← Quay lại trang sách

Chương XVII KÉO PHÁO VÀO, KÉO PHÁO RA
❖ 1 ❖

Những ngày đầu tháng 1 năm 1954, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp lên đường ra mặt trận. Chiếc xe jeep duy nhất, được ngụy trang khá kĩ, xuất hiện trên đường hành quân, đã thu hút mọi cặp mắt. Hình ảnh Đại tướng đã quen thuộc với mọi người. Trong khi các chiến sĩ tuy ngạc nhiên, vẫn kính chào nhìn đồng chí Tổng tư lệnh thì những người dân công hồn nhiên vỗ tay hò reo. Tin Đại tướng cũng có mặt trên đường ra tiền tuyến mang đến một luồng gió mới. Mọi người đã thấy hết tầm quan trọng của chiến dịch này.

Tổng tư lệnh tươi cười ngắm nhìn bộ đội, dân công. Qua tám năm kháng chiến không một ngày nghỉ ngơi, quân và dân ta vẫn như ngày đầu vào trận. Một dân tộc đang độ thanh xuân, tràn trề sức sống. Cán bộ đi xuống đơn vị về báo cáo: Bộ đội hành quân rất tốt. Các đội “thu dung” tổ chức thu thập những người yếu mệt bị tụt lại dọc đường, không đón được ai. Ở đại đoàn 308 có phong trào: “Ăn tốt, ngủ tốt, đi tốt”. Dọc đường hành quân bộ đội vẫn được ăn rau tươi, do anh em mang theo đỗ xanh làm giá. Tới chỗ nghỉ, tổ ba người tổ chức ngâm chân bằng nước nóng. Có thể thấy một khi tư tưởng được phát động, các chiến sĩ sẽ làm được tất cả những gì họ muốn.

Dọc đường, anh có hai mối lo.

Mối lo thứ nhất, không biết quân giặc có ở Điện Biên Phủ hay không? Hầu như toàn bộ những đại đoàn chủ lực của ta đã dồn lên Tây Bắc. Nếu bây giờ, địch rút. Bao nhiêu cố gắng suốt thời gian qua sẽ thành công dã tràng. Navarre luôn có những trò ma quái. Anh vẫn chưa nghĩ ra nếu địch rút thì ta sẽ tiếp tục làm gì với hầu hết những đại đoàn chủ lực đã chuyển lên Tây Bắc? Bất cứ một dấu hiệu là lạ xuất hiện ở mặt trận cũng làm anh nghĩ đến một cuộc rút quân của địch. Trinh sát báo cáo hôm nay trong tập đoàn cứ điểm xuất hiện nhiều đám lửa. Phải chăng chúng tiêu hủy một số tài liệu, đồ vật trước khi rút lui? Nếu trong chiến tranh, ta biết tất cả những việc định đang làm, thì những khó khăn sẽ giảm đi một nửa. Nhưng đó là điều cực kì khó. Mối lo thứ hai lớn hơn, là làm cách nào tiêu diệt được tập đoàn cứ điểm.

Cho đến nay ta chưa một lần chiến thắng trước tập đoàn cứ điểm của địch. Lần này vẫn là một thử nghiệm. Một thử nghiệm mà anh không được phép không thành công.

Ta đã hết sức chuẩn bị. Nhưng anh vẫn nhận thấy có quá nhiều khó khăn. Điện Biên Phủ nằm xa hậu phương ta. Tuyến tiếp tế gần nhất trên 400 kilômét. Tuyến xa nhất lên tới 600 kilômét. Liệu có thể huy động đủ lương thực cho mặt trận trong một thời gian dài? Năm trước tại chiến dịch Tây Bắc, so với Điện Biên Phủ mới nửa chặng đường, một dân công gánh gạo từ hậu phương lên chỉ nhập vào kho được 2 kilô, số gạo mang theo đã dùng hết để ăn đường vận chuyển! Và bộ đội ta sau một thời gian luyện tập, đã đủ năng lực để tiêu diệt từng trung tâm đề kháng nằm trong tập đoàn cứ điểm chưa? Lần này, ta có lựu pháo. Nhưng cách sử dụng pháo lớn của ta trong đánh tập đoàn cứ điểm như thế nào? Và điều anh rất lo lắng là ta chỉ có trên 3.000 viên đạn! Số lượng đạn này chỉ đủ dùng cho một trận công kiên.

Sở chỉ huy tiền phương báo cáo về công tác chuẩn bị đã xong, chỉ đợi anh lên.

Máy bay địch đánh phá liên tục dọc đường, nhưng chuyến đi vẫn khá thông suốt. Chỉ một đêm, phải dừng chân khá lâu trước đèo Pha Đin. Buổi chiều, máy bay địch đã làm sạt một đoạn đường trên đèo. Địch còn thả thêm nhiều bom chờ nổ và bom bươm bướm. Công binh quyết định cho chiếc xe jeep cùng đi với bộ đội và xe vận tải trên đoạn đường vừa san tạm, bên dưới còn bom chờ nổ, riêng tổng tư lệnh phải đi theo con đường tránh mới mở dưới chân đèo. Những chiến sĩ công binh ngoài việc chặt cây, phát quang còn phải nhặt bom bi rơi rải rác khắp nới để dọn một con đường sạch. Tổng tư lệnh và đoàn tùy tùng phải mất cả đêm mới vượt qua đoạn đường tránh, trong khi chiếc xe jeep đã đứng đợi từ nửa đêm bên kia đèo.

Sáng ngày 12 tháng 1 năm 1954, đến Tuần Giáo. Đây là ngã ba đường đi Sơn La, Lai Châu và Điện Biên Phủ. Những dãy nhà không người ở. Đồng bào sợ máy bay đã lánh sâu vào rừng. Sở chỉ huy chiến dịch đã cử người đón. Từ đây tới sở chỉ huy chỉ còn 14 kilômét, nhưng trời đã sáng, Chỉ huy trưởng được đưa vào một bản nhỏ cách xa đường cái, đề phòng máy bay địch. Anh nằm trên nhà sàn rồi ngủ thiếp đi.

Khi tỉnh dậy đã thấy Tham mưu trưởng chiến dịch Hoàng Văn Thái ngồi chờ, miệng ngậm điếu thuốc lá. Anh hỏi ngay:

- Địch ở Điện Biên Phủ có gì thay đổi không?

- Chúng gấp rút củng cố công sự sửa chữa sân bay.

- Có triệu chứng gì chúng muốn rút không?

- Chắc là không. Chúng đang xây dựng một tập đoàn cứ điểm có quy mô lớn hơn Nà Sản nhiều.

Tham mưu trưởng trải ra mặt sàn những bản sơ đồ về Điện Biên Phủ. Lần đầu tiên, anh nhìn thấy những vị trí địch nằm san sát một vùng đất khá rộng, có đồi núi, cánh đồng và một con sông nhỏ.

Hoàng Văn Thái nói:

- Đây là sơ đồ được lập dựa trên những cảnh đồ do tổ trinh sát vẽ trên các hướng rồi ghép lại, đã đối chiếu với những sơ đồ do tù binh địch vẽ, và cả một số ảnh do quân báo chụp các vị trí địch.

Anh Thái tường trình lại quá trình xây dựng tập đoàn cứ điểm. Theo lời khai của tù binh quân địch ở Điện Biên Phủ đã lên tới 10 tiểu đoàn. Có hai trận địa pháo ở Mường Thanh và Hồng Cúm. Cả hai nơi này đều có sân bay.

Chỉ huy trưởng xem kỹ các bản sơ đồ và hỏi những điểm cụ thể về cách bố trí của địch, nhất là châu lỵ Mường Thanh và các điểm cao phía đông, rồi hỏi:

- Phương án tác chiến chuẩn bị tới đâu rồi?

Tham mưu trưởng vui vẻ nói:

- Bộ phận đi chuẩn bị chiến trường đã xây dựng xong phương án, chờ anh lên để quyết định. Chúng tôi cùng các cố vấn đã chọn phương án “đánh nhanh thắng nhanh”, tranh thủ khi quân địch mới tới chưa kịp chuẩn bị công sự và chưa tăng thêm quân.

Chỉ huy trưởng cố giấu vẻ ngỡ ngàng. Phương án tác chiến này hoàn toàn khác phương án anh đã báo cáo Bộ Chính trị trước khi lên đường. Anh nói:

- Tối nay, ta họp Đảng ủy Mặt trận.

Anh chỉ mong sớm đến sở chỉ huy để thêm tình hình.

