoàn sơn pháo 675 của đại đoàn 351.
Tại Tây Bắc tình hình biến chuyển rất nhanh.
Đầu tháng 12 năm 1953, các trung đoàn của 316 ở các nơi tại Tây Bắc còn chưa tập trung xong. Hai trung đoàn khác của 316 đều đang trên đường, trung đoàn 174 mới tới Tuần Giáo, trung đoàn 98 còn ở bên kia đèo Pha Đin.
Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị cho đại đoàn sử dụng trung đoàn 176 đã có mặt, cấp tốc đưa một tiều đoàn vào Điện Biên Phủ, hoạt động tại khu vực Him Lam, Bản Tấu ngăn không cho quân địch đánh ra, đưa một tiểu đoàn qua biên giới giúp các bạn Lào bảo vệ vùng giải phóng Sầm Nưa, để lại một tiểu đoàn ở lại Sơn la, Thuận Châu bảo vệ hậu phương và làm lực lượng cơ động.
Ngày 5 tháng 12, Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng báo cáo, qua tin kỹ thuật, địch đang rút các tiểu đoàn Âu phi đóng ở thị xã Lai Châu về Điện Biên Phủ bằng máy bay, một bộ phận đã tới Mường Thanh. Tổng tư lệnh ra lệnh cho Bộ Tổng tham mưu thông báo gấp cho sở chỉ huy tiền phương kịp thời xử trí.
Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái được tin lập tức triệu tập cán bộ 316 về sở chỉ huy tiền phương tại cây số 15 đường Tuần Giáo – Điên Biên Phủ, trao nhiêm vụ cho đại đoàn nhanh chóng giải phóng thị xã Lai Châu theo kế hoạch cũ, và kiên quyết cắt đứ con đường Pavie, không cho địch co về Điện Biên Phủ. Nếu địch bỏ chạy thì truy kích tới cùng.
Hai trung đoàn của 316, có đơn vị vừa trải qua 20 đêm hành quân liên tục. Đại đoàn trưởng Lê Quảng Ba và chính ủy Chu Huy Mân quyết định đưa một tiểu đoàn tiến gấp lên phía bắc thị xã Lai Châu, bố trí một tiếu đoàn ở Tuần Giáo đề phòng địch tập kích vào hậu phương trực tiếp của chiến dịch, đưa đại bộ phận của hai trung đoàn tiến về con đường Pavie đón quân địch từ Lai Châu rút chạy về Điện Biên Phủ.
Ngày 12 tháng 12 năm 1953, bộ đội ta tiến vào giải phóng thị xã Lai Châu sau gần một thế kỷ nằm dưới ách đô hộ của Pháp, còn đẩy những xác xe vận tải và những kho tàng bị phá hủy.
Cũng trong ngày 12, hai trung đoàn của 316 sau bốn ngày vượt núi băng rừng đã giăng một tấm lưới ở khu vực Mường Muộn, Mường Pồn đón lõng quân địch từ Lai Châu chạy về, đứng chân trên đèo Pu San hiểm trở đánh lui một cánh quân địch từ Điện Biên Phủ tiến lên cứu nguy. Một tiểu đoàn đi trước cũng đã có mặt ở Him Lam – Bản Tấu ngay cửa ngõ Mường Thanh.
Theo tài liệu của phương Tây, “lực lượng rời Lai Châu ngày 9 tháng 12, gồm 2.101 người, trong đó có 3 trung úy, và 34 hạ sĩ quan Pháp, khi tới Điện Biên Phủ ngày 12 tháng 12, chỉ còn 10 người Pháp, trong đó có viên trung úy Ulpat và 175 binh lính Thái. Gần 2.000 lính biệt kích, hàng tăm người dân sự, cũng như 2 sĩ quan, 25 hạ sĩ quan Pháp không còn lên tiếng khi điểm danh. Hơn thế, Việt Minh đã thu được đủ vũ khí để trang trại bị cho cả một trung đoàn” (5) .
❖ 4 ❖Ngay sau hội nghị phổ biến nhiệm vụ quân sự, Bộ Tổng tư lệnh điện cho các chiến trường khắc phục khó khăn, khẩn trương triển khai kế hoạch Đông – Xuân. Một mặt trận mới xuất hiện lúc này ở tây Nguyên hoặc Trung Lào sẽ làm phân tán sự chú ý của Navarre về Điện Biên Phủ. Nếu những cuộc tiến công của ta đủ mạnh, Navarre không thể không phân tán quân cơ động để đối phó.
