← Quay lại trang sách

Chương XVIII MARATHON MÙA XUÂN
❖ 1 ❖

Ngày 26 tháng 1 năm 1954, theo kế hoạch của Bộ chỉ huy Mặt trận, đại đoàn 308 có mặt ở khu rừng rậm phía Tây chung quanh khe núi Hồng Lếch, sẵn sàng cho cuộc tiến công trước khi trời tối vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Các cơ quan của đại đoàn được bố trí dọc ngay khe suối. Chúng tôi không được lệnh làm hầm hào, nên hiểu đây chỉ là chỗ chú chân tạm thời trước khi di chuyển theo trận đánh.

Bữa trưa, anh nuôi đưa kèm theo mỗi người hai nắm cơm. Cũng lúc đó, một người thấp đậm, mặc quần áo dân sự được liên lạc dẫn tới tòa soạn. Tôi mừng rỡ nhận ra họa sĩ Nguyễn Sáng. Sáng nói:

- Tôi và anh Nguyễn Đình Thi đi theo anh Lê Quang Đạo từ cơ quan chính trị Mặt trận xuống đây. Anh Thi ở chỗ Bộ tư lệnh đại đoàn. Phó chính ủy Lê Vinh Quốc bảo tôi sang đây cùng đi theo các anh chiều nay.

Tôi mời Sáng ăn cơm, và bảo người kiếm thêm cho anh một suất cơm chiều và sang mai, rồi nói:

- May cho chúng tôi quá! Đang cần có một cái tranh cổ động gửi cho bộ đội trước giờ xuất phát. Mọi người ở tòa soạn, anh Hồ Phương thường làm việc này, nhưng Phương đã xuống đơn vị chiến đấu, anh giúp chúng tôi được không?

- Chắc chắn là được rồi, nhưng vẽ cái gì thì anh phải bảo tôi.

- Anh vẽ cho một chiến sĩ cầm lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” đứng trên nóc hầm của quân Pháp cùng với khẩu hiệu “ Quyết tâm tiêu diệt Trần Đình” (1) Tranh sẽ in trên đá, và chúng tôi chỉ có mực in màu đen và màu đỏ.

Sáng lập tức bắt tay vào việc. Anh vừa làm vừa bàn với chúng tôi:

- Chiều nay đi với bộ đội như thế nào?

- Chúng tôi chưa được phổ biến gì. Trong chiến dịch thì sở chỉ huy đại đoàn ở tại chỗ. Nhưng lần này, toàn đại đoàn là một mũi tiến công chắc sẽ phải di chuyển theo bộ đội.

- Tôi cứ bám các anh thôi. Các anh đi đâu mình đi đấy.

Buổi chiều,những tấm áp phích tuy chưa khô hẳn nhưng vẫn được đóng gói để kịp chuyển cho các đơn vị.

Chúng tôi đang ngồi tán ngẫu chờ lệnh thì nghe tiếng pháo rít trên đầu. Rất nhanh, những loạt đại bác nối tiếp nhau lao xuống khe suối Hồng Lếch. Tôi kéo Sáng chạy theo, tìm cho Sáng và mình một khe đá bên bờ suối. Suốt dọc suối mờ mịt khói khét lẹt, liên tiếp bùng lên những ngọn lửa đỏ khé và tiếng nổ chát chúa của đại bác. Có thể địch đã phát hiện sở chỉ huy của đại đoàn chủ công, mọi người nói với nhau.

Vừa dứt tiếng pháo, có lệnh di chuyển. Chúng tôi vội vã xốc ba lô lên vai, tưởng đi ra cánh đồng về phía Mường Thanh, mục tiêu tiến công chiều nay, nhưng lại được dẫn ngược lên núi. Chúng tôi nghĩ đây là đi tránh pháo vì nơi trú ẩn chưa có công sự đã bị lộ.

Chúng tôi cứ đi dần lên đỉnh núi. Máy bay khu trục của địch vẫn tiếp tục lao xuống bắn phá những khu rừng chung quanh tập đoàn cứ điểm. Đã qua giờ nổ súng rồi, sao chưa nghe tiếng pháo của ta. Trời tối dần. Lên đỉnh núi, gặp một con đường mòn và cứ đi miết không ngừng. Bầu trời chi chit sao. Thung lũng Điện Biên ở ngay sau lưng chúng tôi đã trở lại yên tĩnh, thỉnh thoảng mới có một tiếng pháo. Như thế là trận đánh đã không diễn ra đêm nay ư…? Chúng tôi đã nhận ra mình đang đi về phía Tây.

Trời sáng. Nguyễn Sáng được mời lên Bộ tư lệnh đại đoàn, và không thấy quay trở lại.

Sau đó, chúng tôi mới biết những gì diễn ra chiều hôm trước.

14 giờ 30, Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ được gọi tới điện thoại gặp Chỉ huy trưởng chiến dịch.

