← Quay lại trang sách

Chương XIX CHỌN CÁCH ĐÁNH
❖ 1 ❖

Chỉ huy trưởng chiến dịch đánh giá việc kéo pháo ra sẽ khó khăn hơn kéo pháo vào, nếu phát hiện, địch có thể dùng pháo và máy bay, điều bộ binh đánh vào đường kéo pháo của ta. Trước đây, chúng đã từng đánh ra Mường Pồn và đưa cả một cánh quân sang Lào. Và để chuyển sang cách đánh mới, bộ đội ta cần có một thời gian dài chuẩn bị. Anh chợt này ra ý nghĩ đưa 308 sang Thượng Lào. Chỉ 308 mới tạo được sự chú ý đặc biệt của quân Pháp, tạo thuận lợi cho việc đưa pháo ra an toàn, và làm lạc hướng quân địch một phần nào. Nếu 308 đánh vỡ được phòng tuyến sông Nậm Hu thì đó cũng là một việc làm tích cực để chuẩn bị tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ sau này. Khi Đại đoàn trưởng 308 hỏi sử dụng bao nhiêu lực lượng, biết Vương Thừa Vũ từ ngày ở mặt trận Hà Nội, anh trả lời: “Từ một tiểu đoàn đến cả đại đoàn”. Câu trả lời chứng tỏ cấp trên hiểu rõ khó khăn của đơn vị nhưng tin ở người chỉ huy nên dành quyền cho đơn vị tự quyết định. Đây cũng là một nghệ thuật động viên tinh thần tích cực của cán bộ. Nhưng khi nghe báo cáo Vương Thừa Vũ ra lệnh cho cả đại đoàn tiến sang phía tây, anh rất ngạc nhiên.

Anh gọi Cục trưởng Quân nhu Nguyễn Thanh Bình trao nhiệm vụ đi ngay trong đêm, liên hệ với các đồng chí Lào nhờ huy động lương thực, đồng thời ra lệnh cho cơ quan tác chiến Mặt trận cấp tốc đưa một đội quân báo đi giúp 308 điều tra tình hình quân địch.

Đúng lúc bộ đội ở Điện Biên Phủ kéo pháo ra, tiếng súng trên chiến trường Tây Nguyên bắt đầu nổ. Như vậy là Nguyễn Chánh đã thuyết phục được Liên khu ủy 5 trao nhiệm vụ đối phó với chiến dịch Atlante cho lực lượng địa phương, đưa cả hai trung đoàn chủ lực tiến công lên Tây Nguyên. Công việc này chắc cũng khó khăn không kém việc anh đã làm ở đây. Một bộ phận lớn nhân dân Liên khu 5 chắc đã được huy động để phục vụ cho chiến dịch.

Đêm 26 tháng 1 năm 1954, bộ đội Liên Khu 5 tiêu diệt các vị trí Kà Tung, Ba Bả - Kà Tu, Búp Bê. Đêm 27, tiêu diệt tiếp Măng Đen, Măng Bút, Công Brây là những cứ điểm mạnh nhất trong hệ thống phòng thủ Bắc Tây Nguyên. Công Brây chỉ cách Công Tum 30 kilomet. Không ngờ chủ lực Liên khu 5 đã trưởng thành vượt bậc trong tác chiến công kiên. Đường vào Tây Nguyên đã để ngỏ.

Tây Nguyên nối liền hai miền đất nước, tiếp giáp với Hạ Lào và Bắc Campuchia, được các nhà quân sự Pháp coi là có vị trí chiến lược quan trọng bậc nhất: ai là chủ Tây Nguyên sẽ nắm được cả Đông Dương, Navarre không thể không đối phó trong trường hợp này.

Ngày 29 tháng 1 năm 1954, Cục 2 báo cáo toàn bộ quân địch suốt phòng tuyến sông Nậm Hu rút chạy, Chỉ huy trưởng thấy 308 đã làm được việc thu hút quân địch, và ra lệnh lập tức truy kích. Anh tin 308 sẽ làm tốt nhiệm vụ này vì đã có kinh nghiệm truy kích quân địch hồi đầu năm ở Thượng Lào.

Đêm 29 tháng 1, đến lượt cuộc tiến công của ta ở Hạ Lào bắt đầu.

Từ cuối tháng 11 năm 1953, tiểu đoàn 436 đã lên đường. Đoàn phải qua một cuộc hành trình 1.200 kilomet từ Nghệ An đến tập kết tại một vùng du kích của bạn ở tỉnh Atôpơ, Hạ Lào. Khó khăn lớn nhất là phải vượt một chặng đường rất dài dọc đỉnh Trường Sơn vắng bóng người và chưa có cơ sở. Nhiệm vụ tiếp tế, huy động dân công chuyển gạo đạn cho đoàn quân được trao cho hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh phụ trách từ Nghệ An tới sông Bến Hải; hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên làm tiếp tới Quảng Nam; từ Quảng Nam trở vào do Liên khu 5 phụ trách. Từ khi đoàn lên đường, Tổng tư lệnh luôn nghĩ đến Lê Kích, đồng chí Trung đoàn phó 101 đã được trực tiếp trao nhiệm vụ, sẽ làm cách nào giữ bí mật, an toàn, tới được vùng căn cứ của bạn đúng thời gian.