Buổi chiều, đi tiếp vào cây số 15 đường Tuần Giáo – Điện Biên Phủ, một vùng nhiều núi đá. Bộ phận đi trước đã chọn được một hang to làm sở chỉ huy.

Chỉ huy trưởng hỏi Chánh văn phòng Quân ủy Nguyễn Văn Hiếu:

- Tình hình tư tưởng cán bộ, chiến sĩ như thế nào?

- Mọi người đều phấn khởi, tin là mùa khô này ta sẽ thắng lớn.

- Có ai có ý kiến gì về chọn cách “đánh nhanh thắng nhanh” không?

- Chỉ mới có một vài người trong cơ quan biết. Chúng tôi nghĩ đây là cách tranh thủ giành chiến thắng khi địch còn chưa chuẩn bị.

Buổi tối, các Đảng ủy viên đến họp, người nào cũng tỏ vẻ hồ hởi. Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái trình bày phương án tác chiến đã được chuẩn bị.

- Tập đoàn cứ điểm địch hiện nay quân số đã lên tới 10 tiểu đoàn, nhưng mới có công sự dã chiến, đang còn ở thế lâm thời phòng ngự. Lần trước khi ta tiến công Nà Sản vào cuối chiến dịch, lực lượng đã bị tiêu hao, bộ đội mỏi mệt, ta lại chỉ đánh một, hai cứ điểm, địch dùng toàn bộ sức mạnh hỏa lực của tập đoàn cứ điểm đối phó nên các trận đánh đều không thành công. Lần này quân ta đang sung sức và quyết tâm chiến đấu rất cao. Rút kinh nghiệm cách đánh ở Nà Sản năm trước, đồng chí Cố vấn Mai Gia Sinh đã bàn với chúng tôi nên chọn cách đánh nhanh thắng nhanh. Ta sẽ đột phá vào tập đoàn cứ điểm bằng nhiều mũi, buộc địch phải phân tán hỏa lực đối phó cả bên trong và bên ngoài. Quân báo điều tra thấy hướng Tây của địch bố trí còn nhiều sơ hở, nên mũi thọc sâu sẽ đột phá từ hướng này. Nhiệm vụ thọc sâu sẽ trao cho 308. Nếu mũi thọc sâu nhanh chóng thọc vào sở chỉ huy sẽ tạo nên sự rối loạn, sự xuất hiện của trọng pháo 105 và pháo cao xạ sẽ gây cho địch bất ngờ rất lớn, trận đánh sẽ có nhiều khả năng thành công.

Chủ nhiệm chính trị Lê Liêm nói:

- Chưa có chiến dịch nào không khí xuất quân đầy khí thế, hào hùng như chiến dịch này. Sau chỉnh quân chính trị, tinh thần chiến đấu của bộ đội rất cao, mọi người đều nô nức lập công. Trước đây, anh em mong đánh đồng bằng, nay đã bước đầu thông suốt, chỉ cần động viên, giải thích thêm, chắc các đơn vị sẽ thi đua lập công cao nhất. Chúng tôi và các đồng chí Cố vấn đều thống nhất nên đánh nhanh thắng nhanh.

Chủ nhiệm hậu cần Đặng Kim Giang nói:

- Đánh theo phương án này đỡ lo vấn đề cung cấp. Chúng tôi đã tính tại khu vực Điện Biên Phủ cần tới 50 tấn gạo cho một ngày chiến đấu. Nếu tính từ Sơn La trở lên mỗi ngày cần 90 tấn gạo cho cả bộ đội và dân công. Đó mới là gạo, chưa kể đạn dược và thuốc men. Hiện nay, địch đã bắt đầu đánh phá mạnh tuyến đường tiếp tế độc đạo từ Cò Nòi lên Điện Biên Phủ. Nếu đánh kéo dài vấn đề cung cấp rất khó giải quyết.

Mọi người đều thống nhất một ý kiến với những lý lẽ đã được cân nhắc. Đây là những người đã có mặt ở chiến trường từ trước đó một tháng. Chỉ huy trưởng vừa tới mặt trận, chưa nắm được tình hình thực tế, dù không đồng tình, nhưng chỉ im lặng lắng nghe. Rồi anh hỏi:

- Bao giờ sửa xong đường?

Anh Thái nói:

- Ngay sau khi tới đây, tôi đã cho lệnh tập trung toàn bộ lực lượng sửa đường cho xe kéo pháo vào. Quy định cho công binh và bộ đội một tháng phải xong đường. Nhưng chỉ làm từ Tuần Giáo đến kilômét 62, vì làm sâu thêm sợ bị lộ.

- Còn từ kilômét 62, làm cách nào đưa pháo vào tiếp…?

- Đồng chí Mai nói sẽ dùng sức người kéo pháo vào tận trận địa. Bạn đã thường làm việc này.

Chủ nhiệm hậu cần nói tiếp:

- Đánh nhanh còn tránh được bộ đội ở rừng núi dài ngày, ăn uống kham khổ, bệnh tật dễ phát sinh.

Tham mưu trưởng nói:

- Nếu Đảng ủy nhất trí phương án đánh nhanh thắng nhanh thì cần tranh thủ thời gian, vì để chậm tình hình địch có thể biến chuyển. Đề nghị anh Văn xác định cho thời gian triệu tập hội nghị phổ biến nhiệm vụ.

- Anh dự kiến thế nào?

- Ngày 14, vì ngày mai thì không kịp.

Vấn đề này không thể báo cáo qua điện đài để xin ý kiến Bác và Bộ chính trị. Chỉ huy trưởng cân nhắc giây lát rồi nói:

- Đồng ý ngày 14.

Sau hội nghị anh, anh bảo chánh văn phòng Quân ủy Nguyễn Văn Hiếu ở lại. Hiếu là chính ủy trung đoàn ở đơn vị chiến đấu được điều về Bộ từ năm 1949, cái gì biết thì nói, không biết thì nói không biết, nên anh rất tin. Anh suy nghĩ rồi nói:

- Đánh theo cách này mạo hiểm... Nhưng các anh đi trước cùng với Cố vấn đã nhất trí như vậy. Cậu nghiên cứu, suy nghĩ thêm, khi theo dõi tình hình chuẩn bị của các đơn vị, nếu thấy cán bộ, chiến sĩ nào có thắc mắc thì báo cáo ngay. Riêng vấn đề này chỉ trao đổi với mình, không được nói với bất kì ai! Cho người mời cục phó Quân báo Cao Pha đến gặp mình.

Hiếu có vẻ ngạc nhiên trước ý kiến của Chỉ huy trưởng. Lát sau, Cục phó Cục 2 tới. Anh Văn nói:

- Vừa qua báo cáo là trên cánh đồng hướng Tây, cách bố trí của địch có sơ hở. Đã trao nhiệm vụ cho 308 thọc sâu từ hướng này?

- Thưa anh, phía đó toàn cánh đồng trống trải, chắc địch cho ta sẽ không đột nhập từ hướng này.

Tình hình những ngày tới sẽ còn thay đổi. Trao nhiệm vụ cho cậu tiếp tục điều tra thật cẩn thận, theo dõi chặt những vị trí địch ở hướng này, báo cáo tình hình ngày hai lần… Nếu có hiện tượng đột xuất thì báo cáo ngay không kể ngày đêm.

Sáng hôm sau, Tổng tư lệnh gặp Trưởng đoàn Cố vấn Vi Quốc Thanh. Anh tin đồng chí Vi có thể chia sẻ những suy nghĩ của mình vì hai người đã trao đổi nhiều lần trên dọc đường về cách đánh tập đoàn cứ điểm thích hợp với bộ đội Việt Nam là “đánh chắc tiến chắc”.

Anh chủ động đi thẳng vào vấn đề:

- Tôi hơi ngạc nhiên thấy các đồng chí đi trước đã chọn cách “đánh nhanh thắng nhanh”. Như tôi đã trao đổi với đồng chí Trưởng đoàn nhiều lần, với trình độ của bộ đội Việt Nam hiện nay, chọn cách đánh tiêu diệt dần từng trung tâm đề kháng của địch là thích hợp.

Đồng chí Vi nói:

- Tôi đã gặp đồng chí Mai Gia Sinh và các cố vấn cùng đi chuẩn bị chiến trường với cán bộ Việt Nam, trong đó có một ngày dừng lại ở Nà Sản để nghiên cứu kỹ tập đoàn cứ điểm. Tất cả các đồng chí Việt Nam và cố vấn đều nhất trí là lần này Điện Biên Phủ ta nên tranh thủ đánh sớm, đánh nhanh và có nhiều khả năng giành thắng lợi.

