← Quay lại trang sách

Chương XVI TIẾNG HÁT

1

Cuộc hành quân chiến dịch năm 1953-1954 rất khác so với những cuộc hành quân ra mặt trận mà tôi đã biết trong chiến tranh.

Mùa hè năm đó, bộ đội học về cuộc phát động quần chúng tiến hành cải cách ruộng đất. Cán bộ, chiến sĩ trong quân đội hầu hết là nông dân. Số đông là cán bộ đảng viên Đảng Lao động Việt Nam (1) , nhưng lần đầu họ biết là mình còn chưa tiến hành một nhiệm vụ quan trọng mà những cuộc cách mạng tư sản cũng đã làm, là xóa bỏ chế độ phong kiến, mang lại ruộng đất cho nông dân, tức là cho chính mình.

Những buổi học tập chính trị đều có phần liên hệ với thực tế. Anh em chiến sĩ ở nông thôn kể về những nỗi khổ gia đình trước ngày vào bộ đội. Những chuyện mà người ngồi nghe đều ứa nước mắt. Những cán bộ sinh ra ở thành phố chợt hiểu là mình còn rất ít hiểu đồng đội, đồng chí của mình. Từ những câu chuyện nghe được, mỗi ngày tôi làm một bài thơ đọc tại lớp học. Nhà văn Nguyễn Đình Thi mới tong quân, cũng có mặt trong các buổi học tập. Anh sống ở thành phố, đã tham gia hội văn hóa cứu quốc , tức là hoạt động cách mạng từ thời kỳ bí mật trước Tổng khởi nghĩa, ngồi nghe cũng xúc động như chúng tôi. Từ những chuyện bộ đội kể khổ, anh đã viết thành một tập thơ gửi về Hội Văn Nghệ. Nhà phê bình Hoài Thanh, khi đó trực tại cơ quan hội, khen hay và khuyên anh: “nên them cho tập thơ một tên người, một quê hương”. Sau đó, tập thơ được sửa lại và in ra với tên :”Mẹ con đồng chí Chanh”. Có buổi cùng ngồi liên hệ học tập, anh Thi nói: “Mình sinh ra và lớn lên ở thành phố biết rất ít về đời sống của nông dân, giờ nghĩ lại thấy ân hận, vì gia đình hồi trước có thuê người ở đã đối xử với họ không được tử tế, đây chính là những người nông dân bị bóc lột không còn nguồn sống bị đẩy ra thành thị”.

Qua học tập, tình đoàn kết trong đơn vị tăng lên. Trong chiến dịch Thượng Lào, chúng tôi giải phóng được rất nhiều người dân ở các làng quê Việt Nam bị Pháp bắt đưa sang Lào làm phu khuân vác, một số người trở về quê cũ, một số người xin ở lại bộ đội làm cấp dưỡng, vận tải. Những chiến sĩ này trước đó bị một số anh em xem thường. Từ sau học tập cải cách ruộng đất, các anh được mọi người yêu thương. Ruộng đất là ước mơ ngàn đời của dân cày. Nhiều người lúc này mới thấy mình đi chiến đấu giành độc lập cho Tổ quốc, cũng là để mang lại ruộng đất cho gia đình. Họ tự nhủ phải xứng đáng với những gì cách mạng đã mang lại, xứng đáng với sự tin yêu của Đảng, của đồng đội. Cán bộ xuất than là học sinh, ân hận đã xem thường chiến sĩ, vì trình độ văn hóa, hiểu biết kém, bây giờ mới nhận ra chính họ là người làm nên những chiên công của đơn vị. Mỗi người đều mong chiến dịch sắp tới, phải sửa chữa những khuyết điểm, chăm sóc đến cuộc sống của chiến sĩ nhiều hơn, tạo điều kiện cho họ lập công, tránh được thương vong không đáng có, và bản thân mình phải làm gương trong chiến đấu.