Rạng sáng ngày 30 tháng 1 năm 1954, tiểu đoàn 436 tiến công cứ điểm Pui, cứ điểm then chốt của Atôpơ, cách thị xã 19 kilomet, tiêu diệt sau 30 phút. Cùng lúc, đại đội quân tình nguyện Liên khu 5 và bộ đội, du kích Lào bao vây thị xã. Tưởng có một cánh quân lớn của Việt Minh từ phía bắc tràn xuống, quân địch ở thị xã Atôpơ hoảng hốt tháo chạy về Pắc Xế. Tiểu đoàn 436 lập tức cùng bạn đánh thẳng vào giải phóng thị xã. Trên đà thắng lợi, tiểu đoàn 436 đã cùng bạn Lào giải phóng toàn bộ cao nguyên Bôlôven mở rộng vùng giải phóng ở Hạ Lào thêm 20.000 kilomet vuông, nối liền với vùng giải phóng Bắc Tây Nguyên ở phía đông.

Ý nghĩ cấp thời đưa 308 về phía tây để đối phó trong khi kéo pháo ra đã được đơn vị biến thành một đòn chiến lược lợi hại. Hai trung đoàn của Liên khu 5 đã tạo biến chuyển lớn tại địa bàn chiến lược quan trọng Tây Nguyên. Một tiểu đoàn 460 đã làm thay đổi về cơ bản tình hình của địch tại Nam Lào.

Để phối hợp với mặt trận chính Điện Biên Phủ, chiến trường đồng bằng Bắc Bộ đã đẩy mạnh đánh phá giao thông vận tải, triệt phá kho tàng, phương tiện chiến tranh, uy hiếm hậu phương địch ngăn chặn không cho chúng tiếp tế cho Điện Biên Phủ, đồng thời động viên mọi lực lượng trong nhân dân huy động sức người, sức của chi viện cho Điện Biên Phủ và các chiến trường. Từ trung tuần tháng 1 năm 1954, Liên khu ủy tập trung lực lượng bộ đội địa phương cùng đại đoàn 320 mở cuộc tiến công phòng tuyến sông Đáy. Ta tiêu diệt vị trí Hoàng Đan, đột nhập thị xã Nam Định, đánh thiệt hại nặng binh đoàn khinh quân ngụy số 31. Ngày 7 tháng 2, địch phải điều hai binh đoàn cơ động số 4 và số 5 từ tả ngạn về hữu ngạn để cứu nguy, nhưng một vệt dài 30 kilomet trên phòng tuyến sông Đáy vẫn bị đập tan, chiếc áo giáp phía tây đồng bằng sông Hồng của quân Pháp đã bị chọc thủng.

Tại Nam Bộ, trong Đông – Xuân 1953 – 1954, Trung ương Cục đề ra ba nhiệm vụ chính của chiến trường là: giữ vững và đẩy mạnh chiến tranh du kích, củng cố và mở rộng vùng căn cứ, đẩy mạnh công tác ngụy vận. Phong trào chiến tranh du kích phát triển đều khắp trở lại các tỉnh miền Đông và miền Tây. Chiến thuật đặc công được áp dụng rộng rãi trong các cuộc tiến công vào hệ thống chiếm đóng nằm sâu trong vùng hậu cứ địch. Hệ thống tháp canh “Đờ Latua” đứng trước nguy cơ tan vỡ từng mảng. Ngay trong vùng đô thị, quân giặc cũng không được yên thân. Bộ đội đặc công Bà Rịa, Chợ Lớn đột nhập khách sạn Ô Cấp diệt một lúc hàng trăm sĩ quan Pháp. Cả Nam Bộ lúc này chỉ còn sáu tiểu đoàn cơ động chiến thuật không đủ sức ứng cứu cho đội quân tay sai đang rải ra để chống giữ một địa bàn rộng lớn. Địch co vào phòng ngự bị động, nhiều nơi cả ban ngày, chúng cũng không dám mò vào lùng sục ở những thôn xóm như trước Các tiểu đoàn chủ lực của phân liên khu, các tiểu đoàn tập trung của tỉnh đều tiến sâu vào vùng tạm chiến, san phẳng nhiều vị trí địch, đánh phục kích địch trên đường giao thông, đặc biệt là trận Tầm Vu tiêu diệt và bắt sống toàn bộ tiểu đoàn ngụy số 502 và đại đội ứng chiến số 13 của Pháp, thu hàng trăm súng cùng nhiều đồ dùng quân sự khác.