- Căn cứ vào trình độ tác chiến của bộ đội Việt Nam hiện nay so sánh binh hỏa lực hai bên trên chiến trường, tôi cho rằng bộ đội chúng tôi khó có khả năng tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ trong thời gian ngắn.

Suy nghĩ một lúc, đồng chí Vi nói:

- Tôi biết được làm được việc này, bộ đội Việt Nam phải có nhiều cố gắng vượt bậc. Nhưng nếu không tranh thủ đánh sớm khi địch còn đứng chân chưa vững, để nay mai chúng tăng quân và củng cố công sự thì không đánh được, ta sẽ bỏ mất thời cơ.

Anh nhớ lại trường hợp tương tự đã gặp tại chiến dịch Biên Giới năm 1950. Khi anh tới sở chỉ huy thì các đồng chí trong Đảng ủy Mặt trận đi trước đã xây dựng xong phương án đánh thị xã Cao Bằng để mở đầu chiến dịch. Nhưng hồi đó, còn một số cán bộ trung đoàn sau khi trinh sát trận địa, cũng có ý kiến là đánh Cao Bằng khó thắng. Hơn thế, Bác có mặt ở chiến dịch, đã phê chuẩn đề nghị mới của anh. Nhưng lần này, anh ở phía thiểu số tuyệt đối. Anh biết không thể đưa vấn đề ra bàn lại lúc này, vì mọi người đều có niềm tin vào thắng lợi.

Chỉ huy trưởng cảm thấy mình đứng trước một “việc đã rồi”.

Mãi gần năm chục năm sau đó, khi viết cuốn “Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử” (1) , Đại tướng Võ Nguyên Giáp mới hiểu vì sao đã có sự thống nhất cao như vậy của đoàn cán bộ chuẩn bị chiến trường trong cách chọn phương án đánh Điện Biên Phủ.

Dọc đường đi chiến dịch, khi tới Nà Sản, Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái quyết định dành một ngày tham quan tập đoàn cứ điểm Salan đã lập ra tại đây mùa đông năm 1952. Mọi người vẫn chưa thật hiểu vì sao những trung đoàn công kiên mạnh nhất của 308, 312 đã thất bại trong trận đánh một số cứ điểm ở khu vực ngoại vi tập đoàn cứ điểm. Tại những cứ điểm Pú Hồng, Bản Hồi, Nà Xi, Bản Vẩy,địch chỉ đóng hai đại đội, hoặc tiểu đoàn, và mới có công sự dã chiến. Cùng đi với những cán bộ tham quan, có Phó đoàn Cố vấn Trung Quốc Mai Gia Sinh. Đồng chí Mai là cán bộ tham mưu đã phụ trách quân đoàn trong Giải phóng quân Trung Quốc.

Địch mới rút khỏi Nà Sản hơn ba tháng. Lau cỏ mọc lên khá nhanh nhưng cả tập đoàn cứ điểm với những công sự, lô cốt, ụ súng… vẫn còn nguyên vẹn. Mọi người nhận thấy cái khác của những cứ điểm ở đây ngoài lớp rào dây thép gai dày đặc và những bãi mìn, còn nguyên liên kết với nhau bằng một hệ thống giao thông hào, và hợp thành một vòng tròn bảo vệ cho sân bay, trận địa pháo và sở chỉ huy ở phía trong. Rõ ràng tập đoàn cứ điểm có một cái vỏ rất cứng. Nếu đột phá qua lớp vỏ này thì việc phát triển ở bên trong không quá khó khăn.

Sau khi tham quan, Cố vấn Mai Gia Sinh nói với Hoàng Văn Thái: “Một nguyên nhân quan trọng khiến năm ngoái ta chưa thành công là do chưa kiềm chế được pháo binh và hạn chế hoạt động của không quân địch. Năm nay bộ đội Việt Nam có lựu pháo 105 ly và pháo cao xạ 37 ly, đã nghiên cứu cách đánh tập đoàn cứ điểm, nên nhất định là chúng ta đánh được. Tập đoàn cứ điểm cũng có nhiều sơ hở. Ta cần khẩn trương lên mặt trận nắm tình hình địch và chuẩn bị phương án tác chiến”.

Ngày mồng 5 tháng 1 năm 1954, sở chỉ huy tiền phương tới Thẩm Púa. Địch đã rút 2 tiểu đoàn Âu Phi từ Lai Châu về Mường Thanh. Một tập đoàn cứ điểm mới đã hình thành ở Điện Biên Phủ. Đồng chí Mai, sau mấy ngày suy nghĩ, đưa ra hai phương án đánh Điện Biên Phủ. Một là: “Dùng toàn bộ lực lượng chia làm nhiều hướng đánh cùng một lúc, có sự chi viện và hợp đồng chặt chẽ của pháo binh và cao xạ. Một mũi kích mạnh của bộ binh sẽ từ phía Tây và Tây – Nam thọc sâu vào sở chỉ huy, giống như một mũi gươm đâm thẳng vào tim, tạo nên sự rối loạn ở trung tâm phòng ngự địch ngay từ đầu, rồi từ trong đánh ra, từ ngoài đánh vào, tiêu diệt địch trong thời gian tương đối ngắn”. Đồng chí Mai gọi cách đánh này là “chiến thuật moi tim” (2) . Hai là: “Bao vây địch dài ngày rồi đánh từng bước một, lần lượt tiến công từng trung tâm đề kháng bằng nhiều trận công kiên kế tiếp, tiến tới tiêu diệt toàn bộ quân địch”. Đó là đánh theo “chiến thuật bóc vỏ” (3) .

Cố vấn Mai Gia Sinh nói:

- Năm ngoái đánh Nà Sản ta dùng chiến thuật bóc vỏ, lần lượt tiêu diệt từng vị trí, nhưng không có trọng pháo tầm xa để chế áp pháo binh và sở chỉ huy địch, nên chúng tập trung toàn bộ hỏa lực của tập đoàn cứ điểm chi viện cho vị trí bị tiến công. Ta thương vong nhiều mà không dứt điểm được. Mà cứ dứt điểm thì cũng không giữ được, như vị trí Pú Hồng. Ở Điện Biên Phủ hiện nay, địch còn trong trạng thái lâm thời phòng ngự, công sự chưa vững chắc, lại có nhiều sơ hở phía Tây. Ta tranh thủ đánh sớm, đánh nhanh bằng sức mạnh mới của bộ pháo hiệp đồng, dùng chiến thuật moi tim để tiêu diệt địch. Nếu không đánh sớm, địch tăng thêm binh lực, hỏa lực, củng cố công sự và hoàn chỉnh thế bố phòng thì e sẽ gặp khó khăn.

Trận đánh sẽ bắt đầu bằng đợt pháo cấp tập dữ dội, làm cho pháo và máy bay địch thường trực ở sân bay bị tổn thất nặng ngay từ đầu. Tiếp đó là các đơn vị đột kích của bộ binh thọc sâu vào chia cắt tập đoàn cứ điểm, mũi chủ yếu đánh thẳng vào sở chỉ huy và trung tâm thông tin theo kiểu “nở hoa trong lòng địch” (4) . Làm được như vậy thì các trận đánh ban ngày của ta diễn ra trong trạng thái địch, ta xen kẽ. Máy bay và pháo địch không dễ dàng bắn trúng đội hình chiến đấu của ta mà không gây thương vong cho quân chúng. Tôi được thông báo là các tiểu đoàn Việt Nam đưa sang Trung Quốc huấn luyện về pháo cao xạ, đã tiến bộ khá nhanh. Trước khi về nước, cán bộ và chiến sĩ đã nắm vững chiến thuật và kĩ thuật. Đây là một lực lượng đáng tin cậy để hạn chế hoạt động của không quân địch.” (5)

Cơ quan tham mưu của ta sau khi nghe ý kiến đã hoàn toàn nhất trí với sự lựa chọn này

Ngày 14 tháng 1 năm 1954, cán bộ đại đoàn và trung đoàn tham gia chiến đấu được triệu tập về Thẩm Púa. Chỉ trong mấy ngày, đội công tác của cơ quan tham mưu đã dựng lên một chiếc nhà bằng tre lứa khá lớn trên khoảng đất rộng trước cửa hang, làm hội trường. Một bàn cát toàn cảnh Điện Biên Phù được đắp ngay cạnh đó.

