Chương XXI TRƯỚC NGÀY N.
❖ 1 ❖
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, với sự xuất hiện của các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu và châu Á, những cường quốc phương Tây mặc dù có những quyền lợi khác nhau đã thống nhất trong một mặt trận chống Cộng. Mỹ đã nổi lên như một siêu cường về kinh tế và quân sự đứng đầu thế giới tự do, vốn không ưa chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, nhưng vẫn khuyến khích Pháp và ủng hộ Pháp trong cuộc chiến nhằm tái chiếm thuộc địa cũ tại Đông Dương vì nó là một bộ phận của cuộc đấu tranh chống Cộng.
Tháng 6 năm 1950, chiến tranh nổ ra trên bán đảo Triều Tiên, mặt trận này lại được siết chặt hơn. Với những cuộc xung đột ở Đông Dương và Triều Tiên, chiến tranh lạnh đã trở thành chiến tranh nóng giữa phương Đông và phương Tây. Mọi biến cố trên hai bán đảo này không tách khỏi đường đi nước bước giữa hai chế độ Cộng sản và chống Cộng trên phạm vi toàn cầu.
Hiệp định đình chiến tại Triều Tiên được ký tháng 7 năm 1953. Các cường quốc đã nhất trí sau ba tháng sẽ có một hội nghị chính trị cho vấn đề Triều Tiên.
Ngày 27 tháng 10, Laniel tuyên bố trước Quốc hội là nước Pháp không khước từ điều đình cho một cuộc ngừng bắn tại Đông Dương. Ngày 12 tháng 11, Laniel lại khẳng định trước Hội đồng Cộng hòa là “nếu một giải pháp danh dự có thể được thực hiện trong khuôn khổ địa phương hay quốc tế, Pháp, cũng như Hoa Kỳ sẽ vui mừng đón nhận một giải pháp ngoại giao cho cuộc xung đột”. Từ trước tới nay, những nước chống Cộng phương Tây bị ràng buộc bằng một chính sách của Mỹ là không một cường quốc nào đang giao chiến với một nước cộng sản được thương lượng một cuộc ngừng bắn riêng rẽ với nước này. Nguyên tắc này đã buộc người Pháp phải cắt đứt những ý đồ tìm một giải pháp chính trị với Việt Minh để đánh đổi lấy sự viện trợ ngày càng lớn của Mỹ cho chiến tranh Đông Dương. Ta đã hiểu vì sao Pháp không phản đối chủ trường của Mỹ đối với vấn đề ngừng bắn ở Triều Tiên. Vì khi đã chấm dứt chiến tranh Triều Tiên, Mỹ sẽ không thể phản đối Pháp tìm một giải pháp chính trị cho vấn đề chiến tranh Đông Dương.
Ngày 17 tháng 11 năm 1953, đô đốc Cabanier (Cabaniê) được nhà cầm quyền Pháp phải sang Sài Gòn để hỏi ý kiến Tổng chỉ huy Navarre về một cuộc điều đình. Đúng lúc đó, cả Navarre và ta đều đang khẩn trương triển khai kế hoạch mùa khô. Naverre thì “mùa hạ tới sẽ có đủ sự hỗ trợ về quản sự để có thể điều đình kết quả”.
Ngày 29 tháng 11 năm 1953, phóng viên tờ Expressen của Thụy Điển, đang có mặt tại Paris, nhanh nhạy gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh những câu phỏng vấn về triển vọng một cuộc ngừng bắn tại Đông Dương. Bác trả lời, nếu Chính phủ Pháp muốn có một cuộc ngừng bắn thì Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng xem xét.
Lời tuyên bố của Bác có tiếng vang lớn. Ngày 1 tháng 12 năm 1953, Cabanier trở về báo cáo với Tổng thống Pháp Auriol (Ôriôn) ý kiến của Navarre. Nó không chống lại một cuộc điều đình với Việt Minh. Và thời điểm Navarre đề ra không phải là không thích hợp vì đầu mùa hạ, cuộc họp chính trị về Triều Tiên mới bắt đầu. Lúc này Navarre đã thực sự mở đầu mùa khô bằng việc đánh chiếm Điện Biên Phủ, một cuộc tiến công gây ấn tượng ở Pháp.
Tại hội nghị Mỹ, Anh, Pháp ở Barmudes ngày 7 tháng 12 chuẩn bị cho cuộc họp về vấn đề Triều Tiên, Laniel và Bidault nêu ý kiến là Pháp sẵn sàng đưa ra vấn đề chiến tranh Đông Dương bất cứ lúc nào thuận lợi, có thể là nhân dịp họp về vấn đề Triều Tiên, hoặc riêng rẽ. Pháp đã nhanh chóng gắn liền một giải pháp về vấn đề chiến tranh Đông Dương với cuộc họp bàn về chiến tranh Triều Tiên. Pháp không để cơ hội trôi qua. Trước khi kết thúc hội nghị, ngày 8 tháng 12, Pháp đề nghị ba nước phương Tây có mặt trong hội nghị tứ cường (Liên Xô, Anh, Mỹ, Pháp) sắp tới tại Berlin, chuẩn bị cho cuộc họp về Triều Tiên tại Genève vào tháng Tư tới, sẽ thống nhất đề ra thông báo về cuộc họp bàn về vấn đề “lập lại hòa bình ở Đông Dương” sau hội nghị này.