Không thể có sự phối hợp nào tốt hơn từ các chiến trường với mặt trận chính!

Tại Điện Biên Phủ, tất cả cán bộ, chiến sỹ đều ngỡ ngàng khi có lệnh rút khỏi trận địa. Nhiệm vụ kéo pháo ra không còn gây được hứng khởi như khi kéo pháo vào. Nhưng mệnh lệnh lui quân đã được thực hiện với trách nhiệm và tinh thần kỷ luật cao nhất.

Kẻ địch dường như phán đoán được cuộc lui quân này. Trọng pháo và máy bay địch đánh phá những khu rừng chung quanh tập đoàn cứ điểm. Đại bác, bom phá, bom napan rơi cả vào đường kéo pháo. Lại có thêm một đồng chí khẩu đội trưởng hy sinh khi lao chèn chặn khẩu pháo cao xạ nặng hai tấn rưỡi đứt dây có nguy cơ lăn xuống vực sâu. Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái, Chủ nhiệm chính trị Lê Liêm và nhiều cán bộ cơ quan Mặt trận lại tập trung vào việc kéo pháo ra.

Ngay sau khi quyết định chuyển phương châm, Chỉ huy trưởng đã ra lệnh cho cơ quan tham mưu tìm một vị trí mới đặt sở chỉ huy chuẩn bị cho trận đánh dài ngày.

Ngày 31 tháng 1 năm 1954, sở chỉ huy chiến dịch chuyển từ Nà Tấu vào Mường Phăng. Mường Phăng ở xa đường cái và kín đáo hơn.

Tới Mường Phăng, Chỉ huy trưởng thấy yêu ngay địa điểm mới này. Mường Phăng có nghĩa là “bản lạnh”. Một khu rừng ẩn trong sương với những cây dẻ cao vút. Lán chỉ huy nằm bên sườn núi, chân núi là một con suối nhỏ nước trong vắt. Điều khiến Chỉ huy trưởng thích thú nhất là khi anh được dẫn lên đỉnh núi. Cả tập đoàn cứ điểm địch hiện lên lần đầu trước mắt anh. Qua ống nhòm, thấy rõ từng vị trí địch nằm trên những ngọn đồi phía đông, và hai bên bờ sông Mường Thanh, máy bay địch lên xuống sân bay. Những chiếc ôtô chạy trên con đường Mường Thanh đến Hồng Cúm cuốn theo đám bụi màu hồng. Những trận địa pháo nằm giữa trời. Rõ ràng là địch rất chủ quan, chưa tin vào sự có mặt trọng pháo của ta trong trận đánh này. Anh có những kỉ niệm không bao giờ quên về những trận đánh thời kỳ tiền khởi nghĩa. Sau khi được phổ biến nhiệm vụ, một không khí thiêng liêng đã siết chặt mọi người đi vào trận đánh. Giờ lên đường, tâm hồn họ lâng lâng với những tình cảm cao cả, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, sẵn sàng xả thân cho nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ chiến đấu giải phóng Tổ quốc, sẵn sàng hy sinh vì đồng đội. Anh nhớ đêm dạ tập Đồng Mu, trong giờ phút khó khăn, những chiến sĩ nằm bên anh không ai bảo ai bỗng bật lên tiếng hát. Tiếng hát như lời thách thức với kẻ thù, như nói lên niềm tự hào của mình là cao hơn chúng gấp bội. Niềm vui phơi phới khi cùng nhau chiến thắng trở về. Từ ngày anh tham gia trận đánh ở cương vị mới, những tình cảm đó không còn. Anh trở nên lo lắng cho những người đang chiến đấu ở mặt trận. Anh không cầm được nước mắt khi nghe tin những đồng đội hy sinh. Cơ quan tham mưu đã nhìn thấy nhược điểm này của anh nên đề ra một quy định, trong lúc cuộc chiến đấu đang tiếp diễn, không được nói đến những tổn thất về sinh mạng của cán bộ, chiến sỹ, nhất là những người anh đã quen biết. Giờ này nhìn thấy trận địa địch ở trước mắt, anh bỗng có cảm giác trong trận đánh sắp tới mình sẽ luôn luôn được ở bên các đồng đội.

Chỉ huy trưởng thức suốt đêm giao thừa theo dõi việc kéo pháo ra. Gần sáng mồng 1 Tết Giáp Ngọ, ngày 3 tháng 2 năm 1954, các đơn vị kéo pháo báo cáo hoàn thành nhiệm vụ. Thực ra, các khẩu pháo mới được đưa ra cửa rừng, ở cây số 62 trên đường 41, phải hai đêm nữa mới về tới vị trí trú quân. Nhưng đây đã là nơi an toàn.