Trong quá trình chuẩn bị chiến dịch, một khó khăn lớn của công tác tham mưu là ta chỉ có bản đồ tỉ lệ 1/100.000 thiếu rất nhiều chi tiết. Các tổ trinh sát của Bộ cũng như đại đoàn được lệnh tìm kiếm bản đồ của địch. Đầu tháng 1 năm 1954, tổ trinh sát 6 người, thuộc tiểu đoàn trinh sát 426 của Bộ, do một trung đội trưởng chỉ huy, trong khi tiềm nhập sân bay Mường Thanh đã thu được một số bản đồ tỉ lệ 1/25.000 mới nhất về Điện Biên Phủ. Đồng chí Trần Phận, trung đội trưởng trinh sát lập công, được tặng thưởng ngay Huân chương chiến công hạng hai. Bản đồ mới đã giúp ta xác định tọa độ chính xác trong tổ chức hiệp đồng giữa bộ binh và pháo binh ngay từ hội nghị đầu tiên tại Thẩm Púa.

Cán bộ quân sự, chính trị các đại đoàn tham gia chiến đấu đều có mặt. Những tư lệnh quân sự: Vương Thừa Vũ, Lê Trọng Tấn, Lê Quảng Ba, Đào Văn Trường, Nam Long, Quang Trung, Cao Văn Khánh… Những chính ủy: Chu Huy Mân, Trần Độ, Phạm Ngọc Mậu, Lê Vinh Quốc… Và nhiều cán bộ trung đoàn, kể cả tiểu đoàn trưởng ở những mũi đột kích chủ yếu cũng được triệu tập. Cán bộ về dự hội nghị hầu như chiến dịch nào cũng gặp nhau.

Nhiệm vụ thọc sâu giao cho đại đoàn 308, đại đoàn chủ lực đầu tiên của Bộ. 308 sẽ đánh vào tập đoàn cứ điểm từ hướng Tây, xuyên qua những vị trí nằm trên cánh đồng, thọc thẳng tới sở chỉ huy của De Castries, người đã thay tướng Gilles phụ trách Binh đoàn tác chiến Tây Bắc (6) . Các đại đoàn 312, 316 nhận nhiệm vụ đột kích vào hướng Đông, nơi có những điểm trọng yếu. Dự kiến trận đánh sẽ diễn ra trong hai ngày, ba đêm. Trước mắt, tập trung toàn bộ lực lượng bộ đội hoàn thành đường kéo pháo và đưa pháo vào trận địa dã chiến.

Nghe thông báo số lượng pháo 105 sử dụng trong trận này là 2.000 quả, nhiều người trầm trồ. Hùng Sinh, trung đoàn trưởng trung đoàn 102, chủ công của 308, thốt lên: “Với bằng ấy quả lựu pháo thì tập đoàn cứ điểm của chúng cũng nát rồi”.

Giống như những chiến dịch trước, sau khi phổ biến quyết tâm chiến đấu, Chỉ huy trưởng khuyến khích các cán bộ nêu lên khó khăn của đơn vị trong trận đánh để cùng bàn cách khắc phục. Anh không tin là lần đầu đánh một trận hiệp đồng pháo dài ngày vào một tập đoàn cứ điểm lớn như vậy mà cán bộ lại không có thắc mắc. Nhưng lần này, điều khá lạ lùng là các đơn vị đều hăng hái nhận nhiệm vụ. Chỉ có những người hỏi để biết rõ hơn, không một ai thắc mắc gì.

Mười năm sau đó, anh mới biết: nếu trong hội nghị anh chỉ cần đưa ra một gợi ý của mình về cách đánh thì tình hình có thể thay đổi. Hơn ai hết, những người trực tiếp làm nhiệm vụ dễ cảm nhận những khó khăn thực tế trên chiến trường. Khi nghe nói ta sẽ bắn vào tập đoàn cứ điểm 2.000 trái pháo 105, một số người trầm trồ, thì Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ nghĩ ngay: 2000 quả pháo có nghĩa gì với một tập đoàn cứ điểm rộng và có hầm hào, công sự như Điện Biên Phủ! Trong trận đánh cứ điểm Tu Vũ, một trung đoàn của anh nằm trên địa hình nhỏ hẹp, không có công sự, đã phải chịu đựng 5000 trái pháo, nhưng cuối cùng vẫn tiêu diệt được cứ điểm địch. Khi nhận nhiệm vụ đánh ở hướng Đông, Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn rất băn khoăn là làm cách nào đột kích kiên tiếp ba lần, cả ban đêm và ban ngày, để tới mục tiêu chỉ định trong tập đoàn cứ điểm. Và rất nhiều băn khoăn khác về giải quyết thương binh, về tiếp tế đạn dược…, nhưng lúc này không một ai dám nói ra.

Để chuẩn bị phần nào tư tưởng cho cán bộ, Chỉ huy trưởng nói:

- Hiện nay địch chưa có triệu chứng thay đổi lớn. Chúng ta cần ra sức nắm vững địch tình, để một khi địch có thay đổi thì kịp thời xử trí.

Nhưng anh biết mọi người không nhận ra ý của mình. Vì lúc này ai nấy chỉ tập trung vào việc hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị của đơn vị cho trận đánh.

❖ 4 ❖

Từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ chỉ có một con đường cho xe ngựa, dài 82 kilômét, đã bỏ từ lâu. Ngay sau khi tới sở chỉ huy tiền phương ở Thẩm Púa, Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đã lệnh gấp rút mở rộng đường ra 3,5 mét, bán kính đường vòng 8 – 10 mét tạm đủ cho xe ZIN 151 kéo pháo qua. Phần lớn con đường chạy men con suối lớn chảy vào Điện Biên, có nhiều nhánh cắt ngang đường, các cầu đều đã hư hỏng. Cũng may là trước khi đi chiến dịch, trung đoàn công binh của 351 đã được trang bị một số dụng cụ phá đá: choòng, xà beng, búa tạ, thuốc nổ và kíp điện Liên Xô, đồ mộc và sắt để rèn đinh khá hơn chiến dịch trước. Nhưng vì số lượng cầu rất nhiều, ở một số nơi anh em vẫn phải dùng dao hạ cây và liên kết, cố định những bộ phận cầu bằng dây rừng. Công binh đã có sáng kiến là bắc cầu lượn vòng, cong ở hai đầu theo đường để giảm bớt khối lượng đất phải đào vào vách núi, và nhất là phá đá. Tuy nhiên, số đá phải phá cũng không hề nhỏ. Vất vả nhất là đục lỗ mìn trên vách đá ban đêm dưới ánh sáng tù mù của bó đuốc. Người cầm choòng và người quai búa đều phải đứng trên thang. Ở tư thế như vậy, sự phối hợp giữa người cầm choòng và người đánh búa là một nghệ thuật. Người cầm choòng phải vững tin người cầm búa không đánh chệch mới dám vững tay cầm choòng. Người cầm búa cũng búa cũng phải vững tin vào người cầm choòng mới dám mạnh tay quai. Chiếc búa nặng 5 kilô, người khỏe cũng chỉ quai được 20 búa là phải nghỉ để lấy sức, vì nếu run tay là gây nguy hiểm cho người cầm choòng. Ở tiểu đoàn công binh 555, Một chiến sỹ tên là Tào Tư lập một kỷ lục vượt xa tất cả mọi người là quai 2800 búa liên tục. Một số người muốn thì đua với anh, người có thành tích cao nhất cũng chưa bằng nửa. (7)

Tuy làm gấp, nhưng yêu cầu về kỹ thuật cầu, đường đều phải tôn trọng để đảm bảo cho giao thông thông suốt trong cả chiến dịch. Các đơn vị bộ binh được lệnh chi viện cho công binh. Ban đêm, bộ đội đốt đuốc làm đường nhưng vẫn phải phòng máy bay địch oanh kích. Mãi đến khi trận đánh bắt đầu, địch mới biết con đường này đã được sửa cho xe kéo pháo chạy qua.

Để động viên cán bộ, chiến sỹ, công việc làm đường được gọi là “ Mở đường thắng lợi”.

Đúng một tháng con đường từ Tuần Giáo tới cây số 62 Điện Biên Phủ đã hoàn thành. Cuộc chạy đua giữa ta với địch diễn ra từng giờ. Đường làm tới đâu xe kéo pháo bò theo đến đấy.

