← Quay lại trang sách

Chương XV NAVARRE
❖ 1 ❖

Nửa thế kỷ sau chiến thắng Điện Biên Phủ, nhiều người ở Việt Nam và Pháp vẫn còn nhiều điều chưa rõ về Điện Biên Phủ. Những người muốn tìm hiểu về chiến tranh Đông Dương ở Pháp cho rằng họ bị chi phối bởi một số nhà nghiên cứu ít ỏi có tính độc quyền.

Một câu hỏi lớn vẫn tồn tại: Vì sao cả đôi bên tham chiến bỗng dưng dồn những lực lượng tinh nhuệ nhất của mình vào một thung lũng giữa vùng rừng núi cực tây Bắc Bộ heo hút, tiến hành trận quyết đấu cuối cùng mà trước đó họ chưa hề nghĩ tới?

Mọi người đều tin là việc đánh chiếm Điện Biên Phủ không hề có trong kế hoạch Navarre; Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp phải làm việc này do phát hiện đại đoàn 316 tiến lên Tây Bắc, đe dọa đồn binh Lai Châu và thủ đô Vương quốc Lào.

Nguyên nhân là bức điện mật ngày 20 tháng 11 năm 1953 của Tổng chỉ huy Navarre gửi về Paris, báo cáo đã cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Bức điện viết: “Đại đoàn 316 tiến lên Tây – Bắc đe dọa nghiêm trọng đồn binh Lai Châu và có nghĩa là trong một thời gian ngắn sẽ tiêu diệt lực lượng maquis (1) của ta tại vùng thượng du. Tôi đã quyết định có một hành động ở Điện Biên Phủ là căn cứ hành binh đã được dự định của 316 mà nếu ta chiếm lại sẽ đảm bảo che chở được cho Luông Pha Băng, nếu không làm như vậy, chỉ trong vài tuần nữa, Luông Pha Băng sẽ bị nguy hiểm nghiêm trọng” .

Căn cứ vào câu chữ thì việc đại đoàn 316 tiến lên Tây Bắc là lý do trực tiếp khiến Navarre phải đưa quân lên Điện Biên Phủ.

Navarre biết rõ mình là ai. Chỉ qua những biểu hiện bên ngoài, người ta cũng dễ nhận thấy điều đó. Lịch sự nhưng xa cách, thân tình nhưng kiêu kỳ, không tranh cãi, không giải thích khi gặp sự phản bác của cấp dưới, và cũng không khoe khoang về những chiến tích của mình…Đó là cái thường gặp ở những người trí thức, có quyền lực và đầy tự tin. Mười tám tuổi đã là lính bộ binh, được đào tạo ở trường Saint – Cyr rồi trường Chiến tranh, đã tham gia cả hai cuộc đại chiến thế giới thứ nhất và thứ hai tại châu Âu, từng chỉ huy sư đoàn thiết giáp sô 5 đánh chiếm Karlsruhe 24 giờ trước De Lattre de Tassigny. Navarre là một tướng chiến trận, nhưng không mang dáng vẻ của một thủ lĩnh như Leclerc, De Lattre, ông ta giống một chuyên gia tham mưu lạnh lùng, thâm trầm, một người xuất thân từ giai cấp quý tộc.

Không phải ngẫu nhiên Navarre được chọn sang Đông Dương. Những phẩm chất trí tuệ, cá tính cương nghị, trình độ tri thức chung và quân sự khiến cho ông được đánh giá là một nhà chỉ huy lớn. Lúc đầu, Navarre không mặn mà gì với cương vị Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh mà nhiều người tiền nhiệm lừng danh đã thất bại. Ông ta từ chối với lý do là mình không có kinh nghiệm với Đông Dương. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng René Mayer đã biết cách thuyết phục viên tướng bằng sự khẳng định đó lại chính là lý do để lựa chọn ông, vì nhà cầm quyền đang cần có ở Sài Gòn một con người mới để nhìn nhận vấn đề bằng cái nhìn mới. Lời nói tri âm, tri kỷ này đã làm cho Navarre xiêu lòng. Đã vậy thì ông ta sẽ cố gắng mang lại cho Đông Dương một cái gì khác những người tiền nhiệm.

Ở Pháp, có một số người không ưa chiến thuật “con nhím”. Họ cho rằng những tiểu đoàn tập trung nằm chơ vơ giữa vùng rừng núi, đối phương không cần đến một cuộc tiến công, chỉ cắt đứt đường tiếp tế lương thực là nó sẽ bị tiêu diệt. Trước ngày Navarre lên đường, một người bạn đã rỉ tai ông ta: “Hãy coi chừng cái con nhím tẩm độc!” Navarre đáp: “Mình sẽ sớm chấm dứt cái trò này”.

Nhưng ở Đông Dương, con nhím Nà Sản được đánh giá là một giải pháp xuất sắc của Salan, chuyển nguy thành an, cứu được vùng Tây Bắc và số quân đồn trú ở đây.