Việc thực hiện Cải cách ruộng đất sau này đã phạm phải những sai lầm khá nặng nề, nhưng cuộc học tập trong bộ đội năm đó đã mang lại một sức mạnh cực kỳ to lớn cho những đoàn quân trên đường đi chiến dịch. Ai ai cũng khát khao cháy bỏng lập công. Đó là sức mạnh mới kết tất cả những đoàn quân ra trận thành một khố rắn chắc không gì lay chuyển được trước khi vào trận đánh.

2

Mùa xuân năm đó, vì lần này tác chiến trên chiến trường xa, vấn đề tiếp tế cực kỳ khó khăn, theo quy định của đại đoàn, số người không trực tiếp chiến đấu ra mặt trận rất hạn chế. Trước chiến dịch, phần lớn cán bộ biên tập, phóng viên trong tòa soạn được điều xuống đơn vị chiến đấu hoặc đơn vị cung cấp, mình tôi đi với một tổ ấn loát ra mặt trận.

Vừa qua sông Hồng, tôi bị ngợp vì những đoàn xe kéo pháo, những dòng người bộ đội và dân công mang vác nặng đi ào ạt trên con đường chẳng biết được sửa chữa lúc nào, màu đất đỏ tinh khôi hiện lên trước ánh đèn pha.

Tôi đang đi thì có người vỗ vai. Quay lại thấy Trần Dần, vẫn mặc chiếc blouson bằng vải kaki và đeo một chiếc balô khá nhẹ. Dần ở Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị, cũng trên đường hành quân ra mặt trận, nhưng thường tách khỏi đoàn xuống với bộ đội tìm tài liệu. Dần nhận ra 308 đang hành quân và đi tìm tôi.

Trong những tờ báo gửi tới tòa soạn trao đổi, có tờ Văn nghệ Sơn La , cũng in đá, nhưng trình bày rất đẹp. Tôi đọc trong đó bài thơ đầu tiên không vần, viết theo kiểu bậc thang, và chú ý đến cái tên tác giả: Trần Dần. Trần Dần đã là nhà văn chuyên nghiệp trước chúng tôi. Anh là người trong nhóm thi sĩ tượng trưng Dạ Đài . Trần Dần là một trong ba người thảo bản tuyên ngôn của phái Tượng trưng. Không ít người đã ngạc nhiên khi đọc những câu:

“Chúng tôi – một đoàn thể thất thổ - đã đầu thai nhằm lúc sao mờ.

Cho nên buổi chúng tôi xuất hiện, chúng tôi để cho tàn suy giấc mơ của những người thuở trước.

…chúng tôi – thi sĩ trượng trưng – chúng tôi cố đánh thức cái thế giới im lìm đang nằm ngủ ở trong lòng nhân loại. Chúng tôi cố thực hiện một cuộc trở về, chúng tôi cố trở lại cái chúng tôi với tấm lòng khi đất trời khai lập.

Người ta đã tìm mãi Đạo Lý ở đường lên: ghìm giữ bản năng kham khổ- nhục hình. Chúng ta sẽ tìm đạo lý ở con đường xuống: thả lỏng thiên năng đam mê và khoái lạc. Những triết nhân đã chẳng kêu gọi sự quay lại đó ư? Và những phong trào xã hội? Chúng ta chẳng nhận thấy rằng người ta đương gắng sức trả lại con người cái trinh bạch đầu tiên, trả lại con người cỏ cây huyền mặc, sông núi hoang sơ? Chúng ta hãy trở về cái bản năng mà thế tình che đậy. Hãy mơ những giấc mơ cầm thú. Hãy gợi lên những cõi sống âm thầm. Hãy đánh thức hư không, nghĩa là cả tấm lòng xưa man rợ…” ( 2)

Bản tuyên ngôn này xuất hiện trên tạp trí Dạ Đài một tháng trước khi nổ ra kháng chiến toàn quốc. Không hiểu điều kỳ diệu nào đã đưa Trần Dần vào quân đội kháng chiến. Tôi tò mò chờ đợi từng số báo Văn nghệ Sơn La. Rồi nghe nói những người làm tờ báo này đang muốn xây dựng một “nền văng nghệ Sơn La” . Một số nhà văng chuyên nghiệp đang muốn đoạn tuyệt với những suy nghĩ, tình cảm và cách viết trong quá khứ để đi vào quần chúng, vào cuộc sống mới, tỏ ra không thích tờ báo này.