Ngày 25 tháng 1 năm 1954, bốn ngoại trưởng Liên Xô, Anh, Mỹ, Pháp họp tại Berlin. Hội nghị đi tới quyết định: ngày 26 tháng Tư năm 1954, hội nghị về Triều Tiên sẽ được mở tại Genève sẽ đồng thời xem xét vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương. Mỹ không thích gì một giải pháp chính trị với những người cộng sản ở Đông Dương, nhưng không có lý lẽ gì để phản đối. Vấn đề Đông Dương được gắn với cuộc Hội nghị chính trị của chiến tranh Triều Tiên, nhưng nó lại trở thành quan trọng, thành vấn đề chủ yếu, vì các cường quốc đều thấy không thể giải quyết vấn đề chính trị của hai miền Nam, Bắc Triều Tiên trong cuộc họp này.
Những diễn biến bất lợi về quân sự tại Đông Dương diến ra tại Trung Lào từ ngày 29 tháng 12 năm 1953 đã làm cho Chính phủ Pháp lo ngại. Ngày 26 tháng 1 năm 1954, Chính phủ Pháp quyết định cử Bộ trưởng Quốc phòng Pléven sang thanh tra Đông Dương để nghiên cứ tại chỗ xem thời gian sẽ có lợi hay hại cho họ.
Mấy ngày sau khi Pléven lên đường, Paris được tin Việt Minh mở cuộc tiến công về phía Luông Phabăng. Vấn đề bảo vệ nước Lào, Navarre nhiều lần nêu lên từ ngày nhậm chức chưa được giải quyết, lúc này lại được đặt ra. Hội đồng Quốc phòng họp ngày 6 tháng 2, qua tranh luận, nhất trí trong tình hình hiện tại sự mất còn của đội quân viễn chinh còn quan trọng hơn sự mất còn của nước Lào. Hội đồng chỉ thị cho Pléven phải có những quyết định tại chỗ tùy theo tình hình dựa trên nguyên tắc đặt số phận của đội quân viễn chinh lên trên số phận của nước Lào.
Pléven ở Đông Dương từ ngày 9 đến 28 tháng 2. Tại đây, đã có mặt De Chevigné và các tướng Ely, Blanc và Fay đều có trách nhiệm tìm hiểu tình hình. Pléven đã thăm tất cả các mặt trận, Nam Bộ, chiến dịch Atlante, Luông Phabăng, Điện Biên Phủ và miền Trung Việt Nam, rồi gặp cả Bảo Đại ở Buôn Ma Thuột và Đà Lạt. Không phải ông ta không nhận thấy sự sa sút chậm nhưng dai dẳng tại đồng bằng Bắc Bộ, tình hình ngày càng nghiêm trọng ở Tây Nguyên, binh lính bị sử dụng quá sức và số thương vong tăng lên một cách đáng lo ngại. Những điều kiện của chiến tranh không cho phép hy vọng chiều hướng này sẽ đảo ngược. Nhưng ông ta nhận thấy tình hình quân sự không đáng lo lắng như khi nhìn từ Paris, những phản ửng của Navarre trước cuộc tiến công của Việt Minh tỏ ra mau lẹ, đúng đắn và những gì đang diễn ra ở Điện Biên Phủ là hoàn toàn có thể hiểu được. Cảm giác chung của ông ta qua những cuộc tiếp xúc với đội quân viễn chinh đúng hơn là rất đáng khích lệ. Ông buộc phải kết luận là đội quân viễn chinh không hề đang hoặc sắp sửa bị kẻ thù đe dọa. Ông ta đặc biệt xúc động trước niềm tin lạ thường vào chiến thắng của những người bảo vệ Điện Biên Phủ cũng như sức mạnh của tập đoàn cứ điểm.
Khi trở về Paris, Pléven đã đệ trình chính phủ những kết luận của mình và khẳng định: không thể dùng vũ khí để giành một quyết định, kể cả việc thay đổi cán cân tình hình một cách có ý nghĩa. Việt Minh có sự giúp đỡ của Trung Quốc với những căn cứ không bao giờ cạn sẽ buộc chúng ta phải đối phó với một cuộc chiến ngày càng khó khăn. Tất cả những điều người ta có thể hy vọng là tạo một tình hình thuận lợi để điều đình. Chắc chắn là quân đội Việt Nam [quân ngụy] sẽ cải thiện được tình hình chiến đấu và làm giảm nhẹ gánh nặng cho quân viễn chinh. Hiện nay nó đã có 210.000 người và sẽ lên tới 300.000 vào cuối năm. Nhưng con số này vẫn chưa đủ. Phải làm cho chính phủ Việt Nam đưa đất nước vào chiến tranh và biến nó thành một cuộc nội chiến. Nếu những điều kiện này không được thực hiện, chiến tranh sẽ không có lối thoát.