Vẻ mặt Đại đoàn trưởng lộ vẻ căng thẳng. Anh chỉ đáp tiếng “Rõ” và cuối cùng hỏi lại:

- Xin chỉ thị về sử dụng binh lực như thế nào?

Vẻ mặt anh càng căng thẳng, cuối cùng anh nói:

- Rõ. Xin triệt để chấp hành mệnh lệnh.

Vũ đứng ngẩn một lúc với chiếc điện thoại trong tay. Vũ quay lại nhìn Lê Quang Đạo. Đạo là Cục trưởng Cục Tuyên huấn, là Phó chủ nhiệm Chính trị chiến dịch. Trong chiến dịch này, chính ủy Song Hào của 308 bị mệt không có mặt, Bộ chỉ huy chiến dịch đã cử Đạo tăng cường cho 308 làm Quyền chính ủy. Vũ kể lại Chỉ huy trưởng vừa trao nhiệm vụ cho 308:” Tình hình thay đổi. 308 có nhiệm vụ hướng về Luông Phabăng tiến quân. Dọc đường, gặp địch tùy điều kiện cụ thể mà tiêu diệt. Giữ vững lực lượng, có lệnh trở về ngay. Giữ liên lạc vô tuyến điện. Khi được hỏi, mới trả lời”. Khi hỏi về sử dụng lực lượng, đại tướng nói: ”Toàn quyền quyết định, từ một tiểu đoàn đến toàn đại đoàn. Cung cấp tự giải quyết. Đúng 4 giờ chiều nay, xuất phát”.

Vũ hỏi Đạo:

- Anh ở Mặt trận vừa xuống, anh có ý kiến gì không?

Đạo nói:

- Tôi không biết gì hơn các đồng chí. Khi tôi còn ở Mặt trận chưa có quyết định này. Nhưng tôi nghĩ, Đảng ủy Mặt trận đã thay đổi kế hoạch đánh vào Điện Biên Phủ. Trong mệnh lệnh có nói:” Giữ liên lạc vô tuyến điện”, như vậy chắc sẽ còn những mệnh lệnh tiếp theo. Mệnh lệnh cũng có nói: ”Giữ vững lực lượng, có lệnh, trở về ngay”. Như vậy, đại đoàn chỉ đi một thời gian, sau đó sẽ quay lại tiếp tục nhiệm vụ.

- Tại sao trên cho phép ta được sử dụng lực lượng từ một tiểu đoàn đến cả đại đoàn?

- Có thể hiểu là trên muốn đưa nhiều lực lượng sang phía Tây, nhưng vì biết ta không có lương thực, vậy ít nhất cũng phải đưa đi một tiểu đoàn.

Vũ nhìn đồng hồ rồi nói:

- Tôi đề nghị triệu tập ngay Thường vụ Đảng ủy đại đoàn.

Nửa giờ sau, toàn bộ các ủy viên Thường vụ có mặt. Những người từ các trung đoàn lên đều mang theo cơm nắm, bánh trưng, ống bương nước, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu đêm nay và ngày mai.

Vũ phổ biến mệnh lệnh của Chỉ huy trưởng Mặt trận, rồi hỏi:

- Tình hình lương thực của bộ đội như thế nào?

Chủ nhiệm hậu cần nói:

- Trung bình toàn đoàn chỉ còn hai ngày gạo. Riêng đại đoàn bộ, mỗi người ngoài hai nắm cơm và số lương khô, chỉ còn năm lạng gạo.

Vũ nói:

- Còn có khó khăn gì, các đồng chí nêu hết để ta bàn cách khắc phục.

Vấn đề địch không đặt ra. Vì ta biết tinh thần bạc nhược của binh lính Pháp và quân ngụy Lào. Nhưng khó khăn không ít. Thứ nhất, là không có lương thực. Thứ hai, chiến trường hoàn toàn chưa được chuẩn bị, ta chưa có cơ sở quần chúng ở nơi sắp đưa quân tới. Thứ ba, chưa biết đường đi, sẽ phải qua nhiều sông mà hoàn toàn không có phương tiện vượt sông.

Chờ mọi người nói xong, Vũ nói:

- Đầu năm nay, khi ta truy kích địch từ Sầm Nưa về Xiêng Khoảng, tình hình cũng đúng như thế này. Trên đường truy kích, bộ đội chỉ có gạo rang, không biết đường chỉ nhìn theo dấu dày địch mà đi, không có dân, không có phương tiện vượt sông, nhưng bộ đội vẫn hoàn thành nhiệm vụ. Ta phải coi dân Lào ở vùng tạm chiếm cũng là dân của ta. Nếu có dân thì không sợ không có người chỉ đường, không có người giúp phương tiện qua sông, không có người cung cấp lương thực. Quân lệnh như sơn! Tôi quyết định đi cả đại đoàn. Các đồng chí có ý kiến gì khác không?

Không ai phản đối.