Bộ đội ta đã làm nên một kỳ công. Nhưng anh lại nghĩ: Những người làm nhiệm vụ kéo pháo đáng được tôn vinh, còn người chỉ huy họ thì sao? Kéo pháo vào rồi lại kéo pháo ra, bao nhiêu mồ hôi và cả xương máu đã bỏ vào đây! Chiến tranh sẽ khó tránh những trường hợp như thế này. Nhưng cần phải làm gì để nó không xảy ra?

Chỉ huy trưởng sang gặp đồng chí Vi Quốc Thanh, chúc tết đoàn cố vấn Trung Quốc đã có bốn mùa xuân vì tinh thần quốc tế vô sản, cùng đồng cam cộng khổ gắn bó với bộ đội Việt Nam trong nhiệm vụ chiến đấu giải phóng đất nước. Tình đồng chí, tình quốc tế thật cảm động. Trưởng đoàn cố vấn Vi Quốc Thanh báo tin các cố vấn rất nhất trí với chủ trương thay đổi phương châm chiến dịch. Mọi người đều biểu thị quyết tâm đồng cam cộng khổ, đem hết trí tuệ và năng lực giúp đỡ bộ đội Việt Nam giành toàn thắng. Đồng chí Vi nói đã đề nghị Quân ủy trung ương và Bộ Tổng tham mưu Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc gửi sang gấp những tài liệu tổng kết kinh nghiệm chiến đấu mới nhất ở Triều Tiên, nhất là kinh nghiệm xây dựng trận địa và chiến đấu đường hầm, để bộ đội Việt Nam tham khảo.

Tất cả các mặt trận đã phối hợp rất tốt với chiến trường chính. Ở đây cũng phải làm một cái gì đó…? Anh nghĩ tới những khẩu sơn pháo 75. Trong lúc lựu pháo khó khăn tìm đường vào trận địa rồi lại lui ra, thì những khẩu sơn pháo vác vai đã nhanh chóng xây dựng được những căn hầm vững chãi ở sườn núi đối diện với tập đoàn cứ điểm, trõ nòng nhắm các mục tiêu. Những chiến sỹ sơn pháo còn làm được cả những trận địa giả để đối phó với quân địch trong trường hợp chúng phản pháo. Anh gọi điện thoại cho tư lệnh pháo binh Đào Văn Trường hỏi nếu được phép pháo binh có sẵn sàng bắn vào Mường Thanh không. Đồng chí tư lệnh reo lên: “Báo cáo Đại tướng, pháo binh rất sẵn sàng và hễ bắn là trúng đích, nhưng phải đợi sương mù tan”. Nửa giờ sau, từ sườn núi phía tây – bắc, một dàn ba khẩu pháo 75 trong vòng 30 phút, với từng loạt 9 phát, đã bắn 103 quả pháo vào những máy bay nằm trên sân bay. Ngay từ sau loạt pháo thứ hai của ta, Piroth đã lập tức bắn trả 1650 phát pháo 105, máy bay B26 thả 158 trái bom, nhưng tất cả đều rơi vào những trận địa giả hoặc những chỗ không người.

Tại Tây Nguyên và Hạ Lào, quân ta tiếp tục chiến thắng như chẻ tre. Bộ đội Liên khu 5 tiếp tục tiêu diệt các cứ điểm Plây Bông, Krông, Kơ Tu, nhiều binh lính địch bỏ đồn rút chạy. Ngày 5 tháng 2 năm 1954, thị xã Công Tum được giải phóng. Cùng ngày, tiểu đoàn 436 cùng bạn phối hợp chiến đấu giải phóng miền Nam Xaravan, địch vội vã tháo chạy về thị xã, buộc Navarre phải điều một binh đoàn lê dương từ Bắc Bộ vào và một binh đoàn ngụy từ Sê Nô xuống lập thêm hai con nhím mới ở thị xã Xaravan và Pắc Xế.

Chỉ huy trưởng chỉ thực sự vui khi nhận được điện của Trung ương và Bác phê chuẩn chủ trương tác chiến mới của Đảng ủy chiến dịch, “hậu phương sẽ dốc sức chi viện cho tiền tuyến tới khi giành toàn thắng”.

❖ 2 ❖

Kế hoạch Đông – Xuân của ta đã thực tế triển khai trên các chiến trường toàn quốc. Lúc này về cơ bản ta đã bước đầu vô hiệu hóa kế hoạch Navarre. Khối cơ động của Navarre ở đồng bằng đã bị phân tán khá nhiều. Navarre không còn khả năng đánh phá vùng tự do của ta. Quân địch tuy có mặt ở một số vùng tự do tại Liên khu 5, nhưng chắc chắn là chúng không thực hiện được âm mưu chiến lược xóa bỏ bốn tỉnh tự do tại đây, vì cuộc tiến công Đông – Xuân của ta đang tiến triển nên nhất định sớm muộn chúng sẽ phải rút.

