Chương XX TRẬN ĐỊA CHIẾN HÀO
❖ 1 ❖
Từ ngày đầu sang Đông Dương, Navarre đã rất khó chịu khi phải nhìn những binh đoàn quân viễn chinh có trọng pháo, xe tăng và máy bay hỗ trợ chia nhỏ thành các đại hội, tiểu đoàn đóng đồn bốt khắp nơi và sa lầy trong những trận càn lùng sục từng thôn xóm, từng ngôi nhà. Trong khi đó, đội quân chủ lực tác chiến của đối phương chỉ di chuyển bằng chân lại rất cơ động có mặt trên khắp các chiến trường tiến hành những chiến dịch lớn. Navarre tuyên bố việc làm đầu tiên của ông ta là trả lại tính cơ động cho quân đội. Nhưng Navarre không thể làm theo ý mình, vì dù muốn hay không cũng phải dành một lực lượng lớn để duy trì vùng tạm chiếm, nếu thiếu lực lượng này thì những vùng quân Pháp đã chiếm được lập tức trở thành vùng của đối phương. Navarre chọn giải pháp phát triển thật nhanh quân ngụy để làm nhiệm vụ chiếm đóng thay cho quân Pháp. Khi vào Đông – Xuân năm 1953-1954, cùng với việc phát triển “quân đội quốc gia”, những lực lượng quân Pháp ở Triều Tiên được đưa về Việt Nam, và số quân Pháp làm nhiệm vụ chiếm đóng đã được quân ngụy thay thế, Navarre đã xây dựng 82 tiểu đoàn cơ động chiến lược và chiến thuật, được tổ chức 18 binh đoàn cơ động, trong đó có 11 binh đoàn Âu Phi và 7 binh đoàn ngụy. Già nửa lực lượng cơ động này, 44 tiểu đoàn, tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ.
Theo quan điểm của Tư lệnh Bắc Bộ Cogny, số quân cơ động tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ là để đối phó với cuộc tiến công lớn của Việt Minh sẽ nhắm vào đây trong Đông – Xuân này. Nhưng Tổng chỉ huy Navarre lại có suy nghĩ khác hẳn. Navarre không chủ trương cắm lực lượng lớn quân cơ động ở đồng bằng đón đợi một cuộc tiến công, mà phải dùng nó để giành quyền chủ động, điều khiển chiến trận theo ý của mình, buộc đối phương phải chạy theo đối phó.
Tuần trăng mật giữa Navarre và Tư lệnh Bắc Bộ Cogny, người đã được Navarre đưa lên giữ trọng trách này, đã qua đi chóng vánh từ lúc Cogny được hỏi về chủ trương đánh chiếm Điện Biên Phủ. Navarre nhớ lại mình đã hỏi De Linarès là Cogny có thể là người thay thế ông ta không, người bạn cùng khóa chạm vào khuỷu tay Navarre và nói: “chớ có dùng hắn, một tên…” và kịp dừng lại, nhưng Navarre đủ hiểu. Cũng câu hỏi này đặt ra với Salan, Salan nói ngay: “Cogny có những phẩm chất lớn”. Navarre chú ý đến lời của De Linarès, nhưng vẫn phải dùng Cogny vì không tìm được ai khác. Còn một lý do, Navarre rất tự tin, cho rằng ít ai cấp dưới có thể qua mặt mình.
Với việc ném 12 tiểu đoàn cơ động xuống Điện Biên Phủ, Navarre đã hút được phần lớn những đại đoàn chủ lực của đối phương lên Tây Bắc, chuẩn bị lao vào cuộc phiêu lưu đánh lớn với quân viễn chinh. Cuộc hành binh Atlante, triển khai bước một đánh chiếm thị xã Tuy Hòa, tuy có lấy thêm lực lượng cơ động nhưng chưa khiến Cogny khó chịu, vì Cogny nhận thấy đồng bằng Bắc Bộ không còn bị đe dọa, và hy vọng Điện Biên Phủ sẽ là cái máy nghiền đối với những đại đoàn chủ lực của đối phương.
Trong thông điệp đầu năm 1954, Navarre tuyên bố một cách khá lạc quan: “Điều kiện chiến thắng đã đầy đủ, chỉ tùy thuộc vào ý chí của tất cả chiến binh Hải - Lục - Không quân dể làm cho năm 1954 là năm thắng lợi rõ rệt của quân đội Pháp!”
Ngay sau khi 308 đánh sang Thượng Lào, tưởng là ta đã bỏ ý định chiếm Điện Biên Phủ, ngày 2 tháng 2 năm 1954, Navarre gợi ý Cogny nên rút quân số của tập đoàn cứ điểm từ 12 xuống 9, thậm chí 6 tiểu đoàn. Cogny lập tức phản đối, cho rằng 308 chỉ sang Thượng Lào gây rối một thời gian rồi quay về Điên Biên Phủ. Điều này là một lợi thế cho Cogny trong cuộc tranh luận sau này trong những cuộc điều trần về thảm bại ở Điện Biên Phủ.
Hầu hết những đại đoàn chủ lực của đối phương đã tiến lên Tây Bắc, đồng bằng bắc bộ thoát khỏi một cuộc tiến công lớn trong Đông-Xuân 1953-1954, và chỉ còn phải đối phó với chiến tranh du kích. Không có lý do nào khiến cho Navarre phải chôn chân số quân cơ động còn lại để chờ đợi một cuộc tiến công không còn khả năng xảy ra.
Những cuộc tiến công của ta mở ra trên các hướng, tuy có phần bất ngờ, nhưng không phải hoàn toàn không được dự phòng vì Navarre vẫn còn nhiều tiểu đoàn cơ động ở đồng bằng. Khi cuộc tiến công của ta nổ ra ở Trung Lào, Navarre rút một số tiểu đoàn quân cơ động từ đồng bằng Bắc Bộ kết hợp với binh đoàn cơ độn ngụy số 51 tại địa phương, xây dựng một con nhím Seno, với cái tên gọi: ”Binh đoàn tác chiến Trung Lào” đúng như cách làm ở Tây Bắc. Navarre cũng làm như thế tại Thượng Lào. Và sau đó, lại xây dựng tiếp một con nhím mới Saravane, Hạ Lào. Navarre trước đây không thích chiến thuật “con nhím” nhưng lại bị Berteil thuyết phục về tính hữu hiệu của nó trên chiến trường rừng núi Đông Dương.Và rõ ràng là nó đã chặn đứng những đòn tiến công của đối phương. Riêng ở Tây Nguyên, Navarre đã buộc phải tạm ngưng cuộc tiến công ở Tuy Hòa, rút một số tiểu đoàn lên tăng cường cho Tây Nguyên. Một tập đoàn cứ điểm nữa đang xuất hiện ở An Khê. Nhưng Navarre đã biết lực lượng chủ lực của Liên khu 5 chỉ có 2 trung đoàn, sẽ không làm được gì nhiều hơn sau khi chiếm được Kon Tum, do lực lượng quân đồn trú tại đây rút chạy về Pleiku. Nó sẽ sớm muộn trở về tay quân Pháp giống như tỉnh Thà Khẹc mới đây tại Trung Lào.