Vũ nói tiếp:

- Tham mưu phối hợp với Cung cấp tổ chức những bộ phận đi trước, có trinh sát, quân báo và cán bộ cung cấp, vừa thăm dò đường, điều tra tình hình địch, vừa tranh thủ huy động lương thực. Đúng 4 giờ chiều xuất phát. Ra lệnh cho trung đoàn 88 đang làm nhiệm vụ kéo pháo xuất phát sau, khẩn trương đuổi theo những đơn vị đi trước.

Cuộc họp vừa kết thúc thì pháo của địch từ Mường Thanh bắn vào khe Hông Lếch.

Tiếng súng vừa dứt, Đại đoàn trưởng ra lệnh xuất phát vừa để khẩn trương thi hành mệnh lệnh của trên, vừa để tránh nguy hiểm vì có thể địch đã phát hiện được khu vực sở chỉ huy đại đoàn.

❖ 2 ❖

Núi rồi lại núi. Hết lên dốc, xuống dốc lại leo đèo. Các chiến sĩ của đại đoàn 308 nhìn nhau:” Lại sang ‘ông chú’ rồi!”. Từ sau chiến dịch Thượng Lào, bộ đội có nhận xét:” Sang “ông bác’ thì đường bằng, phố xá đông vui, thanh niên nhảy ’ương ca’ chào đón, sang ‘ông chú’ thì chỉ thấy núi rừng, đèo dốc, khó tìm cả một khoảng đất bằng ngồi nghỉ chân”. Làm sao lại như thế này? Đáng lẽ đánh vào Điện Biên Phủ mà bây giờ họ lại ở đây? Họ đang đi đâu? Chỉ là sự ngạc nhiên, là câu hỏi về một điều chưa biết, không phải là thắc mắc về chủ trương. Vì xưa nay mỗi khi có sự thay đổi lại thường dẫn đến chiến thắng mới. và những băn khoăn này cũng không kéo dài.

Ngày 29 tháng 1 năm 1954, 308 hành quân tới Sốp Nạo, cách Điện Biên Phủ 80 km. Bộ chỉ huy chiến dịch thông báo, theo tin kĩ thuật, địch phát hiện 308 tiến về hướng này, bắt đầu rút chạy về hướng Mường Sài, Luông Phabăng. Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh cho đại đoàn lập tức truy kích.

308 đã biết thế nào là truy kích. Truy kích có nghĩa là một cuộc chạy đua về phía trước, không có ngày, không có đêm, không có ăn, không có ngủ, nhiều khi không có cả nước uống, đơn vị không cần giữ đội hình, ai có sức thì cứ chạy lên trước, miễn sao đuổi được địch.

Bộ tư lệnh 308 quyết định chia đại đoàn làm hai bộ phận truy kích. Sở chỉ huy đại đoàn cũng chia hai. Vương Thừa Vũ và Lê Quang Đạo cùng với sở chỉ huy đại đoàn và các trung đoàn 36,88 đi về hướng Luông Phabăng. Đại đoàn phó Cao Văn Khánh và một sở chỉ huy nhẹ của đại doàn đi với trung đoàn 102 về hướng Mường Sài.

Cuộc Marathon màu Xuân bắt đầu. Cán bộ, chiến sĩ đều biết cuộc chạy đua này chỉ kết thúc khi họ bắt kịp và tiêu diệt hết quân địch.

Hướng Mường Sài, Trung đoàn trưởng 102 Hùng Sinh mang theo một tổ liên lạc và một điện đài nhỏ đi cùng với tiểu đoàn 18 dẫn đầu đội hình trung đoàn. Ròng rã hai ngày đêm hành quân, ngày 28 tháng 1 tiểu đoàn tới một bản nhỏ, dân chúng đã chạy cả vào rừng, thì gặp sở chỉ huy nhẹ của Đại đoàn phó Cao Văn Khánh. Cùng lúc đó, người chiến sĩ mật mã chuyển cho đại đoàn phó bức điện của Bộ chỉ huy Mặt trận báo tin địch đã phát hiện 308 xuất hiện ở Thượng Lào, và rút chạy khỏi Mường Khoa.

Trung đoàn 102 đuổi theo quân địch suốt hai ngày một đêm, chiều ngày 30 tháng 1, dừng bước trước một con sông. Xem bản đồ biết đây là sông Nậm Hu. Không có thuyền sang sông, các chiến sĩ chặt luồng và lấy nilông che mưa gói ba lô làm phao từng tổ ba người bơi qua sông lạnh buốt. Nửa đêm, trung đoàn mới sang sông hết. Họ đang ngồi nhai mấy nhúm gạo rang cho ấm bụng thì có một chiến sĩ từ phía trước quay lại.

Đây chính là một chiến sĩ quân báo của đại đoàn, do Tham mưu phó đại đoàn Mai Hữu Thao chỉ huy đã lên đường trước họ, đang đuổi theo quân địch rút chạy. Trời đêm rét buốt, nhưng quần áo người chiến sĩ ướt đẫm mồ hôi. Trung đoàn trưởng Hùng Sinh nhận được một mảnh giấy nhỏ có chữ: ”Đã bám được địch. Đêm nay chúng nghỉ lại ở bản Đ.T”.