Mở đầu cho chuyến đi thị sát các chiến trường, Navarre tới thăm con nhím Nà Sản. Trước khi lên máy bay, viên phi công hỏi tân Tổng chỉ huy muốn bay theo độ cao nào. Navarre đáp:

- Ở độ cao nào mà ta có thể nhìn thấy cái gì đó.

Tới vùng trời Mộc Châu, bất thần một loạt đạn súng máy phòng không vây quanh chiếc Dakota. Chiếc máy bay hạ xuống Nà Sản với đôi cánh lỗ chỗ vết đạn. Navarre hẳn càng không ưa cái loại con nhím này.

Người ra đón tân Tổng chỉ huy là một viên đại tá dáng vẻ khô khan, lạnh nhạt. Đó là Berteil, quyền chỉ huy tập đoàn cứ điểm. Viên đại tá này cũng giống như nhiều sĩ quan đã gặp mà Navarre không mấy quan tâm.

Những người chỉ huy quân sự ở Đông Dương lúc này, trong đó có cả tướng De Linarès đang chỉ huy đồng bằng Bắc Bộ, một đồng môn trước kia của Navarre, là do De Lattre lựa chọn. Nhiều người đã ngỏ ý muốn ra đi cùng với Salan. Navarre không giữ một ai, trừ tướng Cogny, người am hiểu cuộc chiến ở đồng bằng, được nhắm để thay thế chính De Linarès. Navarre đã chinh phục Cogny một cách không mấy khó khăn.

Trong một cuộc gặp tư lệnh các vùng chiến thuật, Navarre kéo viên tướng hai sao ra đứng riêng một chỗ, nhẹ nhàng nói:

- Một ngày gần đây nhất, tôi sẽ công bố tướng quân là người thay thế tướng De Linarès làm Tư lệnh Bắc Bộ với quân hàm tướng ba sao.

Mặt Cogny bừng sáng vì xúc động. Y đứng thẳng người, đáp:

- Ngài sẽ không phải hối tiếc vì việc làm này.

Trước khi sang Đông Dương, tình cờ nhà cầm quyền Pháp trao cho vị tân Tổng chỉ huy quyết định thăng thưởng Cogny thêm một sao, lúc đó ông ta không nghĩ là điều đó sẽ được việc cho mình. Navarre biết cách chinh phục người mà ông ta cần.

Berteil dẫn tân Tổng chỉ huy đi thăm tập đoàn cứ điểm Nà Sản. Cũng như một số sĩ quan tham mưu tinh khôn khác ở Đông Dương, Berteil đã biết tân Tổng chỉ huy không ưa cách phòng ngự kiểu con nhím này, một sáng kiến tài tình của cựu Tổng chỉ huy đã cứu nguy cho Tây Bắc hồi cuối mùa đông năm trước. Nhưng Berteil lại có một cách ứng xử khác với mọi người, trong khi nhiều người thấy cách khôn ngoan nhất là im lặng không nhắc tới nó để khỏi gây cho tân chỉ huy sự khó chịu, thì Berteil suốt dọc đường, chỉ nói với Navarre những phẩm chất tuyệt vời của con nhím Nà Sản. Cuối chiến dịch Tây Bắc, tinh thần quân viễn chinh và biệt kích ở Tây Bắc xuống tới mức thấp nhất, những đồn binh kiên cố chỉ bị đối phương động tới là tan vỡ. Salan chọn cái thung lũng nhỏ bé này cho làm gấp một sân bay dã chiến, cắm lên những đồi cao xung quanh sân bay một số đồn bốt với công sự dã chiến để kéo dài cuộc chiến đấu, không ngờ đã tạo nên một hiệu quả khác thường, khiến cho những quân đoàn tác chiến Việt Minh đang say sưa vì chiến thắng phải ăn bụi, khựng lại ngay sau vài trận đánh, và tướng Giáp phải cho quân rút lui mặc dù binh lính, đạn dược, lương thực đều còn nhiều. Berteil trỏ cho Navarre xem những công sự, lô cốt, chiến hào chẳng có gì đặc biệt nhưng đã gây ra cho đối phương những ảnh hưởng ngoài dự đoán.

Navarre lúc đầu hơi khó chịu, nhưng rồi bị cuốn hút về cách nói hồn nhiên, vô tư, đôi lúc còn pha thêm chút hài hước của viên đại tá, và cuối cùng thấy đây chính là người có những phẩm chất đặc biệt của một sĩ quan tham mưu già dặn, những kinh nghiệm, suy nghĩ, lập luận mà ông đang rất cần. Viên đại tá nói về sự có ích và cần thiết của con nhím Nà Sản trên chiến trường rừng núi phía bắc hiện nay với sự phân tích sáng rõ và cuốn hút. Con nhím này chỉ là sự tập hợp rất nhanh những đồn bốt nằm lẻ loi không thể tự bảo vệ được mình vào một địa hình được lựa chọn, theo nguyên lý tạo nên một miếng mồi quá to khiến Việt Minh không thể nào gặm nổi. Những tiểu đoàn chiến binh tinh thần xuống rất thấp trên đường rút chạy, khi tập hợp lại trong tập đoàn cứ điểm, đã trở thành nhà vô địch. Viên đại tá tính toán với trình độ trang bị như Việt Nam hiện nay, trong một vài năm trước mắt, Việt Minh chưa thể vượt qua con nhím này; cũng như để bảo vệ những vùng rừng núi ít lực lượng như Tây Bắc, sẽ không cần lo phải bảo vệ từng đồn bốt như trước, chỉ cần mỗi khi địch mở chiến dịch, rút các đồn bốt về tập trung như ở đây, thì buộc đối phương sớm muộn sẽ phải rút lui, khi họ rút rồi lực lượng đồn trú ở các con nhím lại trở về vị trí cũ.