Một triển vọng lớn đã mở ra trong mùa khô này. Nhưng còn ở chiến trường chính? Trách nhiệm lúc này đang đè nặng trên vai Chỉ huy trưởng.

Nếu ta không giành được thắng lợi trên chiến trường chính thì thắng lợi trong Đông – Xuân này sẽ hạn chế, và sẽ không thực hiện được ý đồ của Bác. Ngày 26 tháng 1 năm 1954, anh đã phải dùng đến chỉ thị có tính nguyên tắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh “chắc thắng mới đánh” để thuyết phục Đảng ủy Mặt trận chuyển từ phương châm “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc”, nhưng muốn chứng minh điều đó anh không được phép thất bại trong trận đánh nay mai, nhất là khi trên các chiến trường phối hợp, bộ đội ta đã giành được những chiến thắng vượt yêu cầu.

Bảy năm qua, quân và dân ta đã vượt qua những thử thách cực kỳ hiểm nghèo, và lần này đất nước lại đang đứng trước một vận hội mới. Bài học lớn thu được là ta đã nhận ra kẻ địch có sức mạnh vật chất tuyệt đối hơn ta trong cả cuộc chiến tranh, muốn đương đầu với kẻ địch, ta phải tuyệt đối dùng cách đánh của kẻ yếu chống lại kẻ mạnh. Trong quá khứ cách ta thường làm là tránh những chỗ rắn của địch, tránh những nơi địa hình bất lợi, nơi địch có thể phát huy sức mạnh phi pháo, sức mạnh cơ động, tránh những nơi địch có thể tập trung đông quân. Ta đã buộc kẻ thù phải chiến đấu trên một mặt trận vô hình với một đội quân vô hình.

Nhưng lần này ta đã từ bỏ cách đánh truyền thống, từ bỏ né tránh, từ bỏ rút lui khi địch tập trung những lực lượng tinh nhuệ, chuẩn bị mọi điều kiện cho một trận đánh đối đầu. Từ lâu, địch đã đi tìm một trận đánh như thế này, tin là chỉ cần nắm bắt được nó là sẽ loại trừ được “quân đoàn tác chiến Việt Minh”, mối đe dọa lớn nhất đối với chúng trong cuộc chiến.

Về chiến lược, kế hoạch Đông – Xuân triển khai trên cả nước đã buộc địch phải đi vào quỹ đạo cuộc chiến của ta. 80% số quân cơ động của địch đã phân tán ra các chiến trường. Nhưng hầu hết những đại đoàn chủ lực mạnh nhất của ta lúc này đều tập trung ở Điện Biên Phủ. Trung đoàn 57 của 304, trung đoàn chủ lực cuối cùng của Bộ được để lại bảo vệ khu căn cứ, cũng đã được huy động lên đây. Ta vẫn có thể làm như tại Hòa Bình, là kìm giữ quân cơ động địch tại Mường Thanh, để các chiến trường trên toàn quốc tiêu diệt quân địch. Nhưng nếu vậy, sẽ chỉ là thực hiện điều Navarre đang mong muốn, vì theo kế hoạch của y mùa khô này sẽ tránh những trận giao tranh lớn trên chiến trường chính để chuẩn bị cho mùa khô năm sau.

Cái khó nhất đối với Tổng tư lệnh suốt nhiều năm qua là phải chiến đấu với một kẻ thù mạnh hơn mình nhiều lần mà không được phép thua trong một trận đánh lớn, vì như vậy có thể là thua cả cuộc chiến tranh. Qua tám năm kháng chiến, lực lượng vũ trang ta đã mạnh hơn nhiều, nhưng sức mạnh vật chất của địch cũng không ngừng tăng lên, lúc này địch không những càng vượt xa ta về binh khí, kỹ thuật, mà về cả số quân. Nhưng trận Điện Biên Phủ đã được quyết định. Một trận đánh lớn nhất từ ngày có chiến tranh. Một trận đối đầu giữa chủ lực ta với những lực lượng mạnh nhất của quân đội viễn chinh. Nhiệm vụ của anh là phải giành chiến thắng.

Cần tính đến những thuận lợi và khó khăn của địch và ta ngay tại đây.

Qua điều tra bổ sung, lúc này ta đã nắm chắc được quân địch ở Điện Biên Phủ có 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, phần lớn là quân tinh nhuệ bậc nhất của đạo quân viễn chinh. Lực lượng ta có 9 trung đoàn bộ binh, gồm 27 tiểu đoàn. Ta hơn địch về số tiểu đoàn (27/12), nhưng quân số mỗi tiểu đoàn của ta chỉ bằng 2/3 quân số tiểu đoàn địch, và trang bị yếu hơn nhiều.