Hùng Sinh hỏi:

- Bản Đ.T cách đây bao xa?

Anh chiến sĩ ước lượng rồi đáp:

- Khoảng 8 km.

Cả đoàn quân vừa ăn nốt nhúm gạo rang, uống hết ngụm nước cuối cùng trong ống bương như bừng tỉnh, theo lệnh trung đoàn trưởng lập tức đuổi theo quân địch.

Bản Đ.T vắng lặng không một bóng người.

Người chiến sĩ quân báo được Tham mưu phó đại đoàn trao nhiệm vụ ở lại đón bộ đội, cho biết địch chỉ dừng lại ở đây ăn cơm, sau đó lại rút chạy luôn. Chúng đi tiếp về phía Mường Sài. Tham mưu phó đại đoàn và tổ quân báo đã tiếp tục đuổi theo quân địch.

Mờ sáng hôm sau, ngày 31,đại đội 261 đi đầu nghe thấy trên quả đồi cạnh một bản nhỏ có tiếng người, họ chăm chỉ nhìn phát hiện ra tên lính dịch mặc áo vàng. Thì ra quân địch đi xa hơn để tìm một chỗ hạ trại và tổ chức trận địa phòng ngự.

Đại đội trưởng Lê Huy Vấn nhận thấy quân địch khá đông, lực lượng ta chỉ mới có một đại đội, sau khi trao đổi với chính trị viên Hoàng Tạo vẫn quyết định chia làm hai mũi tiến công. Họ tin rằng sau khi nổ súng, các đơn vị đi sau sẽ nhanh chóng dồn lên mau.

Cũng lúc đó, phía trước đột nhiên tiếng súng máy nổ ran phá tan bầu không khí yên lặng. Những toàn quân địch ở trong bản trở nên rối loạn. Lừa ngựa hoảng loạn hí ầm ĩ, nhiều con giật tung dây cương, chạy lồng lên như hóa dại. Quân địch mất phương hướng, toán chạy ngược toán chạy xuôi.

Tiếng súng phía trước là của phân đội quân báo cùng đi với Tham mưu phó đại đoàn Mai Hữu Thao. Trên đường đuổi theo quân địch, Tham mưu phó đã gặp một đại đội Pathét Lào đang hành quân. Họ bàn nhau phối hợp đánh địch. Nhờ các chiến sĩ địa phương biết đường, Mai Hữu Thao đã đưa cả hai phân đội luồn rừng lên phía trước quân địch đang rút chạy, làm một cái nút chặn lại chờ 102 tới mở cuộc tiến công. Khi trời sáng, đoán trung đoàn 102 đã gần tới nơi, Mai Hữu Thao lệnh cho bộ đội nổ súng tiến công quân địch đã bị chặn lại, cần thật nhanh chóng tiến lên tiêu diệt địch.

Họ chưa biết trước mặt là cả binh đoàn của Vaudrey. Chúng chia làm hai cụm phòng ngự trên các ngọn đồi. Cụm thứ nhất có tiểu đoàn Tabor số 5 và hai đại đội ngụy Lào. Cụm thứ hai có tiểu đoàn lê dương số 2 và một đại đội ngụy. hai cụm phòng ngự của địch ở cách nhau khoảng 1000 mét.

Đại đội 261 bắt đầu nổ súng tiến công. Quân địch chống trả quyết liệt. Vaudrey hy vọng cầm cự một thời gian sẽ có máy bay tới trợ lực và quân của Crèvecoeur đến cứu nguy. Vấn bị thương ở hai cánh tay, phải nằm tại chỗ truyền lệnh cho bộ đội. Hai mũi tiến công của 261 vẫn tiếp tục xông lên.

Binh lính Tabor thấy bộ đội ta dũng mãnh xung phong, bỏ những công sự đang đào dở chạy vào rừng. Bọn lính lê dương nhận thấy lực lượng ta không đông ngoan cố chống cự. Tiểu đoàn 54 và tiểu đoàn 79 đi sau nghe tiếng súng nhanh chóng dồn lên. Trung đoàn trưởng Hùng Sinh biết có một bộ phận của quân địch đã rút chạy về phía Mường Sài, ra lệnh cho tiểu đoàn 18 tách khỏi trận địa đuổi theo quân địch, hai tiểu đoàn mới tới tiếp tục tiến công quân địch. Trận đánh kéo dài đến tối. Ta bỗng thấy trận địa địch im tiếng súng. Trinh sát bò lên đồi thì thấy những công sự của địch không còn người. Chúng đã lợi dụng trời tối, rút chạy qua một khe núi. Hùng Sinh ra lệnh cho hai tiểu đoàn đuổi theo. Gần sáng ngày 1 tháng Hai, tiểu đoàn 79 tìm thấy quân địch đang ẩn náu trong một khu rừng. Bộ đội ta lập tức bao vây, nổ súng và kêu gọi quân địch đầu hàng. Những tên lính lê dương không còn nghĩ tới chuyện chống cự, hoặc hạ vũ khí hoặc tháo chạy.