Trong lúc Navarre vẫn tỏ ra điều khiển chiến trận một cách nhanh chóng, có chủ định và đã cầm chân, vô hiệu hóa được các đòn của quân chủ lực Việt Minh khắp nơi, thì Cogny lộ vẻ khó chịu vì số quân cơ động ở đồng bằng chỉ còn lại ba binh đoàn cơ động phải nai lưng ra đối phó với đại đoàn 320, những trung đoàn địa phương và chiến tranh du kích. Cogny cho là Navarre không hiểu thực tế chiến tranh Đông Dương đã vung tay quá trán không nghĩ đến hậu quả sau này. Trái lại, Navarre cho rằng tầm nhìn của Cogny không ra khỏi đồng bằng Bắc Bộ, lúc nào cũng lo vùng châu thổ Sông Hồng tuột khỏi tay mình trong khi cả miền Bắc, trừ Điện Biên Phủ, chưa nơi nào có dấu hiệu bị đe dọa. Navarre đang phải giải quyết những vấn đề chiến lược chung trên toàn bán đảo Đông Dương. Tuy nhiên, giữa hai người xẩy ra những va chạm lớn, vì Cogny còn hy vọng cuộc chiến tranh ở Điện Biên Phủ, mà mình là người được trao nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy, sẽ mang lại một chiến thắng rực rỡ nay mai. Trong khi đó Navarre rất tự tin, cho rằng mình vẫn làm chủ tình hình, điều khiển chiến trận một cách chủ động và linh hoạt.
❖ 2 ❖
Tập đoàn Điện Biên Phủ nằm dưới một thung lũng, chung quanh là núi cao trên dưới 1000 mét. Những ngọn núi lớn khống chế được sân bay Mường Thanh đều cách xa từ 10 đến 12 km. Đều này gây khó khăn cho bố trí lựu pháo của ta. Đặt pháo ở sườn núi bên ngoài lòng chảo thì mục tiêu cũng ở ngoài tầm bắn. Nếu bố trí pháo ở sườn núi bên trong lòng chảo, thì phải đối phó với những trận phản pháo của địch. Ta đã biết rõ khả năng sử dụng pháo của địch. Viên đại tướng Piroth chỉ huy pháo binh ở Mường Thanh đã cam kết với Navarre tất cả những trận địa pháo của đối phương đặt trên sườn núi đối diện với thung lũng sẽ nhanh chóng bị dập tắt ngay sau khi xuất hiện. Do đó, Piroth không làm công sự cho pháo, mà đặt pháo ngay trên bãi trống để có thể thực hiện lời cam kết với Tổng chỉ huy.
Để phát huy hiệu quả của trọng pháo, ta buộc phải bố trí trận địa của lựu pháo 105 ở suờn núi đối diện với tập đoàn cứ điểm. Vấn đề đặt ra là phải bảo vệ được những khẩu pháo của ta trong một trận đánh dài ngày. Các bạn Trung Quốc đã có kinh nghiệm không xây dựng trận địa pháo tập trung mà bố trí trận địa phân tán, ngụy trang kỹ, và làm nhiều trận địa giả. Hầm pháo của ta phải xây dựng vững chắc để đối phó với pháo địch bắn trả và máy bay oanh kích. Các khẩu pháo của ta tuy bố trí phân tán nhưng đến khi bắn thì hỏa lực vẫn tập trung vào mục tiêu.
Hai lần kéo pháo vào, kéo pháo ra đã cho thấy không thể di chuyển pháo bằng tay, tiếp tế đạn dược cho trọng pháo bằng sức người trong một trận đánh dài ngày, mà phải có đường cho xe đưa pháo, đạn vào vị trí. Trận địa pháo phải có cấu trúc vững chắc, đủ sức chịu đựng những trận oanh kích của máy bay và pháo binh nếu chẳng may bị lộ.
Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái cùng một số cán bộ đi nghiên cứu mở đường, quan sát địa hình, ước tính độ dốc của những ngọn núi, con suối trên bản đồ của địch ta mới thu được. Sáu trục đường vạch ra qua nhiều vùng đồi núi cao nối liền từ phía đông, đông-bắc sang tây-bắc Mường Thanh, có trục đường phải vượt qua dãy núi Pú Hồng Mèo quanh năm mây phủ tiến xuống phía đông-nam. Công binh phải làm những cây cầu vượt suối có sức chịu đựng 10 tấn, bảo đảm cho xe qua lại trong mùa mưa lũ. Nhiều vấn đề nảy sinh. Có những chỗ ngoặt nghèo yêu cầu pháo binh phải mở rộng 12m, nhưng mới mở rộng 6 mét thì thành vại đã cao tới 20m! Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái phải tới tận nơi trực tiếp giải quyết những vấn đề này. Chỉ sau hơn hai chục ngày lao động khẩn trương của bộ đội, cả sáu tuyến đường cơ động pháo, dài 70 km, đã hoàn thành.
Đào một hầm pháo trung bình phải moi từ lòng núi khoảng 200 tới 300 khối đất đá, rồi đổ toàn bộ lên nắp hầm. Gỗ cây lát nóc hầm có đường kính từ 30 phân trở lên. Toàn bộ số cây này phải lấy từ xa để không làm lộ trận địa. Có những chiến sĩ ngày phải bổ tới hai, ba ngàn nhát cuốc. Tất cả những lưỡi xẻng, lưỡi cuốc đem ra dùng đều mòn vẹt. Các trân địa lựu pháo được bố trí cách trung tâm Mường Thanh khoảng 7km, và cách vị trí ngoại vi 4-5 km. Hầm pháo có công sự bắn, công sự ẩn nấp riêng, đủ rộng để pháo thủ thao tác dễ dàng khi chiến đấu. Nắp hầm dài trên 3 mét, gồm nhiều lớp gỗ, đất, xen với những lớp bó trúc, đủ sức chịu đựng pháo 105 ly. Nối liền các hầm pháo là hào giao thông khá rộng và sâu, có rãnh thoát nước và hố tránh bom Napan. Lại có đường nối từ trận địa pháo về tuyến cung cấp, nơi có đủ hầm ăn, hầm ở, hầm thương binh, hầm nấu ăn, hầm giấu xe… Bên mỗi trận địa thật đều có một trận địa giả để thu hút bom đạn địch.