Về pháo lớn, địch có 5 khẩu lựu pháo 155 ly, 24 khẩu lựu pháo 105 ly, 20 khẩu súng cối 120 ly. Ta có 24 khẩu lựu pháo 105, 24 khẩu sơn pháo 75, 16 khẩu súng cối 120. Ta hơn địch về số lượng pháo (64/49 khẩu), nhưng đạn pháo dự trữ của ta rất hạn chế.

Ngoài ra, địch có 10 chiếc xe tăng 18 tấn, 7 máy bay cường kích, 5 máy bay trinh sát, 4 máy bay vận tải và 1 trực thăng thường trực tại sân bay Mường Thanh. Nếu trận đánh nổ ra, phần lớn máy bay ném bom, máy bay tiêm kích toàn Đông Dương, và máy bay vận tải sẽ dành để yểm trợ trực tiếp cho Điện Biên Phủ. Ta hoàn toàn không có xe tăng, và chỉ có 1 trung đoàn cao xạ 37 để đối phó với toàn bộ không quân địch.

Tổng số quân địch tại Điên Biên Phủ khoảng 12.000 người. So sánh về quân số tại chiến trường, quân ta gần gấp ba lần quân địch. Nhưng ta ở phía tiến công, còn địch ở phía phòng ngự, đã chuẩn bị địa hình, công sự, lưới lửa, dây thép gai và bãi mìn để chờ đón cuộc tiến công của ta. Và ngoài pháo binh, quân Pháp còn được sự hỗ trợ áp đảo của không quân. Hồi chiến dịch Biên giới cuối năm 1950, trong trận đánh đồn Đồng Khê chỉ có không đầy một tiểu đoàn quân địch, ta đã huy động một lực lượng sáu lần đông hơn, gồm cả những đơn vị vừa được Trung Quốc trang bị lại, phải mất 58 giờ chiến đấu mới tiêu diệt được đồn địch với nhiều tổn thất. Những nhà quân sự kinh điển đã tính: Phía phòng ngự bao giờ cũng mạnh hơn phía tiến công, vì họ có thế lợi của địa hình đã chọn, ở thế đón đợi đối phương, có thể phát huy tối đa sức mạnh của hỏa lực. Chính một số nhà nghiên cứu sau này đã nhận xét: “Trước khi vào trận đánh tại Điên Biên Phủ, quân Pháp ở thế mạnh hơn quân ta”.

Từ đầu chiến dịch, ý anh và một số đồng chí lãnh đạo mặt trận khác nhau ở chọn cách đánh. “Đánh nhanh thắng nhanh” thực chất là lấy mạnh đánh mạnh”. “Đánh chắc tiến chắc” chính là cách “ lấy yếu đánh mạnh”. Anh thấy chọn cách “lấy mạnh đánh mạnh” nhất định sẽ thất bại. Vì nhìn chung lực lượng ta không hề mạnh hơn địch, mà trái lại yếu hơn về nhiều mặt. Ta chưa bao giờ thành công trong việc đánh một tập đoàn cứ điểm lớn. Anh thấy cách đánh duy nhất vẫn là “lấy yếu thắng mạnh”. Đây là cách đánh thích hợp với so sánh lực lượng địch ta, đây cũng là cách đánh quen thuộc của ta.

Qua trận đánh tập đoàn cứ điểm Nà Sản, anh nhận thấy kẻ địch ở Điện Biên Phủ tuy mạnh nhưng không phải là không có những nhược điểm khá cơ bản.

12.000 quân địch ở Điện Biên Phủ gồm những đơn vị quân dù, quân lê dương đóng tập trung, nhưng không phải là một khối thống nhất, vì khi bị đưa vào cứ điểm, khối này trở thành những đại đội, tiểu đoàn bị nhốt trong từng khu vực nhỏ riêng biệt. Khi bị tiến công, những cứ điểm ở gần nhau có thể hỗ trợ cho nhau bằng hỏa lực bắn thẳng, nhưng lực lượng bảo vệ chủ yếu vẫn là số quân ở từng cứ điểm. Chúng có được yểm trợ bằng hỏa lực trọng pháo từ xa và một lực lượng ứng chiến không đông của tập đoàn cứ điểm, nhưng nếu ta khống chế được những trận địa pháo và ngăn cản được lực lượng ứng chiến, thì bộ đội ta hoàn toàn có khả năng tiêu diệt được từng cứ điểm, từng trung tâm đề kháng.

Con nhím Điện Biên Phủ nằm giữa rừng núi Tây Bắc chỉ được nuôi dưỡng bằng một cuống nhau nối với hậu phương là con đường hàng không. Nếu sân bay bị cắt đứt, nó sẽ khó duy trì cuộc sống của 12.000 quân lính chứ chưa nói tới việc tiếp tế binh khí, đạn dược, thuốc men.