Tôi gặp Trần Dần lần đầu trên đường đi chiến dịch Sông Thao ở Liên khu 10, năm 1949. Dần đi tìm chúng tôi, tự giới thiệu được phân công phụ trách tờ báo của Mặt trận, và đề nghị chúng tôi viết bài cho báo. Anh còn yêu cầu chúng tôi cố gắng ghi lại những con người và quang cảnh trận đánh bằng ký họa, nhìn thấy thế nào vẽ như thế ấy, anh sẽ sửa lại giúp.

Điều làm tôi ngạc nhiên là thái độ của Dần rất khiêm tốn, dễ thương. Dọc đường, Dần nói chuyện rất say sưa. Anh kịch liệt phản đối bài thơ “Mê quần chúng” đăng trên báo Văn Nghệ của Hội. Anh nói: “Qúa cũ. Không thể yêu quần chúng theo kiểu yêu ‘xác thịt’ , không phải là kiểu yêu của những người cách mạng”. Dần giải thích về cách làm thơ không vần của mình: “Thơ bao giờ cũng có vần, vần trong những bài thơ của mình là rythme interne (vần bên trong)”. Dần cho tôi đọc một số bài thơ bằng chứ Pháp của Maiacốpxki chép trong sổ tay. Những bài thơ: “Lênin, Quay trái, Đám mây mặc quần…” trong đó đều biết theo kiểu bậc thang và không có vần.

Cùng đi với chúng tôi, có Xuân Huy, một học sinh người Huế, mới về làm việc tại tòa soạn. Huy ra Bắc sau Cách mạng tháng Tám vì có một người thầy dạy học cũ tham gia bộ máy chính phủ gọi ra, nhưng chỉ một thời gian ở với ông thì anh chán, xin vào bộ đội rồi tìm đến chỗ chúng tôi. Huy bám chặt lấy Trần Dần. Dần tâm sự với Huy là mỗi người lúc này đều cần tự thay đổi, nếu không cuộc sống sẽ vượt qua. Trong con người có lý trí và tình cảm. Lý trí phải sang suốt, tình cảm phải lành mạnh. Lý có lý trí và tình cảm. Lý trí phải sang suốt, tình cảm phải lành mạnh. Lý trí phải chỉ huy tình cảm. Mỗi con người đều có phần “người” và phần “vật”. Con người phải là một “con vật khôn ngoan”.

Chúng tôi biết Dần cũng là Đảng viên. Và Dần là một Đảng viên rất tích cực nếu so với chúng tôi. Dần thấy Huy là một sinh viên, còn là một quần chúng, rất lơ mơ về nhiều vấn đề và muốn giúp đỡ Huy. Không biết Dần nói với Huy những gì, nhưng sau đó, trong một trận công đồn, Huy đã xin một chiếc mác xung kích và cùng đi với bộ đội khi xung phong. Huy chưa có một ngày tập quân sự. Cũng may trận đó, Huy chỉ bị thương nhé. Sau chiến dịch, Huy được kết nạp Đảng.

Dần đưa tôi xem một bức thư anh định gửi cho Nguyễn Đình Thi. Theo anh nói: “Ở Hội Văn nghệ, Thi là chơi được”. Chúng tôi biết hầu hết những nhà văn ở Hội Văn nghệ Việt Nam đều đang trăn trở “nhận đường”. Kể cả những người như Nam Cao cũng rất khó viết.