Những khẩu pháo đặt ở các trận địa có thể bắn tới mục tiêu xa nhất là Hồng Cúm.
Ta chỉ làm hầm cho lựu pháo và sơn pháo. Riêng đối với pháo cao xạ phải chiến đấu đối mặt với máy bay địch, nên chỉ có thể tìm trận địa phát huy tốt hỏa lực. Việc tìm trận địa cho pháo cao xạ khi bộ dội ta còn ở trên núi chưa xuống đến cánh đồng cũng không dễ dàng. Để tiến xuống cánh đồng Mường Thanh ngay sau đợt tiến công đầu tiên, trung đoàn cao xạ pháo bí mật chiếm lĩnh trận địa ngay bên cánh đồng Na Hi, trên đường vào Him Lam và cánh đồng Bản Tấu phía bắc cứ điểm đồi Độc Lập. Đặc biệt đối với pháo cao xạ vì phải chiến đấu ngoài trời, không thể ngụy trang, cách duy nhất để đánh lừa quân địch là xây dựng nhiều trận địa để di chuyển nhanh sau mỗi trận chiến đấu. Công việc xây dựng trận địa bao vây và tiến công có tính quyết định đối với thành công của chiến dịch.
Công việc này rất mới mẻ. Trận địa chiến hào của ta không có vật chướng ngại bảo vệ, như dây thép gai, bãi mìn, nhưng nó phải đảm bảo điều kiện cho các hoạt động chiến đấu, cũng như mọi sinh hoạt bình thường và lâu dài của bộ đội. Nó không chỉ giúp cho bộ đội tiếp cận các vị trí địch dưới bom đạn, cả ban đêm và ban ngày, mà còn là nơi cơ động pháo, vận chuyển thương binh. Nó là cả một hệ thống hầm, hào lớn, nhỏ phức tạp, vừa mang tính tiến công, vừa mang tính phòng ngự, đặc biệt là có chiều dài cả trăm kilômét. Trong đợt đầu, chúng ta xây dựng một đường hào trục chung quanh cánh đồng Mường Thanh, và đường hào tiếp cận những trung tâm đề kháng bảo vệ tập đoàn cứ điểm ở phía bắc.
Cơ quan tham mưu mặt trận, ngoài việc ra chỉ thị hướng dẫn cụ thể, nói rõ ý nghĩa, nguyên tắc chung, yêu cầu chiến thuật, tiêu chuẩn kích thước, cách lựa chọn địa hình, cách tổ chức và bố trí trận địa…, đồng chí Đỗ Đức Kiên, Phó cục trưởng tác chiến còn đích thân đưa một đơn vị ra cánh đồng đào thử để rút kinh nghiệm thực tế, về cách tổ chức đào công sự ban đêm dưới hỏa lực địch, cách tính toán thời gian, số người cần thiết phải huy động, cách tổ chức và xây dựng các loại công sự cho tiểu đoàn, trung đoàn, đại đoàn. Chỉ huy trưởng cùng với cố vấn Mai Gia Sinh trực tiếp theo dõi việc đào trận địa chiến hào của một tiểu đội. Sau đó, Ban tham mưu mặt trận ra chỉ thị hướng dẫn cho các đơn vị kích thước tiêu chuẩn của các loại hầm, hào và năng suất khối lượng đất đào trong một ngày.
Chung quanh Điện Biên Phủ bắt đầu xuất hiện một công trường khổng lồ. Những con đường cơ động pháo nhanh chóng hiện ra dưới rừng cây, hoặc dưới dàn ngụy trang không đổi màu. Rất nhiều chiến hào từ núi cao đổ xuống cánh đồng, không ngừng mọc thêm những nhánh mới, không ngừng lan rộng. Từng đại đoàn, hướng theo mục tiêu đã được phân công, từ trong núi đào ra, hình thành trận địa xuất phát tiến công của từng đơn vị, nơi triển khai lực lượng bí mật an toàn, chuẩn bị đánh chiếm vị trí địch, đồng thời cũng hình thành thế trân sẵn sàng đánh địch phản kích, bảo vệ cứ điểm đã chiếm được.
Nhân ngày kỷ niệm thành lập Quân đội Nhân dân 22 tháng 12 năm 1953, Bác đã trao cho mỗi đại đoàn, mỗi quân khu một lá cờ “Quyết chiến, Quyết thắng” làm giải thưởng luân lưu. Các Chi bộ đều mở Hội nghị xác định thái độ Đảng viên, kêu gọi Đảng viên dẫn đầu trong chiến đấu, cắm bằng được lá cờ của Bác trên nóc Sở Chỉ huy Tập đoàn cứ điểm. Lá cờ Quyết chiến, quyết thắng đã trở thành một biểu tượng thiêng liêng trong chiến dịch, ngọn đuốc dẫn đường đi tới chiến thắng trong mỗi trận đánh.
❖ 3 ❖De Castries nhận rõ muốn bảo vệ tập đoàn cứ điểm cần phải thăm dò sự chuẩn bị của đối phương ở vùng chung quanh và tiến hành những hoạt động đẩy đối phương ra xa. Nhiều cuộc hành quân thăm dò ra vùng chung quanh tập đoàn cứ điểm đã vấp phải lực lượng quân ta mỗi ngày một tiến vào gần hơn.
Những cuộc không vận tăng viện cấp tốc cho Thượng Lào đã thu hút hầu hết khả năng của không quân vận tải. Số lượng đồ tiếp tế hàng ngày cho Điện Biên Phủ giảm sút ghê gớm. De Castries dằn dỗi với Cogny là tình hình đạn dược, lương thực như hiện nay, cần đình hoãn những cuộc tiến công thăm dò ra vùng phụ cận tập đoàn cứ điểm. Cogny coi đó là điều không thể chấp nhận. Navarre lung túng không biết giải quyết ra sao.
Lần đầu đường băng sân bay và cứ điểm ở Eliane và Dominique bị oanh tạc bằng những trái đạn sơn pháo 75. Một máy bay nằm trên đường băng bị trúng đạn. Quân địch phát hiện có ít nhất hai trận địa pháo ở trên những cao điểm gần trung tâm đề kháng Gabrielle (Đồi Độc Lập) ngay bên trong thung lũng.
Ngày 31 tháng 1 năm 1954, Tiểu đoàn Angiêri số 5 và tiểu đoàn ngụy Thái số 3 được lệnh xuất phát từ Gabrielle tiến về cao điểm 633, nằm cách Đồi Độc Lập không đầy 1 kilômét về phía bắc.