Chiều ngày 31, tiểu đoàn 18 truy kích địch bắt kịp toán quân đi trước của Vaudrey. Bọn này tưởng bọn đi sau đã bị tiêu diệt, không dám chống cự, bỏ chạy vào rừng tìm đường về Mường Sài. Tiểu đoàn 18 tiếp tục truy lùng quân địch. Trên đường về Mường Sài, quân ta và quân địch đan vào nhau, quân Vaudrey chạy trước, tiểu đoàn 18 đuổi theo, phía sau tiểu đoàn là quân của Cabaribé rồi đến quân của tiểu đoàn 79.

Qua một ngày đêm chiến đấu, trung đoàn 102 xóa sổ tiểu đoàn 2 trung đoàn lê dương số 4(2/4REI), đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn Tabor. Trong số tù binh ta và bạn bắt được có viên thiếu tá Cabaribé, phó chỉ huy binh đoàn và viên đại úy Lambert.

❖ 3 ❖

Trên hướng Nậm Bạc, Luông Phabăng, tiểu đoàn 89 dẫn đầu trung đoàn 36 trên đường tiến quân.

Chiều 31 tháng 1 năm 1954, tiểu đoàn 89 tới bản Huổi Sen, cách đồn Mường Ngòi 5 km, mục tiêu đầu tiên của họ trên đường tiến quân. Trung đoàn phó Ngọc Dương ra lệnh cho bộ đội dừng lại chuẩn bị chiến đấu.

Cán bộ tiểu đoàn tiến lên phía trước trinh sát đồn địch chuẩn bị trận đánh sẽ diễn ra ngay sau đó. Họ nhận thấy đồn địch lạnh tanh. Một phân đội quân báo từ phía trước đi lại báo tin quân địch vừa rút chạy. Ngọc Dương, người đã dẫn một tiểu đoàn truy kích địch ở Sầm Nưa hồi đầu xuân, ra lệnh cho tiểu đoàn không phân đơn vị, ai có sức chạy nhạn lên phía trước đuổi cho kịp địch, gặp bất cứ bộ phận nào là tự ghép mình vào chiến đấu.

Sáng 1 tháng Hai, tiểu đoàn tới sông Nậm Hu, con sông hai ngày trước đó trung đoàn 102 đã vượt qua. Bờ sông vắng lặng không một bóng người. Sau khi rút chạy qua sông, quân địch đã dìm hết thuyền bè. Các chiến sĩ quân báo tản ra chung quanh đi tìm dân. Hồi lâu, trên sông xuất hiện bốn chiếc thuyền độc mộc, do bốn người dân đưa tới. Đợt đổ bộ đầu tiên sang bờ phía nam có bốn chiến sĩ quân báo và hai tiểu đội bộ binh. Những chuyến tiếp theo, chỉ chở vũ khí. Toàn tiểu đoàn dùng nilông, chặt vầu làm phao vượt sông.

Sang bên kia sông, họ bắt đầu nhìn thấy vết dày đinh của địch. Chúng đây rồi! Đói, mệt dường như tiêu tan. Cuộc “mãnh truy” tiếp tục. Sau một quãng đường dài, đại đội 395 và phân đội quân báo đi đầu bỗng nhìn thấy quân địch khá đông trên hai quả đồi trước mặt. Các chiến sĩ đã được phổ biến là tinh thần quân địch rút chạy rất bạc nhược, lập tức nổ súng. Quả nhiên, quân địch phía trước nhốn nháo. Bộ đội ta ngay lập tức lao về phía địch. Nhưng khi ta tới gần hai quả đồi, thì hàng chục khẩu đại liên, trung liên cùng lúc nhả đạn. Đại đội phó Giao và ba chiến sĩ bị thương. Giao gọi tiểu đội trưởng Châu lại nói:

- Không thể chỉ đánh vỗ mặt. Hãy tìm đường bí mật tiếp cận diệt một vài ụ súng rồi xung phong ngay.

- Tuân lệnh

Châu ra lệnh cho anh em chuẩn bị sẵn sàng, rồi xách tiểu liên luồn qua những đám cây lúp xúp bên đường, vòng sang trái, bò theo sườn đồi, đến gần trận địa của địch, bất thần lia một loạt tiểu liên diệt ngay một ụ súng máy và thét to:

- Xung phong….!

Các chiến sĩ lập tức xông lên, vừa chạy vừa lia tiểu liên, vừa ném lựu đạn. Cả tuyến súng máy của địch bị đánh bất ngờ vỡ tung, hoảng hốt bỏ chạy.