Pléven kết luận dứt khoát là thời gian trước mắt không thuận cho người Pháp. Và khuyên nên lợi dụng hội nghị Genève để chấm dứt cuộc xung đột. Tướng Blanc còn đi xa hơn vị bộ trưởng, đánh giá là phải tìm một giải pháp ngay khi năm 1954 bắt đầu, nước Pháp cũng như quân đội của nó không thể chịu đựng về vật chất cũng như tinh thần những cố gắng của một cuộc chiến tuyệt vọng.
Chính phủ Pháp nhất trí với những kết luận của Pléven. Laniel khẳng định ngày 5 tháng 3 năm 1954 trước Quốc hội, mong muốn dứt khoát “giải quyết cuộc xung đột bằng con đường điều đình”.
Có thể nói Naverre lúc này đang dồn sức để giành một thắng lợi trên chiến trường để tại lợi thế cho cuộc điều đình sắp tới mà nhà cầm quyền Pháp đã quyết tâm tiến hành trong thời gian không xa.
❖ 2 ❖Ta đã biết lá bài chiến lược của Naverre trong Đông-Xuân 1953-1954 là cuộc tiến công Atlante nhằm xóa bốn tỉnh tự do ở Liên khu 5 từ đầu chiến tranh vẫn ngăn đôi hai miền Nam, Bắc Việt Nam. Nhưng Điện Biên Phủ có phải là một nước cờ Navarre phải đi để đối phó với một tình huống mới xuất hiện?
Cần nhìn lại, trong khi trình bày bản kế hoạch chiến lược hai năm của mình để thông qua chính phủ, Navarre đã đề cập tới Điện Biên Phủ như là một phương án cần thiết đẻ bảo vệ thủ đô của nhà vui Lào trong trường hợp nó bị đe dọa. Navarre đã không ngừng nhắc lại với Chính phủ Pháp phải xác định rõ vấn đề bảo vệ nước Lào với mình. Và khi quyết định đánh chiếm Điện Biên Phủ trong trường hợp chưa hề có nguy cơ nào đe dọa nước Lào, Navarre đã bất chấp sự phản đối quyết liệt của cấp dưới và qua mặt cả Cao ủy Pháp De Jean. Ngay cả sau này, cao ủy Pháp thực sự vẫn không hiểu Navarre định làm gì với việc đánh chiếm cái thung lũng xa xôi ở miền Tây Bắc Kỳ. Theo nhận định của ông ta thì Navarre chủ tâm đánh chiếm Điện Biên Phủ để tìm kiếm một cơ hội tiêu diệt đội quân chủ lực Việt Minh! Berteil, người trợ thủ tin cậy nhất của Navarre, nhận xét: trong đầu Tổng chỉ huy chỉ có hai chữ Atlante và Điện Biên Phủ.
Những điều trên đây chứng tỏ Điện Biên Phủ không xuất hiện một cách ngẫu nhiên, mà là nước cờ lớn của Navarre trong Đông-Xuân 1953-1954, đã được Navarre nghiền ngẫm kỹ lưỡng và dùng mọi cách để thực hiện bằng được. Ta cần tìm hiểu thêm vì sao Navarre đã dành nhiều tâm lực và quyết tâm chơi lá bài Điện Biên Phủ.
Niềm tin vào chiến thắng của quân Pháp ở Điện Biên Phủ không chỉ có ở Cogny và giới tham mưu quân sự tại Đông Dương. Từ tháng 1 năm 1954, đã có rất nhiều người có trọng trách về chiến tranh của Pháp và của Mỹ đến kiểm tra tập đoàn cứ điểm. Về phía Pháp, đó là Bộ trưởng các quốc gia liên kết Marc Jacket, Bộ trưởng Quốc phòng Pléven, Tổng trưởng Chiến tranh De Chevigné, Tổng tham mưu trưởng Ely và các tham mưu trưởng Lục quân, Không quân, Hải quân Pháp. Về khách nước ngoài, người Mỹ có mặt sớm nhất. Trung tướng Thomas Trafnell, trưởng phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ (M.A.A.G) rồi Đại tướng O’Daniel, chỉ huy lực lượng bộ binh Mỹ ở Thái Bình Dương, đến thăm Điện Biên Phủ, mang theo cả một đoàn đông đảo sĩ quan Mỹ, trong đó có một số người đã từng phải đối chọi với cao xạ địch ở Triều Tiên. O’ Daniel đã mang về cho Tổng thống Mỹ Eisenhower những lời báo cáo ấm lòng. Người Anh muốn tỏ ra không thờ ơ với Điện Biên Phủ, với sự có mặt của nhiều quan chức: Charles Loewen – Tư lệnh quân đội Anh - Ấn ở Viễn Đông, Mc Donald – Tổng Cao ủy Đông Nam Á, Sir Stewart – cố vấn Bộ Ngoại giao. Niềm tin vào chiến thắng ở phương Tây được nhân lên qua những chuyến thăm viếng, thực sự là những lần kiểm tra. Trong cuốn hồi ký sau này của mình, Navarre viết: “Chưa có một quan chức dân sự hoặc quân sự nào đến thăm (Bộ trưởng Pháp và nước ngoài, những tham mưu trưởng của Pháp, những tướng lính Mỹ) mà không kinh ngạc trước sự hùng mạnh của nó [con nhím Điện Biên Phủ] cũng như không bày tỏ với tôi tình cảm của họ” (1) .