Cao điểm 633 là một trận địa sơn pháo của ta, do một trung đội của trung đoàn 165 (đại đoàn 312) bảo vệ, nằm dưới quyền chỉ huy của đai đội phó Phạm Chưởng. Quả núi hình sừng trâu dài trên 300 mét đứng trên cánh đồng, đầu phía tây chạm con đường pavie từ Lai Châu chạy về, đầu phía đông gần với núi rừng trùng điệp, phía nam cây cối đã bị phát quang nhìn xuống bên dưới cách khoảng 800 mét là trung tâm đề kháng Gabrielle. Đây là một vị trí phòng ngự quá lớn đối với một trung đội chỉ có 27 người. Trung đội này mới tới cao điểm lúc nửa đêm, chỉ có mấy tiếng đồng hồ để chuẩn bị công sự trên sườn đồi đầy đá sỏi phía gần đường. Trời sáng, công sự của họ mới chỉ mới tới thắt lưng.
Quang cảnh trước mắt mỗi lúc càng rõ dần. Họ bỗng quên cả đói, quên cả mệt. Họ thấy mình đang ngồi ngay trên đầu kẻ địch. Máy bay, đại bác, xe cộ, ụ súng, hàng rào dây thép gai, bãi mìn, những cái bóng màu cứt ngựa chạy đi chạy lại quanh các vọng gác… tất cả đều như ở ngay dưới chân họ.
Trời sáng hẳn. Tiếng động cơ máy bay è è như trâu bị cắt tiết rồi bụi tung lên trên đường băng, máy bay địch theo nhau cất cánh. Những khẩu pháo nằm trên các trận địa cũng bắt đầu chuyển động, khạc lửa liên hồi ra các khu rừng phía đông và phía bắc.
Họ chợt nhận thấy một toán quân địch đang tiến về phía mình. Đại đôi phó Phạm Chưởng ra lệnh chuẩn bị chiến đấu. Bọn địch tới chân núi, dừng lại bên kia con suối nhỏ chốc lát, rồi đi thẳng về phía tiểu đội 1. Các chiến sĩ ta lách cách lên đạn. Trung đội phó Phú dằn từng tiếng ngắn: “Yên lặng. Tháo đạn. Tất cả chờ lệnh tôi”. Bọn địch chỉ đi qua chưa phát hiện ra bộ đội ta.
Mặt trời đã lên. Trời trong. Ánh nắng xua tan giá lạnh và những đám sương mù trong khe núi. Trung đội ngụy trang lại địa trận, nhận hai nắm cơm cho bữa trưa và chiều, kiểm tra lại súng đạn. Một chiếc “bà già” xuất hiện bay lượn vè vè nhòm ngó các khu rừng, đại bác địch lại bắn tứ tung vào những phân đội cơ giới bộ binh địch di chuyển khẩn trương trên cánh đồng Mường Thanh.
Chiếc “bà già” bắt đầu hạ độ cao và lượn vòng rất hẹp ngay trên đầu họ. Đại đội phó ra lệnh: “Không ai được ra khỏi công sự”.
Thời gian trôi qua nặng nề…
Bỗng đài quan sát báo cáo: có một bộ phận địch rất đông từ khu trung tâm Mường Thanh hành quân ra và dừng lại gần cứ điểm Độc Lập. Trung đội trưởng Trần Độ nhô đầu lên khỏi công sự quan sát. Anh hoa mắt. Những đám binh lính quần áo màu cứt ngựa như cua trong giỏ đổ ra, đang chạy tản ra tập hợp thành ba nhóm lớn, mỗi nhóm khoảng 200 tên. Những chiếc xe tăng đang nặng nề bò về phía họ. Đến gần suối, quân địch triển khai rộng đội hình, có những tên chỉ trỏ về phía trận địa của họ, có những tên đưa súng lên ngắm thử. Qua ống nhòm, Trần Độ tưởng như địch đứng ngay trước mặt và chĩa súng vào ngực mình. Anh nghĩ trận đánh sắp bắt đầu, đại bác và bom địch sắp trùm lên trận địa của họ. Nhưng bọn địch này chỉ đi men theo dòng suối.
Một toán khá đông khác bắt đầu qua suối, chúng bước lên những hòn đá to giữa dòng cho giày khỏi ướt. Chà! Chúng nó làm như đi du lịch, hoàn toàn không biết sự có mặt của họ ở đây.
Những tên Pháp đi đầu đã lên đến sườn đồi, chân ngập trong bụi gai, lau lách. Chúng đến mỗi lúc một gần. 100 mét. 50 mét. 30 mét. Chúng vẫn chưa phát hiện ra trận địa phòng ngự của ta. Trên đầu họ, cái tàu bay bà già vẫn lòng vòng rất thấp. Chúng gần quá, những cái chân to lớn như sắp dẫm lên đâu họ.
Những loạt tiểu liên của ta làm cho bọn Pháp rống lên. Những tên địch lăn nhanh như đá lở. Nhưng chúng bắn lại ngay. Tiểu liên, súng trường, trung liên, đại liên nổ inh tai nhức óc. Những tiếng hò hét chửi rủa xen lẫn tiếng súng thưa dần rồi im hẳn. Bọn Pháp nấp kín sau những bụi rậm.
Bỗng súng lại nổ rộn lên, rồi tiếng “a-la-xô” (1) loạn xạ. Bọn địch đã trấn tĩnh phát hiện lực lượng ta không đông, bắt đầu xung phong có tổ chức, hy vọng lấy hỏa lực và số đông đè bẹp đối phương. Chừng ba chục tên chạy lên bãi quang trước tiểu đội 3. Một loạt súng ròn rã từ đỉnh đồi bắn xuống. Những bóng áo xanh cứt ngựa như một lưỡi dao vô hình chém ngang, gục ngã, tụt hết xuống sườn đồi. Tất cả trở lại im lặng.
Chừng nửa giờ sau, từ phía đồi Độc Lập bỗng phát hiện ra tiếng “ục ục..” ngắn gọn. Đại đội phó hô: ”Xuống hầm! Cối 102 ly đấy”. Tiếng vo vo huýt gió rồi tiếng nổ rung chuyển.