Viên đại tá đã gây ấn tượng rất mạnh với Navarre. Đây chính là con người mà hiện nay mình không thể thiếu . Một thời gian ngắn sau đó, Berteil trở thành phó ban tác chiến, và trợ thủ đắc lực nhất của Navarre.

Từ khi sang Đông Dương, Navarre và người tiền nhiệm Salan chỉ có những cuộc tiếp xúc, trao đổi mang tính thủ tục. Trong những Tổng chỉ huy, Salan là người có mặt lâu nhất trong chiến tranh Đông Dương. Ông ta đã từng làm đồn trưởng ở một vùng thượng du Bắc Kỳ. Ông ta đã trực tiếp chỉ huy cuộc tiến công chiến lược duy nhất vào căn cứ địa của Việt Minh tại Việt Bắc. Ông ta đã từng là phó cho thống chế De Lattre, rồi lại là người thay thế De Lattre. Nhưng khi đã đưa Đông Dương tới tình thế bế tắc như hiện nay thì ông ta còn gì để nói! Navarre muốn tránh mọi ảnh hưởng của những người cũ. Salan cũng tự nhận thấy mình là người đã thua trong chiến cuộc này, và chẳng hề muốn thanh minh cho những việc mình đã làm trước khi ra đi với một người mà ông ta đã nhận thấy là quá tự tin đến mức kiêu ngạo.

Sau chuyến thị sát Nà Sản, Navarre nhận thấy không thể bỏ qua con cáo già ở Đông Dương, đã được mệnh danh là “người Tàu”. Navarre gọi lại trong cơ quan chỉ huy sự đánh giá về tập đoàn cứ điểm Nà Sản.

Cogny, chắc đã biết ở Pháp có những người bài bác chiến thuật “con nhím”, chê Nà Sản thu hút nhiều tiểu đoàn cơ động mà vừa qua đã không ngăn được Việt Minh tiêu diệt Sầm Nưa! Salan vẫn bảo vệ chiến thuật này, nếu không có nó phần rừng núi còn lại ở cực Bắc Đông Dương đã rơi vào tay Việt Minh, và sẽ là một nguy cơ lớn cho cả cuộc chiến tranh. Salan không phủ nhận nhược điểm của Nà Sản như Cogny đã nói. Nhưng ông ta cho rằng đó không phải là nhược điểm của chiến thuật con nhím trong tương quan lực lượng hiện thời ở Đông Dương. Đó chỉ là nhược điểm về địa lý. Khi thiết lập tập đoàn cứ điểm ở Nà Sản, ông ta không có quyền lựa chọn trước sự truy đuổi quá gấp của những binh đoàn chủ lực Việt Minh. Nhưng ngay sau đó ông đã thấy ngay Nà Sản không có tính chất của một vị trí chiến lược ở Tây Bắc. Con nhím Nà Sản đáng lẽ phải nằm ở Điện Biên Phủ. Một con nhím nằm tại đây vừa có thể bảo vệ đồn binh Lai Châu, thủ đô xứ Thái tự trị của Quốc vương Đèo Văn Long, và hơn thế, bảo vệ cho cả thủ đô Luông Pha Băng của Vương quốc Lào, một quốc gia liên kết.

Salan nói:

- Từ một năm qua, nhiều người ngồi đây hẳn còn nhớ, tôi đã ước mơ điều này!

Chưa ai quên điều đó. Cơ quan tham mưu đều nghe Salan lập luận về sự lợi hại của một con nhím nằm ở Điện Biên Phủ, nối kết với đồn binh Lai Châu, và một số căn cứ ở Thượng Lào. Thậm chí họ đã đặt cho nó cái tên: “Quần đào Salan”.

Cơ quan Phòng Nhì cũng hăng hái bày tỏ sự đồng tình với ý kiến của Salan. Họ bổ sung thêm: Phương tiện tiếp tế hiện thời của Việt Minh là đôi chân không, cho phép đoàn quân tác chiến chủ lực hoạt động tại một vùng thượng du nghèo quá xa căn cứ. Điện Biên Phủ còn có một ưu thế mà Nà Sản không thể có, là khi quân đồn trú tại đây gặp nguy hiểm, nó có thể di tản khỏi xứ Thái bằng đường bộ, sang nước Lào.

Cogny lúc đầu bài bác con nhím Nà Sản, cũng chuyển sang tán thành việc thiết lập một con nhím ở Điện Biên Phủ.