Từ cây số 62, còn phải kéo pháo tới trận địa cách đó 15 kilômét. Đường kéo pháo từ cửa rừng là Nà Nham qua núi Pha Song cao 1150m, xuống Bản Tố tới Bản Nghịu ( Tây Bắc Điện Biên Phủ).

Các bạn Trung Quốc nhận xét là núi rừng ở Việt Nam rất hiểm trở khác hẳn với núi rừng ở Trung Quốc, nhiều quả núi nhỏ mà không thể vượt qua. Một lần, Tổng tư lệnh đã nói vui với bạn, bằng cách nhắc lại lời của Napoléon: “Nơi nào con dê đi được thì con người đi được!” Đúng là trong những chiến dịch Biên Giới, Hoàng Hoa Thám, Tây Bắc, bộ đội ta đã vượt qua những địa hình rất cheo leo để giành thắng lợi trong nhiều trận đánh. Nhưng lần này thì khác hẳn, vì không chỉ có bộ binh, những khẩu sơn pháo tháo rời, mà phải đưa những khẩu lựu pháo, cao xạ pháo nguyên cỗ, nặng từ hai tấn đến hai tấn rưỡi vào trận địa. Và trận đánh chỉ có thể bắt đầu khi những khẩu trọng pháo đã có mặt tại vị trí sẵn sàng nhả đạn.

Riêng việc mở đường kéo pháo không quá khó khăn. Chỉ cần phát những cây nhỏ và san mặt đường. Thời gian quy định là 24 tiếng. Ta huy động cả một đại đoàn, rải người suốt dọc đường, làm xong trong 20 giờ!

Nhiệm vụ chuyển pháo vào vị trí bắn được trao cho đại đoàn 351 và đại đoàn 312, dự kiến hoàn thành trong ba đêm.

Biết việc kéo pháo sẽ gặp nhiều khó khăn, Chỉ huy trưởng quyết định thành lập một bộ chỉ huy kéo pháo, và chỉ định Đại đoàn trưởng 312 Lê Trọng Tấn, làm Tư lệnh, Chính ủy 351 Phạm Ngọc Mậu, làm Chính ủy. Phó ban tác chiến Mặt trận Đỗ Đức Kiên và một số cán bộ tham mưu được cử xuống cùng bàn kế hoạch và kiểm tra đôn đốc.

Chính ủy Phạm Ngọc Mậu báo cáo với Bộ chỉ huy Mặt trận tinh thần của hai đơn vị làm nhiệm vụ đã được động viên tới mức cao nhất, công binh chuẩn bị tời quay, tời hãm kết hợp với sức người tỉ mỉ như một trận đánh.

Còn ba ngày nữa là nổ súng. Đêm 17 tháng 1 năm 1954, Chỉ huy trưởng cùng với Sở chỉ huy chiến dịch di chuyển từ cây số 15 lên cây số 62 gần Điện Biên Phủ. Dọc đường, tổng tư lệnh đã chứng kiến kỳ công của công binh và bộ đội khi đi qua hàng loạt chiếc cầu mới hoàn toàn bằng gỗ và những vách đá mới xuất hiện. Nhưng lòng anh trĩu nặng.

Sự hào hứng trên đường ra trận đã biến mất từ khi tới sở chỉ huy. Anh đã có mặt trong tất cả những trận đánh lớn từ ngày đầu kháng chiến. Chiến dịch nào cũng khó khăn. Nhưng chưa lần nào anh lo lắng như chiến dịch này. Anh đã cố gắng tự thuyết phục mình theo lý lẽ của những đồng chí đi trước, nhưng không thể được. Ngày nổ súng càng tới gần, ruột gan anh càng như lửa đốt.

Gần sáng, tới Nà Tấu. Sở chỉ huy chiến dịch được bố trí trong khu rừng bên một thác nước rất đẹp. Nhưng lần này anh không chú ý đến quang cảnh chung quanh, vào ngay lán của sở chỉ huy cùng với tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái ngồi chờ kết quả đêm kéo pháo đầu tiên.

Trời sáng một lúc, Đỗ Đức Kiên báo cáo về qua điện thoại: một số pháo 105 đi đầu đã di chuyển được 1 kilômét.

Chỉ huy trưởng hỏi:

- Đoạn này có nhiều dốc không?

- Thưa anh, đoạn này còn là đường bằng, chưa có dốc. Anh em rút kinh nghiệm, đêm nay chắc sẽ khá hơn.

Chỉ huy trưởng quay lại trao đổi với Tham mưu trưởng:

- Đường bằng, mà một đêm chỉ kéo được 1 kilômét! Còn 14 kilômét. Nếu gặp dốc, lại còn phải vượt Pha Sông thì bao giờ tới nơi?

- Ta chưa bao giờ kéo loại pháo này, không ngờ kéo chậm thế!

- Có cách nào khắc phục không? Nhất định là không kịp nổ súng ngày 20 tháng 1 năm 1954 như dự kiến!

Hoàng Văn Thái ngẫm nghĩ rồi nói:

- Hiện nay, xe chỉ mới chuyển pháo đến cửa rừng Nà Nham. Nếu dùng xe đưa pháo vào khu vực Nà Ten, Nà Hy thì có thể giảm khoảng ba đêm kéo pháo bằng tay.

- Tại sao không làm như thế?

- Ta ngại địch nghe thấy tiếng ôtô.

- Anh ra hiệu chuyển ngay số pháo còn lại bằng ôtô lên Nà Ten, Nà Hy.

Ngày 20 tháng 1 năm 1954, Bộ chỉ huy Mặt trận quyết định lui thời gian nổ súng lại năm ngày.

Chỉ huy trưởng rất mong tin các chiến trường phối hợp. Ngoài Trung Lào, chưa có thêm nơi nào nổ súng. Nếu trận Điện Biên Phủ diễn ra trong khi quân cơ động địch còn chưa phân tán nhiều, Navarre có thể tập trung lực lượng vào Tây Bắc để đối phó. Như vậy sẽ khó khăn cho việc thực hiện ý đồ chiến lược của ta. Anh đặc biệt lo ở Liên khu 5, Nguyễn Chánh không thuyết phục được Liên khu ủy đưa chủ lực lên Tây Nguyên. Việc mở mặt trận Tây Nguyên không chỉ là hoạt động phối hợp với mặt trận chính, mà còn nhằm bảo vệ bốn tỉnh tự do liên khu 5.

Ngày 21 tháng 1 năm 1954, Cục 2 báo cáo: Chiến dịch Atlante đã triển khai từ ngày 20 ở vùng tự do liên khu 5. Navarre tung khoảng 15 tiểu đoàn vào phía nam Phú Yên. Anh cảm thấy mừng vì kế hoạch Navarre đã diễn ra như mình đã biết. Có thể việc địch nhảy dù Điện Biên Phủ chỉ nhằm thu hút lực lượng chủ lực của ta. Nhưng địch phân tán quân cơ động ở đồng bằng Bắc Bộ lúc này là có lợi cho ta. Chúng ta sẽ phải cân nhắc trong việc điều tiếp quân lên Điện Biên Phủ. Nhưng điều đó, anh lại lo: không biết anh Nguyễn Chánh có thuyết phục được Đảng ủy và Bộ tư lệnh liên khu thực hiện kế hoạch đối phó theo ý kiến của Bộ không? Kế hoạch được triển khai tới đâu? Nếu bây giờ chủ lực của Liên khu 5 chưa lên đường đi Tây Nguyên, địch đã đổ bộ vào Tuy Hòa thì việc triển khai kế hoạch của Bộ lại khó khăn hơn. Anh thấy dù chậm cũng phải thực hiện kế hoạch này, vì đây là cách duy nhất để bảo vệ vùng tự do của ta ở Liên khu 5. Anh bảo đồng chí Chánh văn phòng sang gặp Cục trưởng Cục Tác chiến nắm ngay tình hình tại Liên khu 5.

Ngày 22, Cục trưởng tác chiến Trần Văn Quang báo cáo: Liên khu ủy 5 vừa điện báo cáo đã thực hiện kế hoạch, chỉ để lại lực lượng vũ trang địa phương đối phó với cuộc tiến công tại vùng ven biển và đồng bằng, đại bộ phận chủ lực đã bắt đầu tiến lên Tây Nguyên. Đồng thời có tin mũi thọc sâu của tiểu đoàn 436 đã tiến xuống Hạ Lào, đang tích cực chuẩn bị nổ súng sớm.