Hầm ẩn nấp của họ chưa lấy gì làm kiên cố. Bốn khẩu cối 102 ly trên đồi Độc Lập và đại bác từ những xe tăng trên đường thi nhau bắn. Cây cối đổ gãy răng rắc, đất đá tóe lửa tung lên cao, trận địa khói mù và khét lẹt. Bọn Pháp dưới chân đồi bắt đầu ngóc dậy, dàn hàng ngang, chạy lom khom xông lên. Tiểu liên và Trung liên của ta lại nổ ran. Bọn địch nhảy chồm chồm như bị điện giật, có tên ngã xuống chết ngay. Một số đã rút được kinh nghiệm, nằm vội xuống đất và xả súng. Lộc, xả súng trung liên, bị thương, máu đầy mặt, một mảng trán bị vỡ. Tiểu đội phó Thình bò lên, túm lấy vai Lộc kéo xuống, nhưng Lộc quơ tay về phía sau, đẩy mạnh Thình rồi lại tiếp tục bắn. Trung đội trưởng Độ ra lệnh ném lựu đạn. Nhưng bọn địch đã ẩn nấp. Họ không tiêu diệt được địch mà còn mách cho chúng mục tiêu đang ở rất gần. Lập tức, lựu đạn bay tới miệng hầm, mảnh bắn rào rào. Các chiến sĩ chụp nhanh những quả lưu đạn bay xuống giao thông hào ném trả lại địch. Rất nhiều tên giặc gục xuống, nhưng vẫn có những tên khác xông lên. Những băng tiểu liên kịp thời của các chiến sĩ đã kịp thời chặn chúng lại. Hàng ngũ giặc bị vỡ ra hỗn loạn. Lần thứ hai quân địch bị đánh lui.
Đại đội phó Phạm Chưởng và cứu thương Hồng băng lại vết thương cho xạ thủ Lộc. Đầu quấn băng trắng lốp và khuôn mặt đỏ lòm bê bết máu khô, Lộc vẫn nói như cầu khẩn mọi người cho được ở lại tiếp tục chiến đấu. Đại đội phó Chưởng và Trung đội trưởng Độ chia nhau đi các tiểu đội phổ biến kinh nghiệm những đợt đánh vừa rồi và động viên chiến đấu.
11 giờ, đạn đại bác địch rơi từng chập giữa trận địa của họ. Sau những loạt đại bác, nhiều người thấy chân tay mỏi rời. Do bản năng tự vệ, cứ mỗi lần đại bác bắn xuống trận địa là gân cốt trong cơ thể của họ lại căng lên.
Tiếng đại bác vừa dứt, từng trung đội của địch đã dàn hàng ngang tiến lên. Đại đội phó Chưởng từ trên đồi chạy xuống nói với trung đội trưởng Độ: “Quân địch rất đông, có thể 3-4 đại đội xung phong từ phía tây, phía tây-nam và phía nam. Tất cả bộ phận chú ý chi viện cho nhau”. Nói rồi anh quay trở lại đỉnh đồi.
Độ quan sát xung quanh thấy khẩu súng máy độc nhất của trung đội đã biến mất. Cái hầm ẩn nấp bị sạt một bên nắp, cây cọc nằm ghếch ngược lên. Anh cất tiếng gọi, không ai trả lời. Họ hy sinh cả rồi ư? Anh cầm súng chạy sang hầm bên, cúi nhìn vào trong, chỉ thấy ba hòm đạn nằm ở góc hầm, không còn một ai! Anh chạy thêm một khoảng xuống sau đồi, tìm thấy cả ba người, Thình, Lộc, Hỗ đang ngồi trong hầm pháo cũ, từ đầu đến chân vùi toàn đất bột. Lộc ngồi tựa vào vách hầm, mắt nhắm nghiền mệt mỏi, máu chảy thấm đỏ cả cái băng trên đầu và đất cát trên mặt. Anh thét to ra lệnh cho Thình và Hỗ bố trí đánh địch xung phong, nhưng cả hai đều nhìn anh ngơ ngác. Tai họ đã bị điếc thi đạn pháo rơi sạt nắp hầm. Cuối cùng hai người xách súng chạy theo anh. Thình nghiêng đầu, miết súng kéo hết băng đạn rồi nghển cổ lên quan sát, tay tranh thủ thay băng. Đến băng thứ hai anh bắn ngắm từng ba viên một rất trúng đích. Bọn Pháp đánh giá đúng tác dụng khẩu súng máy của Thình, chúng tập trung hỏa lực bắn đến tung cả chóp mũ của anh lên. Đôi vội bò tới túm chân anh kéo xuống. Anh hiểu ý, trong chốc lát, khẩu súng máy đã được thay đổi vị trí.
Bọn Pháp chạy theo hõm núi vừa ló đầu lên đã bị súng nổ đập ngay vào mặt… Tiếng thét, tiếng nổ ở cả phía tây lẫn phía nam đều đã đổi thành tiếng kêu gào loạn xạ, sau đó là những tiếng kêu la rồi im bặt.
Pháo địch bắt đầu bắn đến lộng óc. Độ và tiểu đội trưởng Việt Hồng lại chui vào hầm. Tai họ vẫn phải chăm chú lắng nghe. Nếu dứt tiếng đại bác, có tiếng súng trường, là bọn Pháp lại xung phong.
Đỉnh đồi của tiểu đội 3 và khu vực sở chỉ huy đại đội bị nổ xáo trộn rất dữ dội, đất khói lửa nổ tung tóe. Độ nhảy ngay ra khỏi hầm, định chạy về phía đó. Nhưng được mươi bước, anh giật mình đứng lại: cái hầm ẩn nấp cũ của pháo binh, trong đó có ba chiến sĩ súng máy, đã thành một vũng sâu. Anh điên lên, nhảy xuống hầm bới móc. Một cây gỗ lớn ghếch đầu lên giữa hầm. Anh ghé vai nâng nó lên, nâng theo mấy cây khác. Cuối cùng lòi ra cái nòng súng máy cong queo và một phần thân thể của Thình, Hỗ. Anh ân hận quá vì mình đã không lệnh cho anh em chuyển vị trí. Độ chạy vào hầm của sở chỉ huy đại đội, báo cáo với đại đội phó Chưởng và hỏi về tình hình liên lạc với tiểu đoàn.
Đại đội phó chậm rãi nói:
- Bắt đầu từ đợt pháo thứ nhất, liên lạc đã bị đứt rồi. Cậu Tý chạy đi nối đường dây rất nhiều lần nhưng máy vẫn câm tịt.
Đại đội phó chăm chú nhìn anh rồi nói tiếp:
- Súng trường, tiểu liên, lựu đạn, lưỡi lê, rồi cuốc xẻng, dùng mọi thứ mà đánh.
Độ trở về trận địa. Tiểu đội trưởng súng máy Việt Hồng lặng lẽ nghe anh truyền đạt lại ý kiến của đai đội phó. Nghe xong, anh khẽ nhíu lông mày và quai hàm rung rung liền mấy cái. Anh là chi ủy viên được chi ủy Đảng trao cho phụ trách tổ súng máy, khi cả ba chiến sĩ của mình, trong đó có hai Đảng viên là Thình và Lộc, đã hy sinh, địch sắp tiếp tục tiến công, mà toàn trung đội không có lấy một cái súng máy!