Navarre ngồi nghe những ý kiến trao đổi không hề tỏ thái độ. Người nói vẫn phấn khích vì thấy lần đầu họ được tân Tổng chỉ huy lắng nghe. Họ hăng hái bày tỏ trình độ hiểu biết của mình. Cũng có thể Navarre bỏ ngoài tai tất cả những ý kiến của họ, coi như những ý kiến tào lao. Nhưng cũng có thể ít nhất Navarre muốn tìm hiểu trình độ của những người trong cơ quan mà ông đang là người điều khiển. Họ phải cố gắng tìm mọi cách tự giới thiệu mình. Cái im lặng của Navarre không chứng tỏ ông ta là người mới đến chưa hiểu biết về Đông Dương, mà nói bộ não náu sau vầng trán cao và mái tóc bạc kia có ẩn chứa những điều sâu sắc mà người ngồi đây chưa hiểu nổi. Đúng là Navarre lúc này không có thời giờ dành cho những chuyện vô bổ. Navarre đang rất quan tâm đến chiến thuật con nhím. Nhưng ông không muốn mọi người biết đến sự quan tâm của mình. Ông biết một giải pháp cho chiến tranh chỉ có thể tìm thấy trên chiến trường, ở chính những người đang chiến đấu. Những người không hề biết chính mình đang nắm giải pháp đó trong tay. Đối với họ, những ý kiến đúng sai chẳng có giá trị gì. Nhưng đối với ông, những cuộc trao đổi như thế này lại có thể giúp mình làm nên sự nghiệp.

❖ 2 ❖

Một điều làm Navarre kém hào hứng là ngay sau khi nhậm chức, ông ta đã nhận thấy nhà cầm quyền Pháp đã mỏi mệt trong chiến tranh Đông Dương. Điều này nằm trong nhiệm vụ mà chính phủ trao cho tân Tổng chỉ huy: Trước hết là phải đảm bảo sự toàn vẹn của đội quân viễn chinh, tiếp đến cần cải thiện tốt tình hình Đông Dương để tìm kiếm một giải pháp có lợi với Việt Minh nhân dịp ngừng bắn trên bán đảo Triều Tiên.

Chỉ sau một tháng nghiên cứu tình hình tại chỗ, Navarre đã nhận thấy tình hình đội quân viễn chinh ở Đông Dương đang gặp rất nhiều khó khăn, nhưng nếu so sánh với những khó khăn của đối phương thì chưa phải là tuyệt vọng. Nước Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu, đã bị tàn phá trong suốt tám năm chiến tranh, sự giúp đỡ của Trung Quốc tuy lớn nhưng quân đội Việt Minh vẫn chỉ có sáu đại đoàn bộ binh đơn thuần, khả năng đánh lớn tại đồng bằng còn rất hạn chế. Và đặc biệt, với sự nhạy cảm của một người làm tình báo chiến lược, Navarre tin rằng sự giúp đỡ của Trung Quốc cho Việt Minh trong thời gian trước mắt sẽ không tăng, vì Trung Quốc đã rất mệt mỏi sau chiến tranh Triều Tiên. Trong khi đó, Navarre tin rằng sau trận đấu “hòa” trên chiến trường Triều Tiên, nhất định Mỹ sẽ tăng cường viện trợ cho chiến tranh Đông Dương. Nhưng muốn Mỹ làm một cái gì đó ở Đông Dương, trước hết phải lên dây cót cho nhà cầm quyền Pháp và tạo một sự tin tưởng mới cho đồng minh Mỹ.

Ngày 24 tháng 7 năm 1953, Navarre trình kế hoạch trước Hội đồng chính phủ Pháp. Navarre mở đầu buổi thuyết trình bằng giả thuyết là sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với Việt Minh sẽ không tăng. Ý kiến này ngay lập tức thu hút sự chú ý của cử tọa. Suốt thời gian qua, nhà cầm quyền Pháp vẫn tin rằng, chiến tranh Triều Tiên chấm dứt, Trung Quốc sẽ rảnh tay tập trung mọi cố gắng vào Việt Nam để đẩy Pháp ra khỏi bán đảo Đông Dương. Cuộc tranh luận nổ ra. Navarre đã bảo vệ giả thuyết của mình trước sự phản đối dồn dập bằng những lập luận chặt chẽ đầy tự tin.

Khi cảm thấy những người phản đối có phần đã bị thuyết phục, Navarre trình bày tiếp về một kế hoạch giành chiến thắng trong vòng 18 tháng, không phải bằng cách tăng thêm viện binh cho Đông Dương, mà với sự phát triển “quân đội quốc gia” dựa vào viện trợ của Mỹ. Điều này được sự đồng tình rõ rệt của cử tọa, vì nước Pháp sẽ giành chiến thắng mà không mất gì.

Cử tọa chỉ bắt đầu phân vân, khi Navarre đề cập tới một vấn đề cụ thể, là cách đối phó trong trường hợp nước Lào, một quốc gia liên kết bị tiến công, như trường hợp đã diễn ra hồi đầu năm tại Sầm Nưa. Vừa qua, đội quân viễn chinh đã không làm gì khi nước Lào bị mất một tỉnh. Một vấn đề mang tính thời sự hóc búa.