Đầu năm 1951, Tổng cục Chính trị mở một lớp chính trị ngắn ngày tại Thái Nguyên, do các cố vấn Trung Quốc giảng, gọi là lớp luân huấn. Tôi lại gặp Trần Dần. Tôi thấy mình thu thập được nhiều vấn đề mới. Nhưng Trần Dần nói là anh thất vọng, vì anh tưởng đây sẽ là một lớp về “phương pháp tư tưởng”, nhưng chỉ là lớp chính trị.

Chiến dịch Hòa Bình, tôi gặp lại Trần Dần. Anh tâm sự với tôi mình đang yêu. Người anh yêu là một cô diễn viên đoàn kịch quân đội. Anh kể không ít người thích cô này. Có cán bộ đơn vị, nhà báo, nhà văn, họa sĩ. Nhưng anh cho rằng tất cả đều không hợp với cô, “các cậu đó thì được mấy lạng tình yêu!”. Anh tin là mình có một tình yêu thực sự, tình yêu lớn có thể mang lại hạnh phúc cho cô.

Lần gặp này có một chuyện tuy nhỏ, nhưng tôi không quên về Trần Dần. Bữa đó, Chinh Yên bỗng tới chỗ chúng tôi. Chinh Yên là phóng viên báo Nhân dân . Thái Duy và Chinh Yên là hai phóng viên tôi thường gặp trong các chiến dịch. Chinh Yên xuống tòa soạn đúng bữa cơm. Mọi người rủ Chinh Yên cùng ăn. Đang ăn, Chinh Yên hồn nhiên nói với Trần Dần: “Hôm nọ mình ở với ban chỉ huy trung đoàn, ăn theo chế độ trung táo, ngon lắm!”. Chinh Yên bảo Trần Dần: “Lần sau, cậu lên trung đoàn mà ở!” Sau ngày sang Trung Quốc, chế độ cấp dưỡng trong quân đội có sự thay đổi. Cán bộ sơ cấp và bộ đội ăn theo chế độ “đại táo” (bếp lớn). Cán bộ tiểu đoàn trở lên ăn theo chế độ “trung táo” (bếp vừa). Chế độ “tiểu táo” (bếp nhỏ) là cao nhất. Tòa soạn chúng tôi ăn theo chế độ “bếp lớn”. Dần nghiêm mặt nói: “Trung táo là chế độ, không phải là hàng!” Trần Dần lúc nào cũng suy nghĩ nghiêm chỉnh, và “nguyên tắc” khác với nhiều anh em chúng tôi…

Tôi hỏi Trần Dần, chuyện yêu đương đã đến đâu. Anh lắc đầu, rồi nói: “Mình quên rồi… Bây giờ đang còn nhiều chuyện khác”. Mỗi chặng dừng chân dọc đường, Dần giở sổ tay và bấm đèn pin, đọc cho tôi nghe những ghi chép. Tôi thấy đây không còn là ghi chép, mà những đoạn văn khắc họa hình ảnh những chiến sĩ nông dân mà anh đã gặp trong học tập chỉnh huấn vừa qua. Anh viết rất mộc mạc, “hạt lúa củ khoai” không còn đánh đố người đọc như một bài thơ trước đây. Dần cũng như anh em chúng tôi thời đó đã bị “quần chúng” chinh phục.

Qua Dần, tôi biết Đông-Xuân này không chỉ có các đại đoàn chủ lực của Bộ, những đơn vị dân công nhiều tỉnh miền Bắc, mà hầu hết binh chủng văn hóa văn nghệ cũng được huy động cho mặt trận. Ngoài đoàn ca múa, đoàn kịch, đoàn văn công mới đi dự liên hoan ở Bucaret về, đội văn công đại đoàn, mà nhiều văn nghệ sĩ của Hội Văn Nghệ, và cả một lớp họa kháng chiến do chính họa sĩ Tô Ngọc Vân (3) dẫn đầu cũng lên đường ra mặt trận.

Tôi nói:

- Chiến dịch này ở tòa soạn chỉ còn mình mình. Hồ Phương xuống tiểu đoàn phòng không của đại đoàn từ chiến dịch Thượng Lào. Hoài An, Mai Hanh, Lý Đăng Cao… đi với các đơn vị Cung cấp và dân công.