Một lúc sau, bọn địch có lẽ tin là lực lượng của ta đã bị pháo binh tiêu diệt hết, nên lại hùa nhau xông lên. Súng của ta lại nhất loạt nổ. Đại đội phó từ đỉnh đồi chạy xuống, xuýt xoa:
- Tý nữa thì đi đứt. Lực lượng chính của nó đã đi vòng sang bên trái lợi dụng khe núi đánh lên đúng vào sở chỉ huy đại đội. May mà anh em kịp phát hiện nên mình đưa cả lực lượng quân báo, thông tin ra chặn đánh. Chú ý sườn bên trái đấy nhé! – Nói xong anh lại chạy đi.
Đợt xung phong thứ tư này của địch đã diễn ra rất ác liệt và gây cho trung đội một tổn thất lớn. Bọn Pháp lợi dụng khe núi xung phong vào khu vực trống của trận địa. Đại đội phó đã điều cả lực lượng còn lại gồm 3 quân báo, 1 thông tin viên và 1 cứu thương ra chặn đánh. Đang lúc khó khăn ấy thì Văn, Vận, Lĩnh từ tuyến sau mang 100 quả lựu đạn và 1 khẩu súng trung liên ra tăng viện. Bọn Pháp bị dồn xuống nhưng chúng vẫn lợi dụng khe núi để tránh đạn và không chịu rút. Đồng chí Chưởng bò lên đến đầu dốc, bắn bọn Pháp dưới khe. Khẩu trung liên bỗng nhiên bị hóc, Văn cuống lên. Chiếc mũ ngụy trang và dáng người thon thon của đồng chí Chưởng cứ ẩn hiện, án ngữ lấy đầu khe núi như một bức tường vững vàng chắn lối quân thù. Nhưng hại thay, một loạn đạn của quân thù lại bắn trúng đầu đồng chí đại đội phó. Đồng chí nhoai người về trước một đoạn nữa mới chịu nằm lại. Cứu thương Hồng vội lao lên, nhưng bọn Pháp lại xông tới. Đại đội phó ngẩng đầu lên, mặt đầy máu, ra lệnh, một mệnh lệnh cuối cùng của anh: “Lựu đạn! Lựu đạn! Văn đâu? Bắn vào súng máy…địch…”. Tất cả đều ném lựu đạn. Cứu thương Hồng nhô lên gập xuống ném liền 2, 3 quả lựu đạn xuống khe, nhưng rồi anh cũng hy sinh bên cạnh xác đại đội phó. Giữa lúc ấy, tiểu đội phó Văn lấy hòm đạn ghè mạnh cần cơ bẩm trung liên rồi dùng chân đạp, cuối cùng khẩu súng lại nổ liên hồi. Anh bắn nhanh đến nỗi Lĩnh và Vận lắp đạn không kịp. Cái khe núi đã đầy xác địch, nhưng dứt tiếng súng là bọn Pháp lại xông lên. Bỗng đầu Văn hơi giật lên, anh ghì súng nằm yên không động đậy nữa. Vận bò lên, với lấy cây súng, nhưng cũng gục xuống theo. Đạn địch đập chan chát vào khẩu súng máy. Lĩnh bò lên lôi súng lại, nhưng khẩu súng đã hỏng và Lĩnh cũng bị thương luôn vào cánh tay.
Tình hình thật nguy ngập. Tổ quân báo kịp thời chạy xuống. Hỏa lực ta được tăng cường và bọn Pháp không ngóc đầu tiến thêm được bước nào nữa…
Lĩnh chạy về gặp Độ báo cáo. Độ theo Lĩnh lên đầu khe núi. Cả bốn liệt sĩ nằm theo đội hình bậc thang. Văn, Vận nhô lên phía trước, đầu chạm cây gỗ đổ ngang, đại đội phó và cứu thương Hồng nằm trên mô đất giữa khe. Tất cả đều nằm sấp, đầu hướng về phía địch, hai tay để trước ngực, đúng tư thế chiến đấu. Trung đội đã tổn thất một bộ phân quan trọng. Quân địch vẫn đang ngấp nghé dưới chân đồi. Độ đứng dậy quay về vị trí chiến đấu.
Quá trưa bọn Pháp rút sang bên kia suối bố trí và bắt đầu đào công sự. Chúng chưa chịu bó tay.
Đại đội phó hy sinh. Người chỉ huy cao nhất còn lại là Trần Độ. Anh chưa phải là Đảng viên. Không liên lạc được với cấp trên. Từ giờ phút này anh phải gánh vác tất cả trách nhiệm. Anh hội ý cán bộ...Tuyến từ bên kia đồi cũng chạy về báo cáo tỉ mỉ tình hình chiến đấu thắng lợi của bộ phận mình.
Anh yên lặng nghe tuyến báo cáo rõ ràng, chắc chắn, đầy tự tin, rất khác với tính hiền lành chậm chạp của anh hàng ngày. Anh nói:
- Trung đội chúng ta chiến đấu rất tốt. Giặc đã bỏ mạng rất nhiều. Nhưng đại đội phó đã hy sinh. Trong số 32 đồng chí, chúng ta mất 10 và bị thương 2. Đó là một tổn thất lớn đối với trung đội, nhưng chúng ta kiên quyết chiến đấu, giữ vững trận địa, tiêu diệt nhiều địch để trả thù cho các đồng chí đó.
Độ dặn tiếp anh em không ngừng xây đắp và sửa chữa trận địa, tiết kiệm đạn dược, trao đổi kinh nghiệm chiến đấu.
Khi anh sắp sửa bảo mọi người trở về vị trí thì Việt Hồng nhìn anh vói vẻ mắt nghiêm trang, nói:
- Tôi xin thay mặt cấp ủy tuyên dương tinh thần chiến đấu của tất cả các đồng chí trong và ngoài Đảng. Trong trận này có nhiều đồng chí lập công và xứng đáng là Đảng viên của Đảng. Ở đây trước hết tôi xin báo cáo chi bộ để kết nạp đồng chí Độ vào Đảng Lao động Việt Nam.
Trung bật lên:
- Tôi đồng ý và xin cùng đồng chí Việt Hồng giới thiệu đồng chí độ vào Đảng.
Độ xúc động, các cơ mặt đều run lên, chỉ nói được một câu:
- Tôi xin hứa sẽ cố gắng và suốt đời chiến đấu vì sự nghiệp của Đảng (2) .