Nhưng Navarre không gây khó cho cử tọa bằng cách đánh đố. Ngay tiếp đó, ông đưa ra giải pháp cho vấn đề này. Chỉ cần lập một căn cứ lục – không quân ( base aéro – terrestre ) ở Điện Biên Phủ là vấn đề sẽ được giải quyết. Cái khôn ngoan của Navarre là đã tránh từ “con nhím”. Trong khi về hình thái bố trí một căn cứ lục – không quân và “tập đoàn cứ điểm” thực ra chẳng khác gì nhau. Cử tọa thở phào nhẹ nhõm. Đương nhiên là không ai phản đối. Kể cả những người không thích chiến thuật con nhím cũng không thể phủ nhận nó, vì vừa qua nó thực sự cứu nguy cho toàn bộ lực lượng còn lại ở Tây Bắc, tránh cho quân viễn chinh Pháp một thảm họa.

Nhưng vấn đề không dừng lại ở đây. Để làm việc này, Navarre yêu cầu được cấp thêm người và phương tiện. Đến đây, thái độ của cử tọa lại tỏ ra phân vân. Bộ trưởng Tài chính nói thẳng:

- Ngân quỹ không còn một xu nào cho kế hoạch Navarre!

Navarre hỏi lại:

- Nếu vậy thì tôi, Tổng chỉ huy, có nhiệm vụ phải bảo vệ nước Lào trong trường hợp nó bị uy hiếp hay không?

Một câu hỏi không thể trả lời. Về lý lẽ, đương nhiên phải bảo vệ một quốc gia liên kết khi nó bị đe dọa. Trở ngại không thể khắc phục chỉ đơn giản là không thể có tiền để làm việc này. Nhưng người nào trong giới cầm quyền có thể nói ra: Tổng chỉ huy không có nhiệm vụ phải bảo vệ một quốc gia liên kết!

Để chấm dứt sự bế tắc, Navarre yêu cầu chính phủ sau đây cần có một văn bản về vấn đề bảo vệ nước Lào.

Navarre đã chiến thắng trận đầu ngay trên nước Pháp. Nhà cầm quyền Pháp tạm yên lòng vì tình hình Đông Dương theo lời Tổng chỉ huy chưa có gì đe dọa đội quân viễn chinh, mà còn có hy vọng giành thắng lợi, một điều mà từ sau thất bại của De Lattre ở Hòa Bình, không hề được nhắc tới. Từ giành chiến thắng ở Đông Dương lại xuất hiện trên báo chí Pháp cùng với tân Tổng chỉ huy Navarre.

Vấn đề thiết lập một căn cứ lục – không quân ở Điện Biên Phủ để bảo vệ nước Lào cùng với yêu cầu về người và phương tiện để làm việc đó, luôn luôn được Navarre nhắc lại với Chính phủ Pháp. Người ta thấy Navarre làm việc này với một chủ định rõ ràng. Và Navarre đã “chơi rất chặt”. Nhiều lần, Navarre cử Bodet, phó tướng của mình, mang về Pháp cho chính phủ một bản ghi chú mới, trong đó ông vẫn giữ ý định cần thực thi kế hoạch của mình (kế hoạch Navarre) không thay đổi, và yêu cầu nhận được tăng viện. Câu trả lời vẫn là kế hoạch được chuẩn y, nhưng chưa có sự xác định nào về nhiệm vụ bảo vệ nước Lào và tăng viện thì không có.

Ngày 22 tháng 10 năm 1953, nước Pháp ký với Thủ tướng Lào Xuvana Phuma một hiệp ước khẳng định quyền độc lập của Lào trong Liên bang Đông Dương. Việc này cho phép Navarre tin rằng người ta sẽ không thể thoái thác nhiệm vụ bảo vệ nước Lào.

Kế hoạch Navarre đã có những tác động đối với cuộc khủng hoảng ở nước Pháp quanh vấn đề chiến tranh Đông Dương. Nó tạm chấm dứt cuộc tranh luận trong nội các về vấn đề này, giúp cho Chính phủ Laniel đứng vững trong cuộc bỏ phiếu ngày 28 tháng 10. Một bản nhật lệnh gửi cho Tổng chỉ huy Navarre, gồm ba điểm:

1. Phát triển quân đội quốc gia các nước liên kết.

2. Làm tất cả để đi đến một cuộc điều đình cho hòa bình ở châu Á.

3. Hoàn tất nền độc lập với các quốc gia không liên kết trong khối Liên hiệp Pháp.

Không lâu sau đó, ngày 13 tháng 11 năm 1953, Chính phủ Pháp trong cuộc họp Hội đồng Quốc phòng đã quyết định chỉ thị cho Navarre: “ hãy điều chỉnh kế hoạch với những phương tiện hiện có ”. Lần đầu, một chỉ thị bằng giấy tờ được gửi cho Tổng chỉ huy, xác đinh: mục tiêu nước Pháp đang theo đuổi tại Đông Dương là “đẩy địch thủ tới chỗ nhận ra họ không có khả năng giành một thắng lợi về quân sự”. Như vậy cũng có nghĩa là do không được cung cấp những yêu cầu về người và phương tiện cho Đông Dương, Navarre không có nhiệm vụ phải giành một chiến thắng quyết định về mặt quân sự, cũng có thể hiểu là Navarre được giải tỏa nhiệm vụ bảo vệ nước Lào trong trường hợp quốc gia này bị tiến công. Như vậy, chỉ một thời gian ngắn sau khi thông qua kế hoạch Navarre nhằm giành chiến thắng trong vòng 18 tháng, với bản chỉ thị này, chính nhà cầm quyền Pháp đã bác bỏ kế hoạch. Nhưng nếu bác bỏ kế hoạch này thì Tổng chỉ huy phải làm gì? Không một ai quan tâm tới điều đó. Bản chỉ thị này đã được những người cầm quyền viện dẫn tối đa sau này để lên án Navarre đã làm trái chỉ thị của chính phủ dẫn đến thảm bại ở Điện Biên Phủ. Người ta có thể hỏi các vị trong nội các, trong hội đồng chiến tranh, trong hội đồng liên bộ của nước Pháp, đã chỉ đạo điều gì trong Đông – Xuân 1953 – 1954. Các vị vẫn có thể trả lời: “Sự chỉ đạo của Chính phủ đã chẳng thống nhất từ đầu đến cuối đó ư? Đẩy địch thủ tới chỗ nhận ra họ không có khả năng giành một thắng lợi về quân sự”!

Nhưng không biết vì lý do nào, chỉ thị này chỉ tới tay Navarre vào ngày 4 tháng 12 năm 1953, khi ông ta đã ném những lực lượng tinh nhuệ nhất của quân viễn chinh xuống Điện Biên Phủ, và đã ra quyết định “chấp nhận chiến đấu” ở đây.

❖ 3 ❖

Ngày 2 tháng 11 năm 1953, Navarre gửi một bản chỉ thị định hướng đặc biệt cho tướng Cogny, tư lệnh Bắc Bộ, phải bố trí ở Điện Biên Phủ một lực lượng mạnh để che chở cho Thượng Lào và Lai Châu, nắm lấy số lúa gạo trên cánh đồng Mường Thanh, nhằm ngăn cản đối phương một thời gian dài không thể tiêu diệt đồn binh này.

Cogny, hồi tháng 6 đã khuyên Navarre nên chiếm Điện Biên Phủ, lúc này lại không đồng tình với chủ trương của Tổng chỉ huy. Vì y đã biết cuộc hành binh Atlante đánh chiếm những tỉnh tự do Liên khu 5 của Navarre sẽ lấy đi của mình ở đồng bằng nhiều tiểu đoàn, không muốn mất thêm một số tiểu đoàn nữa vào Điện Biên Phủ, trong khi bốn đại đoàn chủ lực của đối phương vẫn chưa rời những cửa ngõ chung quanh đồng bằng. Để tránh va chạm với Tổng chỉ huy, và không muốn bị coi là người vô kỷ luật, Cogny chỉ thị cho cơ quan tham mưu Bắc Bộ, dưới quyền chỉ huy của mình, đứng từ góc độ công tác chuyên môn của từng người, góp ý với bản chỉ thị.

Phiếu đề ngày 4 tháng 11 của đại tá Bastiani, tham mưu trưởng lực lượng trên bộ Bắc Việt Nam, viết: “Chỉ thị định hướng đặc biệt của Tổng chỉ huy về việc đánh chiếm Điện Biên Phủ đã được nghiên cứu kỹ lưỡng sáng nay với các trung tá Denef và Multrier, các thiếu ta Levain, Fournier và Spangenberger. Tất cả chúng tôi đều thống nhất về những kết luận theo phiếu đính kèm coi như sự trả lời Tổng chỉ huy, nếu đó cũng là quan điểm của tướng tư lệnh lực lượng trên bộ Bắc Việt Nam.

Về phần tôi:

I. Tôi không tin là việc chiếm đóng Điện Biên Phủ có thể cứu Lai Châu khỏi thất thủ nếu người Việt thực sự có ý định tiêu diệt Vùng tác chiến Tây Bắc (2) .

II. …Tôi không thể coi việc chiếm đóng Điện Biên Phủ là một biện pháp chuẩn bị để bảo vệ nước Lào mà hiện nay chưa có gì đe dọa…Hơn thế, ở đất nước này, không thể ngăn chặn một hướng đi. Đó là một khái niệm châu Âu không có giá trị gì ở đây. Người Việt đi khắp nơi. Ta thấy rõ điều đó ở đồng bằng.

Số gạo dư thừa ở Điện Biên Phủ chỉ cho phép một đại đoàn sống trong ba tháng. Nó chỉ cung cấp được một phần cho một chiến dịch ở Lào.

III. Tôi tin chắc rằng với Điện Biên Phủ, người ta dù muốn hay không muốn, sẽ là một vực thẳm nuốt các tiểu đoàn. (…) Những hậu quả của một quyết định như vậy sẽ có thể rất nghiêm trọng.”