Dần hỏi:

- Gặp Chính Hữu chưa?

Chính Hữu vốn là người của đại đoàn, đã chiến đấu ở Liên khu 1 Hà Nội năm 1946, rồi là trưởng ban chính trị của trung đoàn Thủ đô, mấy năm qua được điều lên Ban phụ trách Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị, trước chiến dịch đã xin xuống đơn vị. Anh trở lại đại đoàn, về làm chính trị viên phó ở một tiểu đoàn. Chính Hữu không phải là người đầu tiên ở đơn vị văn công xin xuống đơn vị chiến đấu. Trước anh, có Lương Ngọc Trác. Lương Ngọc Trác vốn là một cán bộ Trung đoàn Thủ đô đã chiến đấu tại mặt trận Hà Nội và có những bài hát nổi tiếng. Anh chơi phong cầm khá và hát hay. Anh không chỉ sang tác nhạc và còn muốn đem lời ca phục vụ bộ đội. Nhưng rồi ngoài các cuộc hội nghị, liên hoan, người ta mời anh đến phục vụ cả những cuộc họp nhỏ của ban chỉ huy trung đoàn. Chuyện này thành quen. Có cả những bữa cơm tiếp khách cấp trên, người ta cũng mời anh tới hát mua vui. Trác kiên quyết xin ra đơn vị chiến đấu để vừa được trực tiếp chiến đấu, vừa được phục vụ các chiến sĩ bằng lời ca của mình…

- Gặp rồi.

- Mình không hiểu tại sao Chính Hữu nhất định đòi xuống đơn vị.

- Chính Hữu nói với mình là muốn làm một số bài thơ trong đó “cái tôi” là một chiến sĩ cầm súng.

- Chính Hữu nghĩ thế vì cậu ấy làm thơ. Viết văn xuôi thì không thể ở một chỗ.

Chúng tôi trao đổi với nhau về một thế hệ mới xuất hiện trong chiến dịch này. Đó là lớp thanh niên vừa rời ghế nhà trường. Nhiều người còn ở tuổi thiếu niên. Trường học của họ náu mình trong rừng cọ. Những gương chiến đấu hàng ngày từ mặt trân dội về. Nhiều học sinh đã mơ ước được trở thành những người anh hùng mà họ thường ngưỡng mộ. Từ khi có lệnh chuẩn bị tổng phản công, nhiều học sinh đã rời mái trường vào bộ đội. Trước mùa khô này lại có một đợt động viên thanh niên tòng quân. Nhiều học sinh rời nhà trường. Những học sinh này được đưa vào các binh chủng kỹ thuật mới xây dựng, đặc biệt là những đơn vị lựu pháo và pháo cao xạ. Nhưng có nhiều học sinh thích vào các đơn vị bộ binh để trở thành những người trực tiếp cầm súng chiến đấu. Những học sinh này khác với những cựu binh là nông dân, là học sinh thành phố. Họ vẫn có cái chân chất của những con em của người dân lao động nhưng lại có thêm sự hiểu biết về văn hóa, về chế độ mới, con người mới. Trong số học sinh này, có một số được đào tạo trong những trường thiếu sinh quân. Tâm hồn của họ đều rất trong sang và nhiều hoài bão.

Dần nói:

- Chiến dịch này sẽ có nhiều mẫu người, rất nhiều cái hay… Mình nghỉ làm thơ để chuyển sang văn xuôi như cậu.