Đây chính là những nhược điểm khó khắc phục đối với địch mà ta có thể hoàn toàn khai thác.

❖ 3 ❖

Sau Tết Giáp Ngọ 1954, vùng trời Điện Biên Phủ vắng hẳn tiếng máy bay. Phần lớn máy bay chiến đấu và máy bay vận tải đã bị hút sang mặt trận Thượng Lào.

Ngày 8 tháng 2 năm 1954, hội nghị cán bộ chiến dịch được triệu tập ở Mường Phăng. Những người đến họp chưa được giải thích vì sao vào giờ phút cuối cùng, trận đánh đã bị hoãn lại, đều phân vân không biết trên sẽ giải quyết cách nào trong lúc đại đoàn chủ công của chiến dịch đã được rút khỏi mặt trận.

Chỉ huy trưởng xuất hiện tại hội nghị với nụ cười tươi. Anh chúc tết các đơn vị và nói Tết Giáp Ngọ là một tết tưng bừng thắng lợi, Xuân Giáp Ngọ sẽ là một mùa xuân lịch sử, một mùa xuân đại thắng lợi. Lời chúc Tết, tin Bác và Trung ương đã phê chuẩn chủ trương chuyển cách đánh của Đảng ủy Mặt trận, và nụ cười rạng rỡ của anh đã truyền niềm vui tới mọi người.

Anh nói chỉ sau một thời gian ngắn triển khai kế hoạch Đông – Xuân, quân dân ta và bộ đội bạn trên các chiến trường Thượng Lào, Trung Lào, Hạ Lào, Tây Nguyên, trung du, đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ đã giành những thắng lợi lớn, giải phóng nhiều vùng đất quan trọng buộc địch phải phân tán lực lượng quân cơ động ra khắp nơi để đối phó. Trong lúc đó, phong trào đấu tranh của nhân dân Pháp chống chiến tranh xâm lược ở Việt Nam đang lên cao, phong trào hòa bình dân chủ thế giới ủng hộ chúng ta ngày càng mạnh mẽ… Tất cả đã mang lại sự phấn khởi cho hội nghị trong cuộc họp đầu xuân.

Sau đó, Chỉ huy trưởng trình bày bản báo cáo: “Tích cực hoàn thành công tác chuẩn bị tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ”.

Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ gồm 49 cứ điểm, được bố trí thành ba phân khu: Phân khu Bắc (Sous secteur Nord) , phân khu Trung tâm (Sous secteur Centre) , phân khu Nam (Sous secteur Sud) .

Phân khu Bắc gồm hai trung tâm đề kháng: Gabrielle (ta gọi là Đồi Độc Lập) và Anne Marie (ta gọi là Bản Kéo), nằm trên con đường Pavie chạy từ Lai Châu về, có nhiệm vụ bảo vệ tập đoàn cứ điểm ở phía Bắc.

Phân khu Trung tâm, bộ phận quan trọng nhất của tập đoàn cứ điểm, nằm ngay tại châu lỵ Điện Biên Phủ, hai bên bờ sông Nậm Rốn và dãy núi phía đông, là nơi tập trung hai phần ba lực lượng của tập đoàn cứ điểm gồm sở chỉ huy, sân bay, nhiều trung tâm đề kháng, các căn cứ hỏa lực, hậu cần, và lực lượng phản kích. Những cao điểm ở phía đông giữ vai trò trọng yếu trong việc bảo vệ phân khu. Tại đây có trung tâm đề kháng Béatrice (ta gọi là Him Lam) nằm hơi biệt lập về phía bắc, trên con đường từ Tuần Giáo vào, có nhiệm vụ ngăn chặn đại quân ta đột nhập từ hướng này.

Phân khu Nam, được gọi là Isabelle , nằm ở phía cuối cánh đồng Mường Thanh, cách phân khu Trung tâm 5 kilomet, có căn cứ hỏa lực và một sân bay nhỏ là lực lượng hỗ trợ cho phân khu Trung tâm, ngăn chặn những cuộc tiến công của ta từ phía nam và cũng bảo vệ con đường nối với Thượng Lào.

Mỗi cứ điểm đều có hệ thống công sự vững chắc: giao thông hào, lô cốt, ụ súng, hàng rào dây thép gai, bãi mìn và hỏa lực rất mạnh, gồm súng bắn thẳng, súng cối, súng phun lửa. Nhiều cứ điểm hợp thành một trung tâm đề kháng, khi bị tiến công chúng có thể tự bảo vệ và yểm trợ lẫn cho nhau.

Địch có hỏa lực áp đảo về pháo binh và không quân.

49 khẩu trọng pháo của tập đoàn cứ điểm, trừ 4 khẩu lựu pháo 105 ly được bố trí tại Hồng Cúm để yểm trợ từ xa, còn tất cả đều được đặt tại khu Trung tâm.