Nếu Tây Nguyên, Hạ Lào kịp thời đánh địch lúc này thì sẽ rất có lợi cho tình hình. Nhưng những tin vui đến từ mặt trận phối hợp vẫn không làm anh vợi mối lo với những gì đang diễn ra tại mặt trận chính Điện Biên Phủ.

❖ 5 ❖

Chỉ huy trưởng không tìm được bất cứ ai để chia sẻ với những băn khoăn về cách đánh tập đoàn cứ điểm. Hàng ngày, anh chờ cán bộ đơn vị lên báo cáo, nhất là những phái viên đi các đơn vị nắm tình hình chuẩn bị.

Công tác đưa pháo vào trận địa khó khăn hơn nhiều so với ta tưởng. Bắt đầu gặp dốc, tốc độ kéo pháo chậm hơn rất nhiều. Trời lại đổ mưa. Đất cứng bên sườn núi cao biến thành bùn nhão, mỗi nhịp kéo, khẩu pháo chỉ nhích không đầy gang tay. Nhiều đoạn đường kéo pháo nằm chênh vênh bên vực sâu. Có lần đứt dây tời, một chiến sĩ cầm chèn lao vào bánh xe để cứu pháo khỏi lăn xuống vực sâu. Khẩu pháo dừng lại nhưng người chiến sĩ đã hy sinh. Thời gian kéo pháo mỗi đêm là từ chập tối tới 4, 5 giờ sáng, có ngày sương mù nhiều, bộ chỉ huy lệnh cho kéo tới 7 giờ sáng. Nhưng những buổi làm việc kéo dài, sức khỏe bộ đội đã giảm, năng suất không được bao nhiêu.

Qua sáu đêm, pháo mới đi được 12 kilômét, bộ đội đã rất mệt mỏi.

Cục 2 vẫn báo cáo tin tức ngày 2 lần. Hàng ngày máy bay địch, kể cả máy bay C119 do phi công Mĩ lái, tiếp tục vận chuyển và thả dù hàng trăm tấn lương thực, vũ khí, đạn dược, dây kẽm gai và cọc sắt xuống sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm. Đồi Độc Lập (tên ta đặt cho một quả đồi đứng lẻ loi ở phía Bắc Điện Biên Phủ) lúc đầu chỉ là một cứ điểm tiền tiêu, nay đã trở thành một trung tâm đề kháng vững chắc. Cụm cứ điểm Him Lam đã được tăng cường. Ở nhiều cứ điểm, địch đã xây dựng công sự kiên cố, hang rào dây thép gai và bãi mìn không ngừng mở rộng, có nơi đã lên tới hơn 100 mét, thậm chí 200 mét. Trinh sát phát hiện địch đã có thêm nhiều xe tăng và trên bốn chục khẩu pháo 105 và 155 ly. Những cứ điểm phía Tây, nơi mũi chính đại đoàn 308 sẽ đột phá, không mạnh như một số cao điểm, nhưng nằm trên một cánh đồng trống, địch dễ phát huy hỏa lực xe tăng, pháo binh, máy bay và lực lượng phản kích.

Cán bộ tuy phản ánh không ít khó khăn về tình hình kéo pháo, tình hình địch ra sức tăng cường công trình phòng ngự, nhưng cái trùm lên tất cả vẫn là tinh thần không ngại hy sinh, gian khổ của cán bộ, chiến sĩ, là quyết tâm khó khăn nào cũng sẽ vượt qua, là chiến thắng đang tới gần.

Ngày 24, Cục 2 báo cáo, trong ngày địch vừa tăng cường cho Điện Biên Phủ thêm một tiểu đoàn, đưa lực lượng lên tới 11 tiểu đoàn bộ binh và dù (thực tế địch đã có 12 tiểu đoàn).

Cũng trong ngày, một chiến sĩ của đại đoàn 312 bị địch bắt. Liền đó, Cục 2 báo cáo bộ phận thông tin kỹ thuật nghe địch thông báo cho nhau qua điện đài: 17 giờ ngày 25 tháng 1, bộ đội ta sẽ tiến công vào Điện Biên Phủ! (Sau này, qua những tài liệu của phương Tây, ta mới biết địch nắm được thời gian nổ súng của ta là do thu được một số bức điện của cơ quan cung cấp mặt trận).

Bộ chỉ huy chiến dịch lập tức hội ý. Có ý kiến: Cứ tiến hành trận đánh như dự kiến, địch đã sẵn sàng chờ đón trận đánh của ta, chúng có biết ngày giờ nổ súng thì cũng không có gì thay đổi! Khi nghe báo cáo, còn một số khẩu pháo vẫn chưa vào vị trí, Chỉ huy trưởng quyết định hoãn thời gian nổ súng 24 tiếng. Với quyết định này, ta có thể làm cho địch lầm tưởng đó là một tin hoang báo. (8)

Đại đoàn 312 báo cáo: trung đoàn trưởng Hoàng Cầm ở trung đoàn chủ công, đề nghị trả lại bớt pháo, vì được trao quá nhiều pháo! Chưa bao giờ một đơn vị đột kích lại từ chối pháo phối thuộc! Điều này nói lên trình độ chỉ huy của trung đoàn trong đánh bộ pháo hợp đồng.

Sau hội nghị Thẩm Púa, Chỉ huy trưởng có nhiều đêm thức trắng. Từ ngày khởi đầu Toàn quốc kháng chiến ở Hà Nội, anh đã qua nhiều chiến dịch rất khó khăn, nhưng chưa bao giờ lại thấy nó không hề có mảy may hi vọng giành thắng lợi, cũng như không có cách nào làm giảm nhẹ tổn thất nếu trận đánh không thành công!

Lần đầu, anh hi vọng chỉ một thời gian ngắn, nhiều người sẽ nhận ra: đánh cách này, chuẩn bị kiểu này sẽ rất khó thắng.

Anh chỉ thị cho các phái viên nếu thấy cán bộ, chiến sĩ có băn khoăn gì thì báo cáo ngay. Anh dặn Chủ nhiệm chính trị Lê Liêm xuống 308 chú ý tìm hiểu tư tưởng của Vương Thừa Vũ. Vũ là người có bản lĩnh và tinh thần trách nhiệm cao. Một lần, 308 được giao nhiệm vụ đánh Thất Khê, giữa lúc bộ đội đang hồ hởi xuất quân, Vũ đã hạ lệnh rút lui trước sự ngạc nhiên của nhiều phái viên cấp trên có mặt ở sở chỉ huy đại đoàn. Khi kiểm điểm, mọi người thấy Vũ đúng vì anh nhận được báo cáo tình hình địch ở Thất Khê đã thay đổi. Lần này, 308 đảm nhiệm mũi thọc sâu vào trung tâm tập đoàn cứ điểm cực kì khó khăn. Chủ nhiệm chính trị Lê Liêm trở về cho biết đại đoàn trưởng 308 Vương Thừa Vũ rất vững vàng, không đả động gì tới khó khăn của đơn vị.

Một lần, Chỉ huy trưởng hỏi thẳng Lê Trọng Tấn:

- Cán bộ, chiến sĩ có ai băn khoăn về cách đánh không?

- Thưa anh lần này thì tuyệt đối không có thắc mắc gì về chủ trương của trên, ai nấy đều chỉ thấy trên đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho đơn vị tiêu diệt địch.

Các phái viên đều phản ánh khá đầy đủ những khó khăn của các đơn vị trong công tác chuẩn bị, nhưng là để ngợi ca tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ rất cao, anh em đều rất tin tưởng ở thắng lợi.

Nhiều lần anh tự hỏi: Có đúng là tất cả mọi người đều nghĩ như vậy không? Có thể cho rằng chiến sĩ không biết nhiều về điều này, vì họ chỉ có một cái nhìn cục bộ, họ tin vào những lời cán bộ nói mà họ cho là ý kiến của Đảng. Nhưng còn các cán bộ người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ được trao, trực tiếp phải giải quyết những khó khăn trong trận đánh? Anh tin là không ít người có băn khoăn. Nhưng không ai dám nói ra lúc này, vì trận đánh đã trở thành một nhiệm vụ chính trị của Đảng, một quyết tâm, một niềm tin của Đảng, trận đánh sắp bắt đầu mà đề cập tới điều này tức là chống lại một chủ trương lớn, hay ít nhất cũng là reo rắc một sự hoài nghi, hoang mang trước khi trận đánh bắt đầu…

Rồi anh tự hỏi: Nhưng còn mình thì sao? Mình là người được Trung ương trao trách nhiệm chính đối với chiến dịch. Mình thấy rõ chiến dịch nếu tiến hành theo cách này, nhất định thất bại, và hậu quả sẽ khôn lường…? Ngày đầu, khi nghe chủ trương này anh đã không thể phản đối vì mới chân ướt chân ráo tới mặt trận! Nhưng bây giờ anh đã có nhiều điều kiện để cân nhắc mọi mặt, đã biết rằng nếu không chuyển ngay cách đánh sẽ phải đón nhận một thảm họa chắc chắn. Nhưng một câu hỏi khác lại xuất hiện: Nếu chuyển sang cách đánh mới, mà đánh không thắng thì sao? Rõ ràng là lúc đó mọi trách nhiệm sẽ đổ dồn vào đầu anh!