4

Đêm đó vượt đèo Lũng Lô. Lên tới đỉnh đèo như đi trong mây. Bắt đầu thấy không khí chiến tranh. Ban chiều máy bay địch vừa ném bom. Một số đoạn bị sạt lở. Công binh đang khoét sâu vào thành taluy ở một lên để mở rộng đường. Hành quân bộ vượt qua không khó khăn. Nhưng với xe kéo pháo lại là chuyện khác. Chúng tôi dừng lại xem một vệt bánh xe kề bên mép đường. Nhìn xuống vực sâu đen ngòm rợn người. Chiếc xe sẽ ra sao nếu người lái chệch tay lái trong tơ tóc, nếu đất sạt lở tiếp…

Bỗng nghe giọng hò trong trẻo:

Đèo cao thì mặc đèo cao

Tinh thần khắc phục còn cao hơn đèo…

Những cô gái dân công đã có mặt ở đây trước chúng tôi.

Trần Dần lắng nghe rồi nói:

- Bữa trước mình nghe ở Đèo Thùng, chiến dịch Hoàng Hoa Thám, là “Đèo cao thì mặc đèo cao, Ta leo lên đỉnh ta cao hơn đèo” cơ mà! Chính trị viên nào lại sửa thế này…?

Bộ đội mặc quân trang mới, ba lô, bao gạo, súng đạn đầy người, chân bước rầm rập, tiếng lá ngụy trang cọ vào nhau rào rào. Dân công vùng xuôi, vì số đông trai tráng đã vào bộ đội, nên phần lớn là phụ nữ, quang gánh nặng trĩu, đôi chân trần thoăn thoắt, như không ai muốn bị tụt lại sau. Lên đường vào mùa đông, nhưng rất ít người có được tấm áo ấm. Và những chiếc xe thồ. Mỗi chiếc xe đã được trang bị thêm một ngọn đèn dầu để tránh ổ gà. Các anh lái xe thồ đang đấu nhau hai người, ba người để đẩy chiếc xe chở nặng căng tròn lên dốc.

Chỉ từ chiến dịch Tây Bắc cuối năm 1952, loại hình vận chuyển này mới xuất hiện. Không biết ai là người đầu tiên đã cải tạo chiếc xe đạp nhỏ nhẹ thành một phương tiện vận tải chở được hai, ba tạ gạo, len lỏi vượt qua mọi đoạn đường. Chủ xe phần lớn sống tại các thị trấn, làm nghề vận chuyển kiếm ăn. Dọc đường công tác, mỗi lần nghe câu “Nhờ tí anh ơi!”, với giọng điệu bao giờ cũng giống nhau, chúng tôi thường vội ghé vào bên đường để tránh chiếc xe đạp bên trên chất nặng ngũ cốc, có khi là cà phê. Chủ nhân gò lưng đi bên cạnh với đôi tay khuỳnh khuỳnh, một tư thế không bao giờ thay đổi, sử dụng những thanh tre mới được gia cố thêm vào cọc yên và ghi đông vừa giữ thăng bằng cho chiếc xe hai bánh, vừa điều khiển nó tiến về phía trước trên những đoạn đường rất khó đi, như làm xiếc. Đây là những người “làm ăn cá thể” không được mấy tôn trọng trong kháng chiến, được gọi một cách châm biến: “tay ngai”. Nhưng từ chiến dịch Tây Bắc tới nay, cách nhìn của mọi người với chủ nhân những chiếc xe thồ đã đổi khác. Mỗi chiếc xe có sức vận chuyển bằng mười người gánh bộ, nhưng hàng ngày chỉ tiêu thụ một suất lương thực. Quân đội đi vào đánh tập trung yêu cầu cung cấp ngày càng lớn, đã không thể thiếu họ. Trên đường ra trận không còn nghe những tiếng năn nỉ “nhờ tí anh ơi” của các bác xe thồ, bộ đội đã chủ động nhường đường cho họ. Binh chủng xe thồ cần đến sức khỏe và sự dẻo dai rất cao, không bao giờ có phụ nữ. Người lái xe thồ hầu hết ở tuổi trung niên, có gia đình. Họ đã đưa chiếc xe, tài sản duy nhất của họ, nguồn sống chủ yểu của cả gia đình, để phục vụ cho việc vận chuyển lương thực tại mặt trận.