Mối bận tâm của người Pháp lúc này chỉ là khi nào con nhím Điện Biên Phủ sẽ nghiền nát được đội quân chủ lực của đối phương! Nhiều người gọi Điện Biên Phủ là Verden của Pháp trong chiến tranh Đông Dương.
Ngày 1 tháng 3 năm 1954 tại Paris, giới báo chí đưa lời tuyên bố của Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Pléven vừa từ Đông Dương trở về: “Ở Đông Dương không có vấn đề quân sự, chỉ còn vấn đề chính trị”. Lời nói của ông Bộ trưởng toát lên lòng tin ở việc Tổng chỉ huy Navarre đã làm cho quân chủ lực Việt Minh qua cả một mùa đông không thu hoạch được gì khả quan.
Ngày 2 tháng 3, Navarre chỉ định những tiểu đoàn dù dự kiến sẽ tăng viện ngay nếu Điện Biên Phủ bị tiến công. Tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 của Bigeard, tiểu đoàn dù Việt Nam số 5 sẽ có mặt tại Hà Nội ngày 6 tháng 3, tiếp đó sẽ là tiểu đoàn Việt Nam số 3 và tiểu đoàn 2 của trung đoàn dù thuộc địa số 1.
Ngày 3 tháng 3 Navarre từ Sài Gòn bay ra Hà Nội.
Ngày 4 tháng 3 năm 1954, Navarre tới Điện Biên Phủ. Từ sau khi đánh chiếm Điện Biên Phủ, Tổng chỉ huy đã lên đây 9 lần.
Navarre đi kiểm tra một số cứ điểm chính, hỏi han những viên chỉ huy, và chỉ nhận được câu trả lời duy nhất đầy tự tin: “Chúng tôi chờ quân Việt Minh và không lùi một bước”.
Navarre đã quá quen với những câu trả lời như vậy. Navarre nói với Cogny và Castries là ông thấy tập đoàn cứ điểm chưa thật đủ mạnh, gợi ý nên lập thêm một trung tâm đề kháng mới vào khoảng cách 5 kilômét giữa Claudine và Isabelle bằng cách tăng cường cho tập đoàn cứ điểm từ hai tới ba tiểu đoàn. Không có trung tâm này, những cuộc phản kích xuất phát từ Isabelle sẽ khó tới các điểm tựa ở khu Trung tâm. Để trao đổi thoải mái hơn, Navarre bảo Castries ra ngoài sở chỉ huy cùng với Cogny và một viên đại tá tùy viên leo lên chiếc xe Jeep do Castries cầm lái. Khi chiếc xe đã rời xa sở chỉ huy, Navarre lại nói nếu không lấp khoảng trống 5 kilômét đó thì chí ít cũng nên có những cứ điểm mới ở phía đông – bắc để hỗ trợ cho những tiểu đoàn Thái không quen phòng thủ và cho cả Baesatrice sẽ phải chịu đựng đợt xung phong đầu tiên.
Cogny không muốn lập những trung tâm đề kháng mới vì sợ phí phạm thêm những lực lượng bảo vệ đồng bằng. Điều khiển Cogny ngán hơn, là công tác bảo đảm hậu cần từ sáu tiểu đoàn lúc đầu, hiện giờ đã lên mười hai tiểu đoàn, nếu lại tăng thêm ba tiểu đoàn sẽ bị hoàn toàn đảo lộn. Cogny tiếp tục nói với Navarre là mình rất tin vào những cuộc phản kích của De Castries, Langlais và những hàng rào, bãi mìn của tập đoàn cứ điểm sẽ buộc binh lính đối phương phải nằm lại. Castries cũng lặp lại những ý kiến của Cogny.
Navarre nhấn thêm:
- Có thêm một trung tâm đề kháng sẽ làm cho đối phương phải điều chỉnh kế hoạch, trì hoãn cuộc tiến công. Chỉ qua một vài lần trì hoãn như vậy là tới mùa mưa, trận đánh sẽ không xảy ra.
Castries nói:
- Chỉ sợ chúng không tới! Cần phải đẩy chúng tiến công để kết thúc cho sớm.
Cogny nói thêm:
- Sẽ là một thảm họa về tinh thần với toàn bộ quân đồn trú nếu Việt Minh từ bỏ cuộc tiến công!
Đây là chuyến thăm Điện Biên Phủ cuối cùng của Navarre.