Chưa bao giờ ta phải đương đầu với một lực lượng quân địch đông và mạnh như vậy. Trận đánh chỉ có thể thành công nếu ta biết khai thác tối đa những nhược điểm của quân địch, và phát huy những điểm mạnh của ta. Muốn tiêu diệt quân địch ở Điện Biên Phủ không thể dùng cách đánh nhanh mà phải tiến hành một trận đánh dài ngày tiêu diệt từng trung tâm đề kháng của địch. Ta phải đánh địch cả trên địa hình đồi núi và đồng bằng, cả ban đêm và ban ngày, cả mùa khô và mùa mưa.

Lợi thế của ta ở Điện Biên Phủ là ta ở thế chủ động bao vây và tiến công, muốn đánh lúc nào thì đánh, muốn nghỉ lúc nào thì nghỉ, địch ở thế bị động phòng ngự lúc nào cũng chờ đón một cuộc tiến công không biết đến từ đâu. Lợi thế này cho phép ta tự quyết định: lựa chọn địa điểm, thời gian mở cuộc tiến công. Đánh hay không đánh, đều có lợi cho ta. Thậm chí chỉ kìm giữ những lực lượng cơ động chủ yếu của địch một thời gian dài ở Điện Biên Phủ cho các chiến trường tiêu diệt địch, thì ta đã giành được một thắng lợi lớn trong Đông – Xuân này.

Để hạn chế chỗ mạnh nhất của địch là không quân và trọng pháo, ta phải xây dựng trận địa, bao gồm việc đưa pháo vào những vị trí an toàn, đặt các cứ điểm của địch trong tầm bắn, bao vây, chia cách và tiếp cận các cứ điểm địch bằng chiến hào, bắt đầu từ việc tiêu diệt phân khu Bắc, mở đường đưa bộ binh và pháo cao xạ vào khu Trung tâm, tiến tới cắt đứt sân bay, bóp nghẹt con nhím Điện Biên Phủ. Trận địa Điện Biên Phủ sẽ kết thúc tại khu Trung tâm của địch.

Trận đánh sẽ phải tiến hành tuần tự qua ba bước. Bước 1, hoàn thành công tác chuẩn bị: làm đường ôtô đưa pháo vào trận địa, làm hầm pháo thật vững chắc, xây dựng trận địa bao vây và tiến công, chuẩn bị hậu cần. Bước 2, tiêu diệt các trung tâm đề kháng phía ngoài, siết chặt vòng vây bằng trận địa, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch, khống chế sân bay, hạn chế tiến tới triệt hẳn nguồn tiếp tế của địch. Bước 3, tiến hành tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch.

Trong quá trình báo cáo, Chỉ huy trưởng đặc biệt nhấn mạnh vào việc sử dụng trận địa chiến hào. Đây là một chiến thuật hoàn toàn mới với bộ đội ta, chắc chắn sẽ gây bất ngờ lớn đối với kẻ địch. Trận địa chiến hào trước hết giúp ta hạn chế sức mạnh máy bay, pháo và hỏa lực bắn thẳng của địch cả ban ngày và ban đêm, cho phép ta tiếp cận địch tương đối an toàn, bất thần mở cuộc tiến công, sẽ giúp ta siết chặt vòng vây, và trước mắt không cho địch dễ dàng rút chạy. Xây dựng trận địa không chỉ là việc đào những giao thông hào mà còn là đưa toàn bộ các lực lượng của ta từ đơn vị chiến đấu: bộ binh, pháo binh, công binh… đến các cơ quan chỉ huy xuống dưới lòng đất, một công trình lao động khổng lồ không những cần đến rất nhiều mồ hôi mà sẽ còn tốn cả máu.

Giờ nổ súng tiến công tập đoàn cứ điểm chỉ có thể bắt đầu sau khi xây dựng xong trận địa chiến hào bao vây và tiến công.

Không khí hội nghị trở nên thực sự phấn khởi sau khi nghe phổ biến phương án tác chiến mới.

Cơ quan tham mưu Mặt trận dự trù việc xây dựng trận địa sẽ mất khoảng một tháng. Tổng tư lệnh thấy cần phải duy trì sức ép trên các mặt trận phối hợp trong khi bộ đội Điện Biên Phủ tiến hành công tác chuẩn bị. Cuộc chiến ở Thượng Lào, Tây Nguyên vẫn tiếp tục. Anh ra mật lệnh chỉ thị cho chuyển toàn bộ trung đoàn 101 xuống Hạ Lào và vùng đông – bắc Campuchia, tại Trung Lào hai trung đoàn 66 và 18 tổ chức vây hãm giam chân quân địch ở Xênô, bảo vệ phía sau cho trung đoàn 101.