Cuộc truy kích của ta vẫn không hề ngừng lại. Đuổi địch thêm một quãng ta lại vấp phải một trận địa phòng ngự trên một điểm cao cạnh đường. Cách bố trí của địch khá nghiêm mật. Ta đã có kinh ngiệm, nếu dùng hỏa lực súng cối, trung liên bắn mạnh và tổ chức nhiều mũi xung phong là quân địch nhanh chóng tan vỡ. Cả lần này cũng vậy. Trong ngày hôm đó, tiểu đoàn 89 đã liên tiếp đánh mười trận lớn, nhỏ, tiêu diệt và đánh tan hơn một tiểu đoàn quân ngụy, thu khá nhiều vũ khí quân dụng.

Chiều hôm sau, ngày 2 tháng Hai, phía trước tiểu đoàn hiện ra một thung lũng với những thửa ruộng bậc thang bao quanh một cánh đồng rộng có một dòng sông uốn lượn, với nhiều bản làng xinh xắn. Những ngôi nhà sàn mái cao vút nằm giữa hàng dừa xanh mướt. Nổi lên giữa thung lũng là một khu đồn lớn. Họ đã tới Nậm Bạc.

Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Liệu quan sát đồn địch thấy binh lính chạy đi chạy lại nhốn nháo, một số tên địch đã ra khỏi đồn. Anh phán đoán địch đang chuẩn bị rút, quyết định tiến công luôn. Hàng chục khẩu trung liên của ta nã vào đồn. Cả kho vũ khí, quân trang, lương thực còn nguyên vẹn, và một bữa cơm còn nguyên vẹn chưa kịp ăn.

Tại Nậm Bạc có hai đường: một đường đi Nậm Ngà, Luông Phabăng, một đường đi Mường Sài, hướng do trung đoàn 102 phụ trách.

Tối ngày 2 tháng 2 năm 1954, đêm 29 Tết (2), trung đoàn 36 tiếp tục truy kích. Nửa đêm, trên đường đi Nậm Ngà, gặp một con suối, trung đoàn phó Ngọc Dương và phó chính ủy Hồng Cư hội ý với nhau và quyết định cho tiểu đoàn nghỉ lại đón giao thừa.

Sáng hôm sau, ngày 3 tháng Hai, đúng ngày mồng 1 Tết Giáp Ngọ, các chiến sĩ đại đội 395 vừa thức giấc thì một toán rất đông quân địch xộc và trú quân. Mọi người vội xốc ba lô, cầm súng chiến đấu. Một trận tao ngộ chiến. Tiếng súng nổ khắp nơi. Lực lượng ta rất mỏng, Trung đoàn phó Ngọc Dương trực tiếp chỉ huy súng cối yểm trợ cho bộ đội. Giữa lúc đó, nghe tiếng súng nổ ran, đại đội 397 đi sau, đã kịp thời chạy lên tiếp viện đánh bọc sườn quân địch. Đó là tiểu đoàn ngụy Thái số 1. Tiểu đoàn này từ Mường Sài được đưa về tăng cường cho Nậm Ngà đến đây thì chạm phải quân ta và bị tiêu diệt.

Đại đoàn trưởng Vương Thừa vũ đến giữa lúc bộ đội thu dọn chiến trường. Ban chỉ huy trung đoàn 36 cùng với hai tiểu đoàn đi sau đã tới nơi. Cả trung đoàn 88 làm nhiệm vụ kéo pháo, xuất phát sau đã kịp có mặt trong đội hình. Đại đoàn trưởng ra lệnh cho hai trung đoàn tiếp tục hướng về phía Luông Phabăng.

Trung đoàn trưởng Hồng Sơn cho tiểu đoàn 89 chiến đấu liên tục suốt thời gian qua, lui về phía sau, đưa hia tiểu đoàn 80 và 84 lên thay thế. Anh và chính ủy trung đoàn Chu Thanh Hương trực tiếp chỉ huy trung đoàn tiến lên Luông Phabăng.

Chiều ngày 7 tháng 2, tiểu đoàn 80 của 36 tới Pắc Sương, bắt được liên lạc với tiểu đoàn quân tình nguyện 970 và bộ đội Pathét Lào. Ở Pắc Sương địch có năm đại đội, nhưng đánh hơi thấy quân ta, chúng đã bỏ đồn tháo chạy.

36 đi tiếp tới một ngã ba sông. Đây là nơi sông Nậm Hu gặp sông Mê Công. Mặt sông mênh mang không một bong thuyền bè. Ngày 11 tháng 2, toàn trung đoàn vượt sông Mê Công với một số thuyền lớn của nhân dân Lào mang tới và những bè do đơn vị tự làm.

Chiều ngày 12, họ gặp một đồn tiền tiêu của Luông Phabăng ở phía Tây. Đây là đồn Bản Na nằm sâu trong hậu phương địch, nên công sự phòng thủ sơ sài. Chỉ với cối súng 60 ly và hỏa lực đại liên chi viện, tiểu đoàn 80 đã tiêu diệt gọn một trung đội lê dương và một trung đội ngụy Lào. Tàn quân địch tháo chạy về Luông Phabăng.