Bỗng một giọng hò xứ Nghệ trầm ấm vang lên:

“Người Khu Bốn, chốn Khu Tư, ra đây tôi hò, giọng hò Khu Bốn…”.

Câu hò vang lên đĩnh đạc như một lời tự giới thiệu đầy tự hào. Những anh bộ đội đang hành quân đều lắng tai nghe, và lập tức phụ họa:

“A li hò lờ… A li hò lờ…”

Tiếng hò phát ra từ chỗ có một nhóm lái xe thồ sau khi vượt một đoạn dốc đang chụm đầu chia nhau điếu thuốc lào…

Ngày hôm sau, lợi dụng dọc đường có nhiều cây cối, bộ đội hành quân khi trời còn sáng. Càng ra gần mặt trận, mọi người càng thấy phấn trấn hơn.

Trời tối một lúc, có tiếng máy bay, vùng trời phía trước xuất hiện một quầng sáng xanh và những loạt bom nổ rền rền. Chúng tôi tiếp tục tiến nhanh. Vùng sáng xanh và tiếng nổ từng lúc biến đi trả lại màu đen và sự yên tĩnh cho trời sao, rồi xuất hiện trở lại mỗi lúc một gần với tiếng nổ dữ dội hơn, có lúc tưởng như chân trời phía trước đang vỡ ra. Chúng tôi đã qua lại đường này, biết mình đang đi về ngã ba Cò Nòi, một cửa ải trên đường hành quân. Không khí mỗi lúc được hâm nóng lên.

Phía trước không còn là vùng sáng xanh mà đã hiện rõ những chiếc đèn dù. Tiếng bom nổ đanh hơn, tiếng vọng của núi rừng to hơn và lúc này đã vây quanh chúng tôi.

Pháo sáng soi rõ đường đi, tốc độ hành quân nhanh hơn. Những ngọn đèn dù xanh lẹt, như những con mắt ma quái đang nhìn chúng tôi. Có lệnh dừng lại trả máy bay địch bay đi thì giữ vững cự li giãn cách đội hình, tranh thủ vượt thật nhanh qua ngã ba.

Núi đồi ở ngã ba Cò Nòi dưới ánh sao đêm không còn một thân cây, ngọn cỏ, chỉ còn là một vùng đất bị cày xới, với rất nhiều hố bom. Chúng tôi nhận ra đường đi bằng những vệt bánh xe. Mọi người nhắc nhau vượt qua cửa tử này thật nhanh trước khi máy bay địch quay trở lại. Ngã ba vắng lặng, lạnh lẽo như cung trăng. Trong lúc chúng tôi cố gắng đi gần như chạy trên vũng đất nồng mùi khói bom, bỗng vang lên một giọng hò Bắc cao vút:

Cả đoàn em chẳng yêu ai

Yêu anh bộ đội gánh hai cái nồi…

Tiếp theo là tiếng cười giòn tan. Thì ra trên vùng đất chết này vẫn có người. Không phải chỉ có cô gái vừa hát mà còn rất nhiều người. Công binh, thanh niên xung phong và dân công, đang ra sức san lấp những hố bom. Trong lúc chúng tôi tìm cách thoát nhanh khỏi vùng đất chết, thì có những người phải bám lấy nó để giữ vững con đường cho những chiếc xe qua.

Tất cả những người có mặt trên đường ra trận đều động viên nhau tiến nhanh về phía trước. Tất cả đều như kết lại thành một trên con đường dài dằng dặc không ngớt tiếng bom đạn, một khối óc, một trái tim. Tất cả đều lao về phía trước như bị cuốn theo một sức hút vô hình không cách nào cưỡng lại. Với những người lính trong kháng chiến, hành quân ra trận bao giờ cũng là những ngày đẹp nhất. Nhưng sẽ không ai quên những đêm hành quân lên Điện Biên Phủ. Hiếm khi cả nước trên đường ra trận. Một tiếng nói, tiếng hát, câu hò cất lên đều giống như một lời chào, một điều nhắn gửi thầm kín, một nụ hôn… Chúng tôi đang đi trong một ngày hội lớn của dân tộc, và tiếc cho những người không có may mắn như mình. Nhiều người chúng tôi hôm nay, có thể không trở về, nhưng vẫn cảm thấy vô cùng hạnh phúc.