Đính kèm là phiếu của trung tá Denef, phó phòng tác chiến, trung tá Multrier, phó phòng hậu cần minh họa thêm cho những điều tham mưu trưởng đã viết. Tất cả đều phản đối chủ trương của Tổng chỉ huy, với những lý lẽ cụ thể, và những lý lẽ chặt chẽ.

Qua những tờ trình này, có thể thấy trong đội quân viễn chinh Pháp không phải chỉ có sự phục tùng. Những sĩ quan cấp dưới khi được cấp trên hỏi, đã không nề hà khi trình bày ý kiến của mình. Nhưng cũng nên chú ý trong trường hợp này, họ là những người nằm dưới quyền điều khiển thực tiếp của Cogny, và họ đã nắm được ý kiến của tư lệnh Bắc Bộ.

Cogny chuyển tất cả những phiếu này cho Tổng chỉ huy. Những ý kiến này tới Navarre ngày mồng 6 tháng 11. Navarre không chau mày khi đọc những tờ trình, kể cả những lời lẽ gay gắt, thiếu sự tôn trọng đối với thượng cấp.

Ngày 11 tháng 11, đại tá Nicot, chỉ huy lực lượng không quân vận tải của quân đội viễn chinh, được lệnh tập trung các máy bay. Nicot không phải là người không dám cãi, báo cáo lực lượng của mình còn chưa sẵn sàng để tiếp tế thường xuyên cho Điện Biên Phủ, và thời tiết ở Tây Bắc hiện nay không phù hợp với điều kiện kỹ thuật của không quân.

Ngày 17 tháng 11 năm 1953, Navarre từ Sài Gòn ra Hà Nội cùng với Marc Jacket, Bộ trưởng chịu trách nhiệm về điều hành chiến tranh, và Maurice Dejean, Cao ủy, và thủ tướng ngụy quyền Nguyễn Văn Tâm.

Tất cả những nhân vật dân sự, kể cả Bộ trưởng các quốc gia liên kết Marc Jacket và Cao ủy Maurice Dejean, đều không được có mặt tại cuộc họp lần cuối về cuộc hành binh với mật danh Castro đánh chiếm Điện Biên Phủ. Sự tín nhiệm của Chính phủ Pháp dành cho Navarre mỗi lúc một tăng, đã khiến Navarre bất chấp cả cao ủy trong một quyết định quan trọng.

Trước cuộc họp, Navarre gặp riêng tướng Cogny. Cogny chỉ nhắc lại những lập luận của cơ quan tham mưu Bắc Bộ. Trong giờ phút này, Cogny làm như vậy là chọc gậy bánh xe. Navarre gật đầu, coi như mình đã biết những ý kiến này, và cũng không yêu cầu Cogny phải nói ra ý kiến của riêng mình.

Bắt đầu vào cuộc họp, Navarre hỏi các tướng Gilles, Dechaux, Masson, những người trực tiếp thi hành nhiệm vụ đánh chiếm Điện Biên Phủ còn điều gì vướng mắc đối với cuộc hành binh Castro. Tất cả đều viện những lý do chiến thuật và kỹ thuật, trả lời nên bãi bỏ cuộc hành binh vì có tin thêm là trung đoàn độc lập 148 hiện đang có mặt ở Điện Biên Phủ. Gilles cho rằng không nên đánh chiếm Điện Biên Phủ bằng nhảy dù mà phải tiến hành cuộc tiến công từ nhiều hướng. Tướng Dechaux, tư lệnh không quân Bắc Bộ, đặc biệt lưu ý những khó khăn về bảo đảm tiếp tế cho Điện Biên Phủ, vì thời tiết thất thường ở Tây Bắc Việt Nam trong mùa đông.

Navarre ngồi lắng nghe một cách lịch sự với nụ cười trên môi. Nụ cười khiến những người phát biểu tưởng như ý kiến của mình được sự đồng tình của Tổng chỉ huy. Những người phản đối cuộc hành binh, chờ nghe ý kiến của Cogny. Castro trước hết đụng tới Cogny. Nhưng thái độ “rộng lượng” của Navarre trước cuộc họp đã khiến Cogny im lặng. Tất cả những quyết định của Navarre từ khi sang Đông Dương đều xuất hiện rất nhanh chóng và dứt khoát, Cogny nhiều lần thực thi mà không hiểu rõ hết ý nghĩa của những mệnh lệnh mà mình đang thi hành. Người cầm quân ở cấp chiến lược, không thể nói rõ những suy tính của mình với cấp dưới. Và hình như Navarre chưa một lần chứng tỏ mình sai lầm. Chiến trường Đông Dương im lìm trong thời gian Salan đã trở nên sống động với Navarre. Và Cogny chưa quên những ân huệ Navarre đã mang lại cho riêng mình.

Cuối cùng, Navarre nói:

- Có những ý kiến phản đối cuộc hành binh này, sự lo lắng chủ yếu của các ngài là ba tiểu đoàn địch hiện có mặt ở Điện Biên Phủ. Tôi vẫn giữ quyết định vì những lý do mà các ngài đã biết.