36 chỉ còn ở cách thủ đô Lào không đầy 20 kilômét.

Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh cho 308 dừng lại.

Qua hơn mười ngày truy kích trên chặng đường dài 200 kilômét bộ đội đánh nhiều trận, tiêu diệt và làm tan rã 17 đại đội địch, trong đó có 1 tiểu đoàn lính lê dương bị tiêu diệt gọn, thu hàng chục tấn vũ khí, đạn dược. Ta giải phóng toàn bộ lưu vực sông Nậm Hu, ước tính 10000 kilômét vuông, cô lập hoàn toàn Điện Biên Phủ.

Nhân lúc địch hoang mang, trung đoàn 148 đã cùng bộ đội Pathét Lào nhanh chóng giải phóng Bun Tầy, Bun Nừa, trực tiếp đe dọa tỉnh lỵ Phông Xa Lỳ.

❖ 4 ❖

Cho tới giờ phút này, những thuộc cấp của Navarre vẫn chưa hiểu vầ người chỉ huy mới của mình. Không ai nghi ngờ về tính thâm trầm và rất quyết đoán của ông ta. Nhưng với những việc làm của Navarre, mà phần lớn không ai ngờ tới khi nó chưa xảy ra, người ta vẫn chưa biết ông ta nghĩ gì trước tình hình chiến cuộc đang diễn ra.

Quyết định chiếm đóng Điện Biên Phủ, lúc đầu, ít nhất Navarre đã bị toàn bộ cơ quan tham mưu ở Bắc Bộ, kể cả Cogny và các tướng tá có liên quan đến cuộc hành binh này phản đối. Nhưng sau khi con nhím Điện Biên Phủ được thiết lập thì mọi người đều đồng tình với chủ trương này. Toàn bộ cơ quan tham mưu của Tổng chỉ huy ở Sài Gòn, cơ quan tham mưu của Cogny tại Bắc Việt đều thấy tổng chỉ huy đã tạo cơ hội cho một trận đối đầu có lợi mà quân viễn chinh Pháp đã hoài công tìm kiếm từ đầu chiến tranh nhằm tiêu diệt đội quân tác chiến của Việt Minh. Không riêng họ mà nhiều quan chức của Chính phủ Pháp, và những Chính phủ Mỹ, Anh có quan tâm đến chiến tranh Đông Dương đều nghĩ như vậy.

Nhưng Navarre nghĩ gì về con nhím Điện Biên Phủ, thì còn nhiều dấu hỏi.

Hồi tháng 12 năm 1953, sau khi đã ra chỉ thị tiếp nhận chiến đấu ở Điện Biên Phủ ( ngày 31 tháng 12). Navarre bống nhiên đề ra kế hoạch Xénophon đề phòng trường hợp xấu nhất quân đồn trú ở Điện Biên Phủ phải rút chạy về Lào. Ngày 1 tháng 1 năm 1954, trong một tờ trình gửi về Paris, Navarre viết:” Trong trường hợp bị tiến công, triển vọng chiến thắng của ta ra sao? Hai tuần trước đây, tôi đánh giá là 100%. Vì chung Điện Biên Phủ là một vị trí phòng thủ rất mạnh, có một sân bay tuyệt hảo.(…) Đây là cuộn chiến trên chiến trường do chúng ta lựa chọn. Nhưng trước sự xuất hiện những phương tiện mới của địch(...) tôi không dám bảo đảm chắc chắn chúng ta sẽ giành thắng lợi”.

Ngày 25 tháng 1 năm 1954, cơ quan tình báo đã báo cáo Tổng chỉ huy như đinh đóng cột, trận đánh Điện Biên Phủ sẽ diễn ra vào 17 giờ chiều. Trong khi mọi người hớn hở thì Navarre vẫn im lặng. Và không ai biết ông ta nghĩ gì khi trận đánh không diễn ra.

Ngày hôm sau, Navarre nghe báo cáo cuộc tiến công được lui lại một ngày. Trưa ngày 26, ông ta quyết định lên Điện Biên Phủ, mặc dù sân bay lúc này đã nằm dưới sự đe dọa của những khẩu sơn pháo 75 [Navarre chưa biết chắc chắn ta đã có lựu pháo 105 ly hay chưa]. Cùng đi với Navarre có cả Bộ trưởng phụ trách quan hệ các quốc gia liên kết Marc Jacquet, Cao ủy Dejean, Tướng năm sao Blanc và Cogny. Thủ tường Pháp Laniel đã trực tiếp thông báo cho Navarre và Dejean, ngài Bộ trưởng Marc Jacquet muốn xem xét đặc biệt các vấn đề về tình hình quân sự chung…, phẩm chất chiến đấu của các lực lượng, các điều khoản về quân sự cần thỏa thuận với các quốc gia liên kết. Họ tới Điện Biên Phủ để lượng định lần cuối cùng tình hình trận đánh. Castries xin lỗi, mong khách thông cảm vì điều kiện an toàn không thể tiến hành nghi lễ tại sân bay.