Theo yêu cầu của Trần Dần, tôi đưa anh xuống đơn vị tiểu đoàn 29, đi cùng một đại đội. Dần tranh thủ ghi chép. Từ Thuận Châu, Yên Châu, nhân dân các bản ven đường ùa ra xem bộ đội. Anh em vừa đi vừa hát bài Qua miền Tây Bắc được sáng tác chiếc dịch trước. Một số cán bộ hát cả bài “Nhị Lang Sơn” của Giải phóng quân Trung Quốc khi tiến vào Tây Tạng.

Giữa đường, một chiến sĩ Văn công từ Tổng cục xuống phổ biến cho đơn vị một bài hát mới, bài “Thời cơ đến” của Đỗ Nhuận. Dần cho biết nhạc sĩ Đỗ Nhuận đi cùng đoàn Văn công Tổng cục Chính trị, biết các chiến sĩ đều mong về giải phóng đồng bằng, nhưng bây giờ thấy mình đang đi sâu lên rừng núi, Nhuận làm gấp bài hát này, tập trung văng công đang đi cùng các đơn vị về học hát một buổi, rồi quay lại đơn vị dạy cho bộ đội:

“… Mắt sáng quắc, chí căm thù, bảo vệ đồng quê ta tiến bước,

Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi!”

Chúng tôi thầm ghen với các nhạc sĩ. Những người cầm bút muốn làm gì cho bộ đội trên đường đi chiến dịch rất khó.

Dọc đường, có một ngày nghỉ hành quân. Để giải tỏa sự căng thẳng, mệt mỏi sau nhiều ngày đi đường, đại đội tổ chức lửa trại liên hoan. Bộ đội nhất loạt mặc quân phục mới. Cán bộ đại đội xúng xính trong chiếc áo bông dài tay mới được phát trước ngày đi chiến dịch. Từ trước tới nay, áo mùa đông của bộ đội chỉ là chiếc trấn thủ ngắn tay. Đồng chí đại đội phó thọc tay vào hai túi áo, tự ngắm mình rồi nói:

- Nhờ ơn Đảng năm nay tôi có được chiếc áo đẹp!

Tôi và Dần nhìn nhau. Đối với chúng tôi, chiếc áo này đâu có đẹp. Nhưng chúng tôi đã nhận thấy sự thay đổi sâu sắc của người cán bộ khi biết anh không phải chờ lâu, hạnh phúc nay mai sẽ tới với gia đình ở quê hương, ruộng đất là cái mà người nông dân mong mỏi từ bao đời nay.

Đồng bào địa phương kéo đến xem rất đông. Mọi người ồ lên khi thấy những “cô gái” hóa trang bằng những chiếc chăn hoa xuất hiện.

Tôi nhắc lại mấy câu thơ của Quang Dũng:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em, xiêm áo tự bao giờ…

Nhiều người không biết đây là những anh lính trẻ đóng giả con gái.

Dần ghé tai tôi, nói nho nhỏ:

- Đẹp hơn con gái! Những cậu như thế kia hết chiến dịch này có trở về không…?

Những vốn quý nhất đều được tung ra trong trận đánh để giành toàn thắng. Và hơn một lần, chúng tôi thấy mình quá bé nhỏ trong đoàn người vô tận chảy ra tiền tuyến, sẽ chỉ làm được quá ít để góp phần vào chiến thắng sắp tới.

Chú thích:

1. Tên gọi của Đảng Cộng sản Việt Nam từ sau Đại hội lần thứ II.

2. Dưới bản tuyên ngôn này, ký tên ba người: Trần Dần, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch.

3. Họa sĩ Tô Ngọc Vân hy sinh trên đường đi chiến dịch vì máy bay địch.