Thái độ kiên định của Tổng chỉ huy đã truyền sức mạnh cho họ. Tướng Gilles, người chỉ huy quân dù, cũng là người đã chỉ huy tập đoàn cứ điểm Nà Sản, bật đứng dậy hứa quả quyết:

- Mọi việc sẽ được thực hiện để giành thắng lợi cho cuộc hành binh.

Trong các ngày 20, 21, 22 tháng Mười Một năm 1953, 6 tiểu đoàn dù được ném xuống Điện Biên Phủ. Và Gilles đã làm đúng lời hứa.

Những điều viết trên đây dựa vào những tài liệu phương Tây, đặc biệt là phần phụ lục chứa đựng nhiều tư liệu gốc rất quan trọng liên quan đến cuộc hành binh Castro trong cuốn “La Bataille de Dien Bien Phu” của Jules Roy, được xuất bản lần đầu tại Pháp năm 1963 (cuốn sách được tái bản gần đây không có phần phụ lục này). Tất cả những tư liệu đó hoàn toàn không liên quan đến một cuộc chuyển quân của đại đoàn 316 lên Tây Bắc.

Nhưng điều lạ lùng là cũng chính trong phần tư liệu các sự kiện của chiến dịch Điện Biên Phủ được dẫn theo trình tự ngày tháng, Jules Roy đã viết ở trang 399.

“Cuối tháng Mười [năm 1953]

Giáp ném đại đoàn 316 về hướng Lai Châu (3) ”.

Hình như nguồn tin tình báo duy nhất của Pháp lúc đó, là “ba tiểu đoàn của trung đoàn 147 đang có mặt ở Điện Biên Phủ”, vốn cũng là tin thất thiệt.

Yves Gras, tác giả cuốn “Lịch sử chiến tranh Đông Dương” , một cuốn sách có giá trị về đề tài lịch sử này, tái bản năm 1979, còn viết rất cụ thể: “Bộ tham mưu Pháp đã phát hiện từ đầu tháng 11 những cuộc chuẩn bị cho một hành động tức thời vào Lai Châu và những lực lượng biệt kích ở lân cận. Họ biết đại đoàn 316, đóng quân tại nam Hòa Bình, bắt đầu từ ngày 15 tháng 11 sẽ tiến lên xứ Thái, tại đó đã có một trung đoàn của họ là trung đoàn 176. Dự tính giữa ngày 7 và 11 tháng Mười Hai, đại đoàn sẽ tới Tuần Giáo. (…) Ngày 2 tháng Mười Một, Navarre đã ra lệnh cho Cogny chuẩn bị đánh chiếm Điện Biên Phủ bằng một cuộc hành binh không vận…” (4)

Trước ngày 2 tháng 11, kế hoạch Đông – Xuân của ta còn chưa được triển khai, tất cả các chiến trường, các đại đoàn chủ lực vẫn còn nằm im đợi lệnh. Trong thực tế, không có cả cuộc hành quân của đại đoàn 316 vượt sông Đà ngày 15 tháng 11, mà chỉ là sự di chuyển của cơ quan chỉ huy đại đoàn 316 và trung đoàn 174, đại bộ phận của đại đoàn, gồm hai trung đoàn, chưa hề rời khỏi chiến trường Tây Bắc từ sau chiến dịch Thượng Lào năm 1952. Và ngay cả lúc này vào thời điểm quân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, ta cũng chưa hề có ý định đưa nhiều đại đoàn lên Tây Bắc.

Qua những điều trên đây, có thể thấy rõ đã có sự lầm lẫn trong những người viết sử ở ta cũng như ở phương Tây trong suốt 50 năm qua.

Việc chiếm đóng Điện Biên Phủ tuy không hiện diện thành câu chữ trong kế hoạch Navarre, nhưng là điều mà Navarre đã nghiền ngẫm một cách sâu sắc. Từ “Điện Biên Phủ” đã xuất hiện ngay khi Navarre trình bày kế hoạch Navarre trước Hội đồng Chính phủ Pháp ngày 24 tháng 7 năm 1953. Trong cuộc họp này người ta còn tranh cãi không ít về nó.

Việc Navarre cho quân nhảy dù đánh chiếm Điện Biên Phủ không liên quan gì tới việc chuyển quân của đại đoàn 316 lên Tây Bắc, mà đã được Tổng chỉ huy quyết định từ ngày 2 tháng 11 năm 1953, trong bản chỉ thị định hướng đặc biệt Navarre gửi cho tướng Cogny, tư lệnh Bắc Bộ.

Ta sẽ có dịp trở lại câu hỏi lớn này để tìm hiểu vì sao lại có sự lầm lẫn kéo dài này.

Chú thích:

1. Chỉ lực lượng binh lính người Thái được tổ chức trong cái gọi là Binh đoàn không vận hỗn hợp (GCMA).

2. Zone Opérationnel Nord Ouest (Z.O.N.O).

3. Nguyên văn tiếng Pháp: “Fin octobre, Giap lance la pision 316 en direction de Lai Chau” Jule Roy, La bataille Dien Bien Phu. Tr. 399.

4. Histoire de la guerre d’Indochine. Plon, 1979. Tr. 520.