Ngày 5 tháng 3, Navarre bay trở về Sài Gòn. Cũng phải nói rằng, sự tin tưởng hoàn toàn của Cogny và De Castries vào một chiến thắng ở Điện Biên Phủ đã ít nhiều ảnh hưởng tới Navarre.
Ngày 12 tháng 3, Navarre mở đợt hai chiến dịch Atlante tung quân đổ bộ vào Quy Nhơn. 33 tiểu đoàn quân viễn chinh đã được tung ra để chống lại 17 tiểu đoàn Việt Minh trong đó chỉ có 7 tiểu đoàn bộ đội chủ lực.
❖ 3 ❖Những tin tức về phía địch được cung cấp hàng ngày cho Chỉ huy trưởng gồm hai nguồn: tin nghiệp vụ và tin công khai. Tin nghiệp vụ do Cục 2 cung cấp dựa vào báo cáo của các đơn vị, trinh sát mặt đất, trinh sát kỹ thuật. Chỉ huy trưởng chỉ thị riêng cho Trưởng ban Tuyên huấn Mặt trận Hoàng Xuân Tùy, vốn là một sinh viên am hiểu tiếng Pháp, tổ chức nghe các đài phương Tây, đặc biệt là những đài Con Nhạn, Pháp Á. Loại tin tức công khai, tuy nhằm mục đích tuyên truyền nhưng nhiều khi góp phần không kém quan trọng vào việc phán đoán những ý đồ của địch.
Trước khi vào mùa khô, con nhím duy nhất của Salan đã biến mất, thay thế cho nó là một đội quân cơ động rất lớn ở đồng bằng Bắc Bộ, một thử thách mà ta chưa thể vượt qua. Chỉ hơn hai tháng sau, đội quân cơ động lớn chưa từng có ở đồng bằng đã teo tóp lại trong khi đó bảy con nhím mới lại xuất hiện từ Tây Bắc, Thượng Lào đến Tây Nguyên, Trung Lào, Hạ Lào.
Đầu tháng 3 năm 1954, Trưởng ban tuyên huấn mang đến cho Chỉ huy trưởng lời tuyên bố mới của Navarre.
- Thưa anh, tối qua nhiều đài thông tin phương Tây đưa tin Navarre tuyên bố: “Ngọn trào tiến công của Việt Minh bắt đầu tàn lụi. Quân đội Pháp, mặc dù có những tổn thất nhất định, nhưng đã kịp thời chặn đứng được các mũi tiến công lớn của chủ lực tác chiến Việt Minh. Đối phương tất phải sớm quay về, quân đội Pháp sẽ chiếm lại các vùng bị mất”.
Điều quan trọng nhất trong chiến cuộc Đông-Xuân mà Navarre chưa biết là tất cả những cuộc tiến công của ta cho đến nay đều nhằm mục đích làm phân tán lực lượng cơ động y tập trung tại đồng bằng Bắc Bộ để chuẩn bị cho trận đánh quyết chiến ở Điện Biên Phủ. Anh nhớ tới chiến dịch Đông Bắc năm 1951, con cáo già Salan nghiến răng quyết không đưa quân cứu viện tới cứu nguy cho hệ thống đồn bốt bị ta tiêu diệt và uy hiếp trên đường 18, 13 vì đã sớm phán đoán ta đang dùng chiến thuật “đánh điểm diệt viện”. Nếu con cáo bạc Navarre sớm nhận ra ý đồ của ta, tình hình có thể phức tạp hơn nhiều…
Chỉ huy trưởng nở một nụ cười rất tươi, nói:
- Không phải là tàn lụi mà bây giờ mới bắt đầu!
Sau đó, anh cho gọi Cục phó tác chiến Đỗ Đức Kiên. Kiên vốn là Cục trưởng Tác chiến đã theo dõi tình hình địch từ lâu, sau khi có Trần Văn Quang về, Kiên trở thành cục phó. Anh hỏi:
- Tới lúc này, Navarre còn bao lực lượng cơ động ở đồng bằng?
- Thưa anh có cần báo cáo từng tiểu đoàn cụ thể không?
- Chưa cần, nhưng phải nói con số thật chính xác!
Kiên tính toán rồi nói:
- Từ 9 đến 10 tiểu đoàn, tương đương với ba binh đoàn cơ động.
- Nếu nổ ra trận đánh ở đây thì địch có thể tăng cường cho Điện Biên Phủ bao nhiêu tiểu đoàn?
- Mười tiểu đoàn cơ động chưa đủ để đối phó với tình hình đồng bằng. Nếu pháo ta khống chế được sân bay, Navarre buộc phải tăng viên cho Điện Biên Phủ bằng những tiểu đoàn dù. Địch còn ba tiểu đoàn dù. Chúng chỉ có thể bổ sung cho Điện Biên Phủ số quân tổn thất, chứ khó tăng thêm quân vì không thể mở rộng tập đoàn cứ điểm.
- Cậu có tin chắc chắn ta sẽ thắng không?
- Thưa anh lần này thì chắc chắn ta sẽ thắng.