Tại Trung Lào, từ cuối tháng 11, một bộ chỉ huy liên quân đã hình thành, gồm tư lệnh đại đoàn 304 Hoàng Sâm, tư lệnh kiêm chính ủy đại đoàn 325 Trần Quý Hai. Từ cuối tháng 11,cùng với cuộc tiến quân lên Tây Bắc, trung đoàn 66 của 304 và hai trung đoàn 101 và 18 của 325 đã chia thành ba mũi tiến vào Trung Lào. Tiểu đoàn 346, thuộc trung đoàn 101, do trung đoàn phó Lê Kích chỉ huy, theo đường xuyên Trường Sơn tiến thẳng xuống Hạ Lào. Các đơn vị quân tình nguyện của ta và những đơn vị Pathet Lào ở trên địa bàn đã sẵn sàng phối hợp.
Navarre rất chú ý đến vĩ tuyến 18, đã bố trí tại đây một tuyến ngăn chặn hai miền Nam, Bắc Đông Dương. Trước mùa khô, Navarre đã tăng cường lực lượng và thành lập một bộ máy chỉ huy thống nhất tại Trung Lào. Các con đường số 8, số 9, số 12 nối liền Việt Nam với Trung Lào được kiểm soát chặt chẽ.
Những mũi tiến quân của ta với lực lượng trung đoàn, lực lượng dân công phục vụ chiến trường được huy động tới 50.000 người, mặc dù rất chú ý giữ bí mật đã không qua mắt quân địch. Ngay sau khi được báo cáo có những lực lượng lớn bộ đội đang tiến vào Trung Lào, Navarre lập tức rút binh đoàn cơ động số 2 (Groupement Mobile N.2) từ đồng bằng Bắc Bộ vào bịt các cửa ngõ hai tỉnh Khăm Muộn, Savanakhet và những con đường từ Việt Nam chạy sang.
Tổng tư lệnh rất vui mừng khi được tin này. Rồi đây, khi những trận đánh của ta nổ ra tại Trung và Hạ Lào, chắc chắn Navarre còn phải tăng quân cơ động về hướng này. Nhưng anh cũng nghĩ, do địch đã đề phòng, những hoạt động của bộ đội sẽ gặp khó khăn. Đây là lúc cần tung ngay toàn bộ lực lượng tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ lên Tây Bắc. Chỉ một ngày sau khi nhận lệnh, đại đoàn 312 và đại đoàn công – pháo 351 đã lên đường.
Ngày 21 tháng 12 năm 1953, 308 báo cáo về, trung đoàn 36 đã tới Pom Lót. Những đơn vị đầu tiên của 316 đã có mặt ở thung lung Mường Thanh. Con đường từ Điện Biên Phủ sang Thượng Lào đã bịt kín.
Cùng lúc, có tin tiểu đoàn 436 của trung đoàn 101, mũi thọc sâu, đã tới Hạ Lào.
Tin vui từ mặt trận Trung Lào dồn dập bay về.
Đêm 21 tháng 12, trung đoàn 101 đánh cứ điểm Khăm He tiêu diệt hầu hết tiểu đoàn Âu Phi số 27 và một đại đội pháo 105. Thừa thắng, trung đoàn tiến công tiếp vị trí Kha Ma, tiêu diệt tiểu đoàn Marốc vừa tới chiếm đóng.
Đêm 23 tháng 12, trung đoàn 66 tiến công đồn Pa Cuội, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn Marốc và đại đội ngụy Lào tại đây.
Cũng trong hai ngày 23 và 24, một đơn vị bộ đội ta và bộ đội bạn tiến công Lạc Sao, Căm Kớt, diệt một loạt vị trí dọc đường số 12, giải phóng thị trấn Nhommarat, tiến vào Thà Khẹt. Toàn tỉnh Khăm Muộn với 40.000km vuông và hàng chục vạn dân được giải phóng.
Trong trận đánh Khăm He ta thu được nhiều vũ khí trong đó có 4 khẩu 105 nguyên vẹn cùng với hàng trăm viên đạn pháo. Chưa ai ngờ tới là số đạn pháo chiến lợi phẩm này, một thời gian sau đó sẽ xuất hiện ở mặt trận Điện Biên Phủ.
Báo chí phương Tây la ó: “Đông Dương đã bị cắt làm đôi”.
Navarre vội vã mở cầu không vận đưa thêm một binh đoàn cơ động tổ chức một tập đoàn cứ điểm 10 tiểu đoàn tại Seno, nằm trên đường số 9 ở gần Savannakhét. Một con nhím thứ hai của Navarre đã xuất hiện trên chiến trường Đông Dương sau con nhím Điện Biện Phủ.
Cuối tháng 12, Cục Tác chiến báo cáo với Tổng tư lệnh quân cơ động địch lúc này đã chia ra ba nơi: đồng bằng, Điện Biên Phủ và Trung Lào. Riêng tại Trung Lào đã có 27 tiểu đoàn.
Tổng tư lệnh vui vẻ nói:
- Chỉ mới là đợt 1 ở Trung Lào. Sắp tới còn Hạ Lào, và Tây Nguyên… Sẽ còn thêm những con nhím khác.