13 giờ 30, Castries đứng chờ bên xe, kéo vội các vị khách quý vào xe jeep rồi phóng nhanh về sở chỉ huy đã được bảo vệ bên trên bằng vòm sắt và một núi bao cát.

Sau đó,Castries đích thân lái xe Jeep đưa Marc Jacquet tới Béatrice (Him Lam) để quan sát trận địa chung quanh bằng ống nhòm. Những vị khách đi thăm hỏi sĩ quan và binh lính, không thấy một ai không tin vào thắng lợi của binh đoàn đồn trú trong trận đánh sắp tới.

Castries đưa họ tới sở chỉ huy pháo binh của Piroth. Sau khi nghe báo cáo về số lượng pháo tại Điện Biên Phủ, Marc Jacket nói với Piroth:

- Ở Triều Tiên, người Mỹ bố trí sau chiến tuyến hàng ngàn khẩu pháo, sao đại tá chỉ có ở Mường Thanh 24 khẩu 105 và 1 giàn trọng pháo 155? Tôi đã nhìn thấy ở Hà Nội có hàng trăm khẩu pháo không dùng tới, tại sao ông không xin đưa lên đây thêm một số?

Piroth phẫn nộ kêu lên:

- Tại sao ư? Ngài bộ trưởng hãy xem kế hoạch hỏa lực của tôi. Pháo ư, tôi đã có quá đủ!...

Bộ trưởng nhận thấy cả binh đoàn đồn trú, không trừ một ai, chỉ lo đối phương không dám tiến hành trận đánh mà họ trông chờ.

Navarre vẫn không tỏ thái độ trước vẻ hài lòng của các vị khách qua cuộc kiểm tra. Ông nhìn đồng hồ rồi ghé vào bên Jacket nói nhỏ:

- Chúng tôi có cảm tưởng là họ sẽ đánh đêm nay, tôi không muốn có điều gì bất trắc đối với bộ trưởng.

16 giờ 45, những chiếc Dakota đưa khách rời Mường Thanh.

Sáng 27, Marc Jacquet gọi điện rất sớm cho Navarre:

- Thế nào?

Theo Jules Roy thì Navarre đã trả lời bộ trưởng bằng một giọng ngao ngán:

- Họ không đánh!

Thật khó biết Navarre nghĩ gì sau mỗi câu nói. Ta sẽ cố tìm hiểu ý nghĩa thực của Tổng chỉ huy Pháp qua những việc làm. Có phải như mọi người miêu tả: Navarre đã tỏ ra ngán ngẩm hoặc thất vọng khi nhận được tin này? Hay đây chỉ là cảm giác của những người đang trông chờ trận đánh sẽ diễn ra.

Sau đó. Navarre được báo cáo qua bộ phận nghe trộm tin, có những dấu hiệu đại đoàn 308 bắt đầu di chuyển về đồng bằng. Ngày 28 tháng 1 năm 1954, Navarre nhận được điện riêng của Cogny:” Đại đoàn 308 đã bắt đầu di chuyển về hướng Tây – Nam. Những đơn vị tiền trạm của đại đoàn phải liên hệ với cán bộ cung cấp tại thượng Lào và Mường Khoa”. Đây lại là một tin rò rỉ từ công tác hậu cần của ta.

Navarre ra lệnh cho toàn bộ binh đoàn của Vaudrey lập tức rút lui, đúng như cách Salan đã làm trước đây trong chiến dịch Tây Bắc, không phải về phía kinh đô của nhà vua Lào, mà về Mường Sài ở phía Nam Luông Phabăng, nơi có một sân bay và những cao điểm.

Trước đòn tiến công bất ngờ của ta,Navarre lập một cầu hàng không tăng viện cho Thượng Lào. Ông ta điều trung đoàn bộ binh thuộc địa số 11, tiểu đoàn Tabor số 10, tiểu đoàn dù số 1 và tiểu đoàn khinh quân số 301 từ đồng bằng Bắc Bộ đến Mường Sài lập một tập đoàn cứ điểm. Bộ đội ta không ngừng tiến về Luông Phabăng. Navarre điều tiếp binh đoàn cơ động số 7 từ Bắc Bộ và tiểu đoàn 4 trung đoàn bộ binh số 4 từ Xiêng Khoảng đến Luông Phabăng lập thêm một con nhím thứ hai.

Navarre đã nhanh chóng xử lí cuộc tiến công của quân ta một cách có chủ định.

Chú thích:

1. Bí danh của Điện Biên Phủ lúc đó.

2. Ngày 29 tháng Chạp (thiếu) năm Quý Tỵ (tức ngày 2 tháng 2 năm 1954).