Khi đồng chí cán bộ ra về, chỉ huy trưởng ngồi lại một mình. Anh nhận thấy mọi việc đã tiến triển thuận lợi, đúng như mong muốn của ta trước khi trận đánh bắt đầu, nhưng chiến thắng vẫn đang còn ở phía trước. Trước Tổng khởi nghĩa, khi được Bác trao nhiệm vụ phụ trách đội quân chủ lực đầu tiên, anh nghĩ đây là một nhiệm vụ cách mạng khó khăn, nhưng mình không có quyền được từ chối. Trước ngày Toàn quốc kháng chiến, được trao nhiệm vụ chỉ huy lực lượng vũ trang, khi đó anh đã được Trung ương phân công phụ trách về quân sự, đã trở thành Chủ tịch Quân sự ủy viên hội trong Chính phủ Liên hiệp kháng chiến nên không thể chối từ, mặc dù anh biết là mình không được chuẩn bị để làm trọng trách này. Đây là một cuộc dấn thân trên con đường rất nhiều ghềnh thác mà anh chưa hề biết. Anh nhận nhiệm vụ giống như mọi người chung quanh anh cũng không hề được chuẩn bị, đã bỏ lại tất cả, nhà cửa, quê hương, lên đường đi theo cuộc kháng chiến. Như ta nói: vừa làm vừa học. Những năm qua anh đã học cách điều hành chiến tranh ngày trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Trước mặt anh bao giờ cũng là một chặng đường mới. Anh phải bước đi từng bước rất thân trọng vì đang nắm trong tay sinh mệnh lực lượng vũ trang mà Đảng và nhân dân đã tổn bao xương máu mới tạo thành. Trước mắt anh lúc này là trận công kiên lớn nhất trong lịch sử quân đội ta. Một tập đoàn cứ điểm với 12.000 quân được trang bị tới mức tối đa. Từ thời kỳ chuyển lên đánh lớn, ta mới chỉ tiến công những cứ điểm tiểu đoàn địch khoảng năm, sáu trăm quân. Chỉ nhìn vào so sánh lực lượng, thì đây là một trận đánh không cân sức, mà phía yếu hơn không thể chấp nhận. Đây là một cung đường hoàn toàn mới. Anh đã tính mọi khó khăn, nhưng biết là còn nhiều điều mình chưa lường được hết.
Cấu trúc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên phủ chia làm ba phân khu: Bắc, Nam và Trung tâm. Phân khu trung tâm là cái lõi của tập đoàn cứ điểm. Hai phân khu Bắc, Nam làm nhiệm vụ chiếc lá chắn ở hai đầu thung lũng, nơi có những con đường từ hậu phương ta và từ Thượng lào dẫn tới Mường Thanh. Ở đầu Nam thung lũng, cuộc hành binh của ta sang Thượng Lào đã làm mất mối dây liên kết giữa Điện Biên Phủ với lực lưỡng quân Pháp ở Thượng Lào. Đầu bắc, là nơi rất quan trọng đối với địch vì có những con đường 41, Pavie chạy về hậu phương ta, cuộc tiến công nếu diễn ra sẽ được triển khai từ đây, đặc biệt là từ con đường 41. Pháo cao xạ của ta muốn triển khai trên cánh đồng Mường Thanh phải qua đường này. Địch bố trí tại đây Phân khu Bắc, gồm các trung tâm đề kháng: Besatrice (Him Lam), Gabrielle (Đồi Độc Lập), và Anne Marie (Bản Kéo).
Cuộc chiến ở Điện Biên Phủ sẽ được quyết định ở Phân khu trung tâm. Chủ trương tác chiến của ta là dùng lực lượng một trung đoàn kiềm chế Phân khu Nam, dùng toàn lực đập tan Phân khu Bắc mở đường đưa lực lượng ta, đặt biệt là pháo cao xạ, triển khai trên cánh đồng thực hiện bao vây Phân khu Trung tâm của địch để tiến hành trận đánh quyết định.
Nhiệm vụ của ta trong đợt đầu chiến dịch là xóa sổ ba trung tâm đề kháng tại Phân khu Bắc, trước hết là Him Lam nằm chắn trên đường 41 và Đồi Độc Lập nằm chắn trên được Pavie, sau đó là Bản Kéo, trung tâm đề kháng trực tiếp bảo vệ sân bay Mường Thanh. Ba trung tâm này đều cách Phân khu Trung tâm; xa nhất là Đồi Độc Lập, 4 kilômét; gần nhất là Him Lam, 2 kilômét. Anne Marie là trung tâm yếu nhất do một tiểu đoàn Thái bảo vệ. Gabrielle và Besatrice đều là những trung tâm đề kháng mạnh, mỗi nơi do một tiểu đoàn Âu Phi bảo vệ. Địch đặc biệt chú ý Besatrice vì trung tâm đề kháng này nằm gần Phân khu Trung tâm, trên đường 41 là nơi ta triển khai toàn bộ lực lượng từ hậu phương lên.