Ngày 24, cục phó Cục Bảo vệ Phạm Kiệt, theo dõi việc kéo pháo báo cáo về qua điện thoại: “Trận địa pháo hiện nay của ta đều là dã chiến, địa hình rất trống trải, nếu bị phản pháo, hoặc máy bay đánh phá sẽ khó tránh tổn thất. Một số pháo vẫn chưa được kéo tới trận địa”. Đây là người đầu tiên phát hiện khó khăn. Chánh văn phòng Nguyễn Văn Hiếu có nhận xét là công tác chính trị chỉ mới làm việc động viên tinh thần chiến đấu mà chưa đề cập tới những khó khăn có thể xảy ra.

Còn 20 giờ nữa là nổ súng. Tính lại từ khi trao nhiệm vụ chiến đấu ở Thẩm Púa tới nay là mười một ngày. Nhưng anh tưởng như cả tháng đã trôi qua. Chung quanh anh vẫn chỉ nói tới chiến thắng. Qua những năm chiến tranh, anh đã rút được một kinh nghiệm: “Trước một trận đánh, người chỉ huy không được phép nghĩ đến thắng lợi, mà phải đặt cho mình câu hỏi: “Nếu không thắng thì sao?”. Ta đã tung tất cả lực lượng ưu tú nhất của kháng chiến vào đây. Khi đó anh còn chưa biết bộ tham mưu của Navarre, bộ tham mưu của Cogny, và bản thân De Castries đã có chủ trương sử dụng con nhím Điện Biên Phủ làm một cái máy nghiền để nghiền nát quân đoàn tác chiến Việt Minh, đây chính là cơ hội bằng vàng mà đội quân viễn chinh Pháp đã tìm kiếm từ ngày đầu cuộc chiến tranh xâm lược.

Anh lại nhớ đến lời Bác nói trong cuộc họp Thường vụ: “Chiến trường ta hẹp, người, của, ta không nhiều, cho nên chỉ được thắng không được bại, vì bại thì hết vốn!”. Lần đầu, anh nhận thấy đội quân chủ lực bách chiến bách thắng của ta chỉ là một lực lượng nhỏ so với quân địch. Đảng ta đã hết sức nâng niu, gìn giữ nó như một chiếc bình pha lê. Nó có thể lâm nguy nếu tung vào một trận đánh bất lợi. Và sự mất còn của nó gắn với thành bại của cả chiến tranh. Clausewitz ví chiến tranh như một canh bạc, vì có quá nhiều yếu tố ngẫu nhiên, nhưng anh không bao giờ được nghĩ chiến tranh là một canh bạc để trông chờ vào sự may rủi.

Đêm 25 tháng 1 năm 1954, anh không sao chợp mắt. Đầu đau nhức. Anh gọi y sỹ Thùy. Thùy đăm đăm nhìn anh rồi nói:

- Mười đêm rồi, anh không ngủ. Anh phải ngủ một vài đêm thì mới hết nhức đầu!

- Mình muốn ngủ lắm, nhưng không ngủ được. Đêm nay lại càng không ngủ được!

Thùy chạy đi một lát, rồi đem về một nắm lá ngải cứu đã được hơ lửa nóng, buộc lên trán anh.

Nắm ngải cứu nóng và hương thơm của nó làm đầu anh đỡ đau, dịu đi. Một lần nữa anh tự hỏi: Vì sao mọi người đều chỉ nói đến chiến thắng?

Có thể là nhiều người tin vào sự hung mãn của đoàn quân đầy sinh lực sau một thời gian luyện tập, và đặc biệt là tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ sau chỉnh quân chính trị. Anh đã biết sức mạnh tinh thần có tính quyết định như thế nào đối với trận đánh. Nhưng không phải chỉ với sức mạnh tinh thần mà ta lúc nào cũng chiến thắng quân địch! Nhiều cán bộ của anh đã qua hàng trăm trận lớn, nhỏ, không phải không biết điều này! Anh chợt nhận ra… Đây chính là lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, của Bộ Tổng tư lệnh, kinh nghiệm của các cố vấn, vào chính những người đang chỉ huy họ. Lòng tin này không phải ngẫu nhiên mà có. Nó đã được xây dựng từ những năm Bác về hang rừng Pác Bó dựng cờ khởi nghĩa, cuộc kháng chiến 3.000 ngày cực kì gian khổ, những chiến thắng nối tiếp chiến thắng, qua từng chiến dịch bao người ngã xuống, nhưng cứ mỗi mùa khô lên đường đều tin rằng chiến công lần này còn lớn hơn lần trước . Cũng chính niềm tin này đã mang lại cho họ khi nhận nhiệm vụ ý nghĩ là mình có thể hy sinh, đơn vị mình có thể bị tổn thất nặng nề, đó là cái giá phải trả, nhưng trận đánh nhất định sẽ thành công. Không ai muốn bị mang tiếng là thiếu tin tưởng, là dao động trước một trận đánh lịch sử. Điều này đã buộc mọi người không thể lên tiếng nói về khó khăn của đơn vị mình. Sự im lặng sai lầm và vô cùng nguy hiểm hiện nay chính là toàn thể cán bộ, chiến sĩ đều đặt lòng tin tuyệt đối vào sự sáng suốt, chủ trương của trên!

Gánh nặng dường như dồn trên vai anh, người được Đảng trao trách nhiệm chính đối với trận đánh.

Anh hình dung những cơn mưa đại bác điên cuồng, máy bay địch chiếc dội bom, chiếc lao xuống bắn phá, những cán bộ, chiến sĩ ngã trước hàng rào dây thép gai, những đơn vị bộ binh nằm trong đồn địch giữa ban ngày, những thương binh không được cứu chữa… Nhiều con người cụ thể hiện lên trước mắt anh, họ là những đồng chí, đồng đội đã chiến đấu với anh từ ngày thành lập Giải phóng quân, ngày Toàn quốc kháng chiến, những người mới ra đi từ ruộng đồng, từ mái trường, từ vùng tạm chiến… mà anh mới gặp trên đường hành quân.

Giờ này pháo binh đã vào vị trí, các đại đoàn đều có mặt ở tuyến xuất phát xung phong. Quyết đinh hoãn trận đánh sẽ tác động đến tinh thần bộ đội như thế nào…?

Nhưng đây là trách nhiệm mà anh không thể thoái thác. Dù có thế nào vẫn không thể tiến hành trận đánh ngày mai. Anh tin là không giống như ngày đầu tới mặt trận, lúc này anh đã có đủ yếu tố để đặt lại vấn đề.

Phải họp ngay Đảng ủy Mặt trận… Suốt đêm anh chỉ mong trời chóng sáng.

❖ 6 ❖

Sáng 26, sương mù dày đặc trong rừng Nà Tấu, trưởng đoàn phiên dịch Hoàng Minh Phương đang rửa mặt ở bờ suối thì đồng chí liên lạc chạy tới mời ngay tới gặp Chỉ huy trưởng.

Anh bước vào căn lán nhỏ, thấy Chỉ huy trưởng đã ngồi làm việc với tấm bàn đồ trên chiếc bàn tre, đầu quấn đày lá ngải cứu.

Chỉ huy trưởng nói:

- Cậu sang báo cáo đồng chí Vi là tôi có việc cần bàn gấp sáng nay, rồi về đây cùng đi với mình.

Cuộc họp của Đảng ủy Mặt trận đã được triệu tập vào sáng nay. Chỉ huy trưởng nhớ lại trước ngày lên đường, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao cho mình được quyền quyết định trong trường hợp khẩn trương bằng cách bàn bạc thống nhất trong Đảng ủy, thống nhất với Cố vấn, rồi báo cáo sau với Trung ương. Anh nghĩ nếu có sự thông nhất trước với cố vấn thì cuộc họp Đảng ủy sẽ thuận lợi hơn.