❖ 5 ❖Ngày 6 tháng 12 năm 1953, sau khi dự thảo phương án tác chiến mới tại Tây Bắc của Bộ Tổng tham mưu được chỉnh sửa, Tổng quân ủy gửi tờ trình lên Bộ Chính trị, nêu: “Thời gian tác chiến ở Điện Biên Phủ ước độ bốn mươi lăm ngày”. Trận đánh có thể khởi đầu vào tháng 2 năm 1954 (sau khi bộ đội ta đã tiêu diệt Lai Châu). Đây “sẽ là một trận công kiên lớn nhất từ trước tới nay”, sẽ phải sử dụng 3 đại đoàn bộ binh, toàn bộ pháo binh, công binh, lực lượng phòng không. Nếu kể cả cơ quan chỉ huy chiến dịch, các đơn vị trực thuộc, bộ đội bảo vệ tuyến cung cấp, bộ đội bổ sung, thì “quân số tổng quát của chiến dịch sẽ là 42.000 người”.
Hạ tuần tháng 12 năm 1953, Bộ Chính trị quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược trong Đông-Xuân 1953-1954. Đảng ủy chiến dịch được chỉ định gồm các đồng chí: Võ Nguyên Giáp – Bí thư Đảng ủy kiêm Chỉ huy trưởng chiến dịch, Hoàng Văn Thái – Tham mưu trưởng, Lê Liêm – Chủ nhiệm Chính trị, Đặng Kim Giang – Chủ nhiệm Cung cấp.
Võ Nguyên Giáp lên Khuổi Tát chào Bác trước khi lên đường đi chiến dịch.
Anh nói:
Thưa Bác, điều tôi lo lắng nhất hiện nay là khi ta đã điều quân lên Điện Biên Phủ mà quân địch lại rút đi. Địch tiếp tục chiếm đóng Điện Biên Phủ, tình hình sẽ có lợi cho ta trong Đông – Xuân này. Nếu tập đoàn cứ điểm của địch là mười tiểu đoàn hoặc hơn một chút, ta sẽ cố gắng tiêu diệt để tạo một biến chuyển trong chiến tranh. Nhưng cũng có thế Navarre đưa lên nhiều quân hơn nếu thấy Điện Biên Phủ trở thành một điểm quyết chiến chiến lược. Trương hợp đó, ta phải tính. Hai trung đoàn lựu pháo và cao xạ pháo của ta đã có mặt tại chiến dịch, sẽ gây cho địch một bất ngờ. Khó khăn hiện nay là đạn pháo nặng quá ít. Đề nghị Trung ương chú ý cho việc bảo đảm cung cấp. Chúng tôi đã sơ bộ tính toán, nếu quân địch chỉ là mười tiểu đoàn thì mức tiêu thụ về hậu cần đã rất lớn…
Bác hỏi:
- Chú đi xa như vậy, chỉ đạo các chiến trường có gì trở ngại không?
- Tổng quân ủy đã phân công, các anh Nguyên Chí Thanh, Văn Tiến Dũng ở lại khu căn cứ sẽ phụ trách mặt trận đồng bằng Bắc Bộ. Sẽ tổ chức cơ quan tiền phương của Bộ Tổng tư lệnh tại mặt trận để chỉ đạo chiến trường toàn quốc, kể cả bộ đội tình nguyện ở Lào và Campuchia. Các đồng chí Tổng tham mưu phó, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đều có mặt trên đó. Chỉ trở ngại là ở xa, khi có vấn đề quan trọng và cấp thiết, khó xin ý kiến của Bác và Bộ Chính trị.
- Tổng tư lệnh ra mặt trận, “Tướng quân tại ngoại”! Trao cho chú toàn quyền. Có vấn đề gì khó khăn, bàn thống nhất trong Đảng ủy, thống nhất trong Bộ chỉ huy, thống nhất với cố vấn thì cứ quyết định, rồi báo cáo sau:
Khi chia tay, Bác nhắc:
- Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh. (6)
Anh chưa biết những lời dặn dò của Bác trước khi lên đường sẽ có tác dụng quyết định đến sự thành bại của chiến dịch sắp tới.
Chú thích:
1. La bataille Dien Bien Phu. SĐG. Trang 421.
2. Theo báo Tia sang, Hà Nội, ngày 9 tháng 11 năm 1953.
3. Lịch sử Bộ Tổng tham mưu trong kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954. Sđg. Tr. 730).
4. Tháng 11 năm 1953, đồng chí Trần Văn Quang, Cục trưởng Cục địch vận được điều làm Cục trưởng Cục Tác chiến.
5. Bernard Fall. Dien Bien Phu un coin d’enfer.
6. Đọc Chương 2, “Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử”. Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.