Lúc đầu ta chủ trương đánh cả Besatrice và Gabrielle trong một đêm để phân tán sự đối phó của địch. Nhưng khi bố trí lực lượng thì thấy không đủ sơn pháo 75 ly phối thuộc với bộ binh ở cả hai nơi nếu trận đánh diễn ra cùng lúc. Như vậy trận đánh sẽ mở màn ở Him Lam, đêm sau tới Đồi Độc Lập. Nếu tiêu diệt được hai nơi này, ta hy vọng gọi hàng tiểu đoàn Thái ở Bản Kéo.
Truyền thống của ta là “Đánh thắng trận đầu” để tạo đà cho chiến dịch. Tất cả các đại đoàn tham chiến đều mong được chọn làm đơn vị mở màn chiến dịch lịch sử. Thông thường những trận công kiên quan trọng mở màn chiến dịch thường được trao cho 308 là đại đoàn chủ công. Nhưng cả 308 cũng như 316, một đại đoàn đánh công kiên khá giỏi, đều vừa trải qua một trận truy kích dài ngày, lực lượng hao hụt, nên nhiệm vụ mở màn chiến dịch được phân công cho 312. Thời gian qua, 312 phải làm khá nhiều nhiệm vụ như kéo pháo, làm đường, xây dựng trận địa, đánh địch nống ra nhưng lực lượng vẫn sung sức hơn cả.
Khi xem phương án tác chiến Him Lam, chỉ huy trưởng chợt nhớ đến Đồn Pheo trong chiến dịch Hòa Bình. Có sự giống nhau đến kỳ lạ giữa hai trung tâm đề kháng này. Các cứ điểm đều nằm trên ba trái đồi hỗ trợ cho nhau bằng một lưới lửa cẩn mật. Cả hai trung tâm đề kháng này đều do một tiểu đoàn của Bán Lữ đoàn lê dương thứ 13 bảo vệ. Người Pháp coi Bán lữ đoàn lê dương thứ 13 là một đơn vị huyền thoại, một trăm năm qua chưa hề thua trận, kể cả thời gian nước Pháp bị quân đội phát xít Đức chiếm đóng. Trong chiến dịch Hòa Bình, trung đoàn 102, đơn vị công kiên giỏi của 308 đã bại trận ở Đồn Pheo. Đây là cái hận lớn nhất của Vương Thừa Vũ.
Cơ quan tham mưu đã tính toán mọi mặt về trận đánh này. Him Lam là một vị trí đột xuất, khoảng cách 2,5 kilômét với Phân khu trung tâm cho phép ta cô lập nó trong một thời gian nhất định để tiêu diệt. Nếu trận đánh kết thúc trong đêm, khả năng tăng viện của quân địch có thể loại trừ. Ta đã bố trí một lực lượng tiến công mạnh hơn địch ba lần, nếu kể cả lực lượng dự phòng, năm lần, và đề ra một kế hoạch tỉ mỉ về phòng pháo, phòng không, chống địch phản kích, dự kiến các tình huống cơ bản và cách xử lý trong quá trình diễn biến chiến đấu.
Hỏa lực pháo của ta nhìn chung không mạnh hơn địch, nhưng tập trung vào một khu vực, sẽ tạo nên sức mạnh áp đảo trong trận đánh này.
Chỉ huy trưởng nhiều lần nhắc đại đoàn trưởng 312 Lê Trọng Tấn không được để sơ xuất trong trận mở màn. Anh chỉ thị điều tra kỹ vị trí của địch và phải đào trận địa chiến hào tới chân đồn địch, và trao nhiệm vụ cho 312 phải kết thúc trận đánh trước 12 giờ đêm. Anh nhiều lần nghe báo cáo và theo dõi sít sao sự chuẩn bị của trận đánh.
Với Chỉ huy trưởng, trong chiến dịch mới mẻ này sẽ có vô vàn những tình huống anh mới gặp lần đầu và anh không được phép sai sót trong cách giải quyết. Mỗi trận đánh đối với anh đều là một phép thử, anh sẽ phải thử đi thử lại nhiều lần để phát hiện ra ẩn số cuối cùng là sự thành công của trận đánh.
❖ 4 ❖Địch đã biết cuộc tiến công của ta phải khởi đầu từ Him Lam nên đã xây dựng tại đây một công trình phòng ngự mẫu mực. Tất cả khách đến kiểm tra, đến thăm tập đoàn cứ điểm đều được đưa tới Him Lam. Không ai không khen ngợi công trình phòng ngự được bố trí hoàn hảo.
Công tác điều tra tình hình địch ở Him Lam lúc đầu gặp nhiều khó khăn. Từ trên đỉnh núi nhìn xuống, chỉ thấy ở khu vực này có năm quả đồi bị san trụi, ba cứ điểm nằm trên ba mỏm đồi rất dễ yểm hộ cho nhau. Họ áng chừng lực lượng địch bố trí tại đây là một tiểu đoàn và đếm được một số ụ súng quay về mặt ở phía họ, và không hiểu cách bố trí trong từng vị trí ra sao.