Họ vừa về vị trí đang tranh thủ đào đắp công sự thì những chiếc máy bay ném bom đen trũi bổ nhào xuống đầu. Tiếng nổ của bom và tiếng rú của máy bay lay động cả bầu trời Điện Biên Phủ. Bom nổ phá vỡ từng mảng đất, đá lớn dưới sườn đồi. Bom na-pan đốt cháy trụi cả cây rừng lẫn những dàn ngụy trang. Tiếp đến là đại bác cứ rộn lên rồi thưa đi, rồi lại dồn dập. Nằm tránh pháo lâu mọi người thấy buồn ngủ. Bỗng nhiên, trong tiếng nổ gần như êm êm của pháo rộn lên tiếng súng máy. Đạn từ trên cao, từ phía sau quất vào công sự, làm cho Độ và Việt Hồng hai lần nhỏm dậy nhưng lại phải chúi xuống ngay. Có lẽ nào tiểu đội 3 bị tiêu diệt nhanh đến nỗi bọn Pháp đã chiếm trọn cả mỏm đồi cao ấy? Tại sao toàn trung đội không một ai bắn trả lại? Hay anh em mệt quá nên ngủ quên đi…? Mọi giả thuyết đều có thể xảy ra, cần hành động ngay. Độ né mình bên nắp quân sự, quay súng về tiểu đội 1 và quân báo quét liền nửa băng nữa. Nhưng những loạt tiểu liên của anh và của bọn Pháp cũng không thức tỉnh được anh em trong hàm ẩn nấp.
Súng máy địch vẫn đè họ xuống một cách tai ác. Độ nghe tiếng hò hét mỗi lúc một gần, cả từ đỉnh đồi tiểu đội 3 xuống, lẫn từ sườn đồi phải lên phía trước. “Mất trận địa! Mất trận địa!” – ý nghĩ ấy đến với Độ như một lưỡi dao đâm ngang. Phải đón đánh ngay cả phía trước, lẫn bên sườn. Bỗng một tiếng nổ rất lớn trên đồi tiểu đội 3, rồi tiếng hô “xung phong” vang lên. Độ mừng quýnh: tiểu đội 3 vẫn còn! những khẩu súng máy địch im bặt, và chỉ một lát sau bọn Pháp đã bị đẩy xuống núi.
Phút hiểm nghèo đã qua. Độ chạy ngay lên đỉnh đồi. Thì ra trong lúc pháo binh và máy bay địch bắn, anh em ẩn nấp quá lâu trong hầm chỉ để lại đông chí Lợi cảnh giới trước trận địa. Bọn Pháp đổi quy luật. Chúng nhằm tiếng nổ của pháo vẫn đều đều đập vào núi, tiến quân vòng ra phía sau và đánh lên, vì vậy đồng chí Lợi đã bị chúng giết tại chỗ ngay trong loạt súng đầu tiên. Bọn Pháp chiếm khu vực đỉnh đồi một cách dễ dàng, rồi ào ạt đánh xuống khu vực. Tiểu đội 3 nghe súng nổ, từ trong hầm đã chạy ra, nhưng không thể không ngóc đầu dưới luồng đạn súng máy của địch. Bọn Pháp xung phong xuống đồi, lướt qua ngay trước công sự ta. Chiến sĩ Cầu, một Đảng viên trẻ tuổi lo mất trận địa, lo tiểu đội 3 xuất kích bị tiêu diệt… đã nhanh như sóc bò lên ném thủ pháo vào khẩu súng máy của địch rồi hô to “xung phong”. Tiếng hét của Cầu như một mệnh lệnh chiến đấu đã làm cho tiểu đôi 3 nhất loạt nhảy ra tiêu diệt địch, chiếm lại trận địa phòng ngự trên đỉnh đồi.
Trời về chiều, bọn Pháp tiến công ngày càng điên cuồng. Lần này chúng không xung phong vào chính diện phòng ngự của trung đội nữa. Chúng chia thành nhiều hướng xung phong. Sức chiến đấu của trung đội có hạn lại phải chia ra đối phó ở nhiều nơi. Mặc dù địa hình phòng ngự thuận lợi, trận địa tốt, nhưng họ vẫn đối phó không xuể. Giữa lúc đó thì một loạt súng nổ xuất hiện từ bên phải, một số binh lính địch nhảy vào trận địa, chúng đang bị những cây cối đổ ngang chắn đường tiến.
Độ đã cùng với Việt Hồng chỉ còn giương súng chiến đấu như một chiến sĩ. Anh lắng nghe tiếng súng, hễ súng ta còn nổ đều tức là anh em còn, trận địa còn.
Sau 6 đợt phản công, trung đội đã có 12 đồng chí hy sinh và số lớn bị thương. Anh em chưa kịp thay đổi bố trí phòng ngự thì bọn địch lại đánh lên. Hỏa lực tuy ít nhưng biết bắn đón và bắn tập trung nên đã đè dí bọn Pháp xuống sườn đồi.
Mặt trời gần xuống núi.
Một ngày sẽ qua và ta đã đánh thắng! Một cảm giác vừa hồi hộp vừa khoan khoái đến tận bây giờ mới đến với Độ. Độ tin rằng đó là sự thật nhưng vẫn cảm thấy mình nghĩ như vậy là không đúng nên sợ anh em đọc được ý nghĩ ấy của mình. Đại bác địch vẫn thưa thớt bắn vào trận địa.
Bỗng Trung chạy về phía Độ, chưa đến nơi đã nhanh miệng:
- Báo cáo đồng chí Độ, địch rút lui!
Độ nhảy lên chiến hào quan sát. Bọn Pháp đang lếch thếch từng toán mươi mười lăm tên kéo nhau về phía nam. Những chiếc xe tăng vẫn đứng trên đường yểm hộ cho cuộc rút lui. Độ nhìn Việt Hồng và Trung. Cả ba đều nhoẻn miệng cười.
Họ cùng hít từng hơi dài nhẹ nhõm. Bấy giờ họ mới cảm thấy vừa khát vừa đói. Từ sáng tới giờ cả trung đội đều chưa ăn uống gì. Quả đồi sớm nay còn kín đáo giờ đã tan hoang, trơ trụi, ngổn ngang đất đá và cây cụt, nhưng vẫn thuộc về họ.