Trưởng đoàn cố vấn Vi Quốc Thanh ngạc nhiên nhìn sắc diện và nắm lá ngải cứu trên đầu Chỉ huy trưởng hỏi:

- Sức khỏe của Võ Tổng thế nào?

- Tôi vẫn bình thường, đêm qua hơi bị nhức đầu, đồng chí y sỹ điều trị theo kiểu đông y, giờ đã dễ chịu.

Khi Chỉ huy trưởng đã ngồi vào bàn, đồng chí Vi hỏi:

- Trận đánh sắp bắt đầu. Đề nghị Võ Tổng cho biết tình hình tới lúc này ra sao?

- Đó là vấn đề tôi muốn trao đổi với đồng chí Trưởng đoàn. Qua theo dõi tình hình, tôi cho rằng quân địch ở Điên Biên Phủ không còn trong trạng thái lâm thời phòng ngự, mà chúng đã có một tập đoàn cứ điểm phòng ngự kiên cố. Vì vậy không thể đánh theo kế hoạch đã định.

Đồng chí Vi chăm chú nhìn Chỉ huy trưởng. Anh nói tiếp:

- Có ba khó khăn lớn mà bộ đội Việt Nam chưa thể vượt qua: Một là: Các đơn vị chủ lực của chúng tôi cho đến nay mới có khả năng cao nhất là tiêu diệt một tiểu đoàn địch tăng cường trong công sự vững chắc như ở Nghĩ Lộ. Ở Nà Sản cuối năm 1952, một trung đoàn đánh một tiểu đoàn địch trong công sự dã chiến mà chưa thành công. Nay địch có 11 tiểu đoàn với hơn bốn chục cứ điểm, binh lực, hỏa lực mạnh hơn rất nhiều, lại có công sự vững chắc và hệ thống vật cản dày đặc. thì rất khó thắng, mặc dù một năm qua bộ đội có nhiều cải tiến. Hai là: Trong trận này ta có thêm lựu pháo và cao xạ, đã được các đồng chí giúp đỡ huấn luyện, có kết quả tốt, nhưng bộ pháo hiệp đồng quy mô lớn mới là lần đầu, lại chưa qua diễm tập. Vừa qua, có trung đoàn trưởng đã đề nghị trả bớt hỏa lực trợ chiến về cho Bộ! Ba là: Nhự đồng chí đã biết, không quân Pháp rất mạnh, nay lại thêm không quân Mỹ tăng cường. Bộ đội chúng tồi lâu nay quen tác chiến ban đêm với những địa hình dễ ẩn náu để hạn chế chỗ mạnh của địch về không quân và pháo binh. Nay phải chiến đấu liên tục cả ngày và đêm với kẻ địch có ưu thế về máy bay, pháo và xe tăng trên địa hình trống trải, thì rất khó hoàn thành nhiệm vụ. Tất cả những khó khăn này ta đều chưa bàn kĩ cách giải quyết. Tình hình địch hiện nay đã khác trước nhiều, Nếu đêm nay ta không tiêu diệt được pháo địch, ban ngày địch dùng pháo bắn phá, không quân oanh tạc, và bộ binh cùng xe tặng phản kích thì bộ đội ta khó có đường rút và pháo cũng không kéo ra!

Chỉ huy trưởng kết luận:

- Nếu đánh theo cách hiện nay là thất bại.

Đồng chí Vi suy nghĩ một lát rồi hỏi:

- Vậy theo ý Võ Tổng thì nên xử trí như thế nào?

- Ra lệnh hoãn cuộc tiến công chiều hôm nay, kéo pháo ra, thu quân về vị trí tập kết. Chuẩn bị lại theo phương châm “đánh chắc, tiến chắc”.

Sau giây lát suy nghĩ, đồng chí Vi nói:

- Tôi đồng ý với Võ Tổng. Tôi sẽ làm công tác tư tưởng với các đồng chí trong Đoàn cố vấn.

- Thời gian gấp rút. Tôi sẽ họp ngay Đảng ủy để quyết định. Tôi đã có dự kiến cho đại đoàn 308 tiến về Luông Phabang, cố ý bộc lộ lực lượng chừng nào kéo không quân địch về hướng đó, không để chúng gây khó khăn khi ta kéo pháo ra và lui quân.

Cuộc trao đổi diễn ra khoảng hơn nửa giờ. Chỉ huy trưởng không nghĩ nó sẽ nhanh chóng như vậy. Anh cho rằng đồng chí Vi đã nhận thấy khó khăn trong quá trình chuẩn bị, và không thể tiến hành trận đánh khi tư lệnh Mặt trận không tin vào sự thành công. Anh nghĩ Trưởng đoàn cố vấn sẽ không dễ dàng thuyết phục các chuyên gia đã cho rằng chỉ có đánh nhanh thắng nhanh mới giành thắng lợi.

50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, chúng ta mới biết thêm. Trong thời gian ở mặt trận, Trưởng đoàn cố vấn Vi Quốc Thanh luôn luôn gửi báo cáo về Bắc Kinh. Ngày 21 tháng 1 năm 1954, đồng chí Vi một lần nữa gửi điện phản ánh cả trung đoàn 312 kéo pháo vào trận địa, nhưng qua sáu ngày sáu đêm, chỉ tiến được 12 cây số, bộ đội mệt mỏi lắm rồi mà pháo vẫn chưa vào trận địa. Bản thân Vi Quốc Thanh đã nhận thấy những khó khăn của ta, nên khi Chỉ huy trưởng đưa ra ý kiến thay đổi cách đánh, đồng chí nhất trí ngay, mặc dù chưa nhận được trả lời của Quân ủy Trung ương Trung Quốc. Đối với trưởng đoàn cố vấn, đây là một quyết định đầy trách nhiệm và dũng cảm. Ba ngày sau, ngày 27 tháng 1 năm 1954, Quân ủy bạn trả lời đồng chí Vi: “Đánh Điện Biên Phủ, nên áp dụng cách đánh chia cắt, bao vây tiêu diệt từng toán một. Chỉ cần tiêu diệt gọn bốn, năm tiểu đoàn, thì quân địch trong Điện Biên Phủ sẽ hoang mang dao động, hoặc sẽ tháo chạy về phía Nam, hoặc sẽ phải tiếp tục tăng viện. Cả hai tình huống này đều có lợi cho ta” (9)

❖ 7 ❖

Khi chỉ huy trưởng về sở chỉ huy, các đồng chí trong Đảng ủy đã có mặt đông đủ.

Chỉ huy trưởng trình bày những suy nghĩ đã có từ lâu chung quanh cách đánh tập đoàn cứ điểm, những thay đổi quan trọng về phía địch từ sau hội nghị Thẩm Púa tới nay, những khó khăn mà chúng ta chưa thể vượt qua, ta vẫn giữ nguyên quyết tâm tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ, nhưng phải thay đổi cách đánh. Ta sẽ cho 308 mở một mũi vu hồi sang Thượng Lào làm lạc hướng quân địch, trong khi rút pháo và bộ đội ra khỏi trận địa để chuẩn bị lại theo cách đánh mới.

Mọi người im lặng một lúc.

Chủ nhiệm Chính trị Lê Liêm lên tiếng trước:

- Ta đã động viên sâu rộng bộ đội về nhiệm vụ rồi, anh em đều rất tin tưởng, quyết tâm chiến đấu rất cao. Các đơn vị, các binh chủng đều đều trong tư thế sẵn sàng nổ súng. Nay phải lui quân và kéo pháo ra, khác nào như dội nước lạnh vào đầu, thì giải thích làm sao? Sau này động viên lại để có quyết tâm và tin tưởng như bây giờ không phải dễ.

Chủ nhiệm Đặng Kim Giang nói:

- Tôi thấy cứ nên giữ vững quyết tâm. Hậu cần chuẩn bị tới bây giờ đã khó khăn. Nếu không đánh ngay, sau này càng không đánh được! Gạo không đưa lên được, bộ đội đói thì sức đâu mà đánh? Đánh cách nào thì cũng tính đến khả năng đảm bảo tiếp tế. Nhiều khi gạo là tư lệnh, là yếu tố quyết định!

Chỉ huy trưởng nói:

- Tinh thần bộ đội là rất quan trọng, nhưng quyết tâm phải có cơ sở… Hậu cần là điều kiện tiên quyết, nhưng cuối cùng, quyết định là phải có cách đánh đún