Những cuộc chiến đấu tương tự không chỉ diễn ra trên cao điểm 633. Nó còn diễn ra trên những cao điểm 781, 754, 518, 502...(mà ta gọi là khu vực Đồi Xanh) hợp thành một bức thành ngăn cách cánh đồng Mường Thanh với dãy núi Tà Lèng ở phía trong, nơi bộ đội ta đang triển khai xây dựng trận địa. Các đơn vị phòng ngự của 316, 312 đã rút kinh nghiệm những trận đầu tiên, xây dựng trận địa theo thế liên hoàn, củng cố công sự chắc chắn, có mái che chống lại pháo địch. Về mặt chiến thuật, không dàn mỏng lược lượng, chỉ để một bộ phận phòng ngự ở phía trước kết hợp với lực lượng cơ động mạnh sẵn sàng phản kích. Trong lúc trận địa có thể bị mất, Hoàng Văn Nô, một chiến sĩ người Nùng mới hai mươi tuổi, nhảy khỏi giao thông hào, dùng lưỡi lê đâm chết một tên địch vầ đâm tiếp một tên khác. Hành động của Nô cổ vũ cả tiểu đội. Tất cả các chiến sĩ khác cùng nhảy vọt ra khỏi hào, lao vào quân địch với những chiếc lưỡi lê tuốt trần. Hoảng sợ trước lối đánh quyết liệt của ta, địch quay đầu tháo chạy. Tiểu đội quyết đuổi theo. Hoàng Văn Nô lần thứ năm lao tới một tên địch to lớn gấp rưỡi mình. Một tên chạy phía trước ngoái lại nhả một băng tiểu liên ngăn chặn những người truy đuổi. Nô ngã xuống với chiếc lưỡi lê đã cắm sâu vào ngực tên địch khi trận đánh đã kết thúc. Trong trận này, một tiểu đội của ta đánh lui một đại đội địch. Chúng bỏ lại trên Đồi Xanh gần hai chục xác chết. Ta đã bắt địch phải chịu đựng cái chết mà chúng sợ nhất: chết vì lưỡi lê! Chiến sĩ Hoàng Văn Nô được Bộ chỉ huy chiến dịch truy tặng danh hiệu duy nhất trong chiến tranh: ”Dũng sĩ đâm lê”...
Theo Bernard Fall thì từ ngày 6 tháng 12 năm 1953 đến 13 tháng 3 năm 1954, De Castries đã huy động già nửa lực lượng của tập đoàn cứ điểm vào những cuộc hành binh giải tỏa.
Tác giả viết: ”Chiều ngày 15 tháng 2 năm 1954, tại sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm cũng như ở Hà Nội, người ta tiến hành một bản thống kê nặng nề. Theo những bản kê mới nhất từ Điện Biên Phủ gửi về, thiệt hại của binh đoàn đồn trú từ 20 tháng 11 đến 15 tháng 2 đã lên đến tổng số 32 sĩ quan, 96 hạ sĩ quan và 836 binh lính tương đương với 10% số sĩ quan và hạ sĩ quan và 8% binh lính ở thung lũng.”
Navarre đã thú nhận trong cuốn hồi kí của mình: “Trong thời gian này, đại tá De Castries thực hiện những trận chiến đấu mạnh mẽ có tính thăm dò xung quanh Điện Biên Phủ. Ở khắp nơi, quân Pháp đều vấp phải những đơn vị bộ đội vững vàng và phòng ngự rất giỏi của địch. Chúng ta bị thiệt hại khá nặng nề. Rõ ràng là vòng vây chung quanh tập đoàn cứ điểm không hề bị rạn nứt”.
Chỉ huy trưởng rất vui khi nghe báo cáo những phân đội nhỏ phòng ngự của ta đã nhiều lần đánh lui những lực lượng cơ động đông hơn hàng chục lần, có xe tăng, pháo binh, không quân yểm trợ, nhưng vẫn bảo vệ được trận địa. Nhưng qua đây anh cũng hình dung ra những khó khăn của bộ đôi trong những trận đánh sau này vào những trung tâm đề kháng của địch trên các cao điểm.
❖ 4 ❖Ngày 18 tháng 2 năm 1954, đại đoàn 308 đang bao vây Mường Sài và dừng lại trước Luông Pha Băng 20 kilomet được lệnh quay về Điện Biên Phủ. Trên đường đoàn quân trở về, một vùng đất mênh mông ở Thượng Lào đã được giải phóng, cuộc hành quân không còn phải mở đường, đề phòng quân địch phục kích, lo hậu cần như 3 tuần trước đây. Bộ đội đã hồi sức sau những ngày đêm truy kích. Số thương vong trong chiến dịch Thượng Lào lần này không đáng kể. Cuộc hành quân mã hồi hào hứng không kém ngày lên đường đi chiến dịch.
Từ trên cao nhìn xuống, quang cảnh Điện Biện Phủ không có gì thay đổi. Có khác chăng đôi chút là những chiếc dù các màu ở chung quanh các tập đoàn cứ điểm có phần dày đặc hơn.
Nhưng khi đặt chân trên cánh đồng thì chúng tôi ngỡ ngàng khi thấy mình không còn phải hành quân trên mặt ruộng, mà đi trong một đường hào rộng rãi bên trên có dàn ngụy trang bằng lá cây, không phải lo những loạt pháo bất thần. Đường hào dài tít tắp. Sau đó chúng tôi mới biết đây là đường hào trục bao quanh cả cánh đồng Mường Thanh, sẽ là nơi xuất phát những cuộc tiến công, di chuyển pháo, vận chuyển thương binh.
Khi tới vị trí trú quân, chúng tôi còn ngạc nhiên hơn là dưới lòng đất đã xuất hiện một thành phố ngầm. Chỉ huy sở và các cơ quan nằm trong lòng núi với những căn hầm thoáng rộng, những khối đất được chừa lại làm bàn làm việc, ghế ngồi hoặc giường nằm. Sự di chuyển từ nơi này sang nơi khác đều bằng giao thông hào.
Một tháng qua, trong khi đại đoàn chúng tôi truy kích quân địch thì các đơn vị ở lại không những đã bao vây chặt chẽ quân địch, tiến hành mọi công việc chuẩn bị cho đơn vị mình, mà còn xây dựng toàn bộ cơ sở trú quân và trận địa cho cả một đại đoàn vắng mặt.
Chúng tôi không chỉ nhận được chỗ ở mới tươm tất mà còn nhận được phần quà Tết, trong đó có hàng ngàn bức thư từ hậu phương gửi ra mặt trận với những tình cảm thân thương. Chúng tôi hiểu rằng chỉ còn chờ sự có mặt của đơn vị mình là trận Điện Biên Phủ được bắt đầu.
Chú thích:
1. Tiếng Pháp: “A l’assaut!” Có nghĩa là “Xung phong!”.
2. Theo hồi ký của Đại tá Trần Độ, nguyên Trung đội trưởng Trung đoàn 165, đại đoàn 312.