Những đội, những tổ trinh sát không làm cách nào tới gần hàng rào của địch. Ngày cũng như đêm, địch không ngừng cho người lùng sục quanh vị trí. Ban đêm, chúng dùng đèn pha quét sát mặt đất, đèn dù soi sáng rực một vùng, rõ từng ngọn cỏ. Ngoài những trung đội đi tuần, phục kích chung quanh cứ điểm không theo một quy luật nào, địch còn cho từng bộ phận nhỏ bí mật gác ngay ở chân hàng rào. Bọn này được trang bị súng có kính ngắm ban đêm để phát hiện quân ta trong bóng tối. Một số chiến sĩ trinh sát của ta mò và sát hàng rào của cứ điểm đã bị chúng bắn hy sinh hoặc bị thương phải dìu nhau quay ra.
Đồng thời với việc điều tra tình hình địch, trung đoàn gấp rút tiến hành nhiệm vụ đào đường hào, xây dựng trân địa tấn công.
Lúc đầu, hào còn cách xa địch, trận địa được xây dựng đúng tiêu chuẩn kỹ thuật và thời gian do cơ quan tham mưu đề ra. Nhưng khi đào gần cứ điểm địch thì vướng phải con sông Nậm Rốm, nằm sát chân cụm cứ điểm Him Lam. Khúc sông ở quãng này rộng trên mười mét trong tầm hỏa lực bắn thẳng của địch. Chỉ riêng việc nghiên cứu đoạn sông nào thuận tiện vừa che khuất, vừa êm dòng nước, vừa hẹp và không sâu, ta đã thương vong mất gần nửa tiểu đội. Anh em lấy nứa ken lại làm thành mấy đoạn cầu ngắn chắc, vác từ xa tới ghép lại và gò chìm lập lờ dưới mặt nước để chập tối vượt sang đào trận địa. Gần sáng, khi mọi người đã về hết, cầu cũng phải rút đi, không để lộ một dấu vết gì khiến địch có thể nghi ngờ.
Tới việc đào trận địa bên kia bờ sông.
Đêm đầu, đào trận địa bên kia sông, tốc độ có chậm hơn nhưng vẫn đạt tiêu chuẩn bề sâu. Nhưng từ đêm thứ hai, không những pháo địch từ xa giội tới mà súng bắn thẳng của chúng từ bản thân cụm cứ điểm cũng trút đạn về phía bộ đôi ta. Có lần ta vừa mới dàn đội hình, đã có đến gần hai tiểu đội thương vong. Để đối phó, các đại đội, tiểu đoàn bố trí hỏa lực truy lại các hỏa điểm của địch, nhưng chúng vẫn cứ gây cho ta nhiều trở ngại. Có khi ta vừa đến trận địa thì từng loạt mìn nổ tung, rồi pháo sáng bay vụt lên, súng địch bắn xả vào chỗ mìn nổ…Đêm nào cũng có thương vong và tốc độ xây dựng trận địa rất chậm. Xuất hiện những lời phàn nàn: “Việc gì mà phải đào, phải khoét như con dũi ấy? Hồi đánh Tràng Bạch, đánh Ba Vì, Ba Lay, địch giội đại bác như mưa, ta đâu có công sự mà vẫn tiêu diệt được đồn địch. Đào vừa mất thời gian, mà thằng địch lại củng cố thêm rắn ra…”.
Chỉ huy trưởng theo dõi việc đào trận địa từng ngày. Anh gọi điện hỏi đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn:
- Các anh định giải quyết việc đào trận địa bên kia sống Nậm Rốm như thế nào? Nghe phái viên báo cáo tư tưởng anh em chiến sĩ có người chưa thông? Hỏa lực của địch ở đây rất mạnh, cách duy nhất để bộ đội ta tiếp cận hàng rào của địch là phải có trận địa, đặc biệt là đối với hướng chủ công của trung đoàn 141.
- Thưa anh, chúng tôi sẽ chỉ đạo và động viên anh em là bằng được.
Ngay chiều hôm đó, Lê Trọng Tấn xuống trực tiếp kiểm tra trận địa, bàn bạc với bộ đội làm nhiệm vụ.
Hai ngày trước trận đánh, Trưởng ban quân báo của đại đoàn 312 Sơn Hà tổ chức một trận đột kích táo bạo và trung đội địch cảnh giới ở Him Lam, bắt về được bốn cái lưỡi, trong đó có một viên trung úy người Đức bị thương nặng. Sau khi được ta tận tình cứu chữa, viên trung úy cho ta biết về hệ thống hỏa lực của trung tâm đề kháng, đặc biệt là cứ điểm ở phía Bắc, nơi đại đội 9 của y đóng quân. Đại đoàn đã có những tài liệu cụ thể về tung thâm của Him Lam.
Nhiệm vụ chủ yếu của trung tâm đề kháng này là án ngữ con đường từ Tuần Giáo đến Điện Biên, ngăn chặn hướng tấn công chính của chủ lực ta vào vòng ngoài Điện Biên Phủ, đồng thời là một đài quan sát phát hiện quân ta cho pháo binh ở Mường Thanh kết hợp với máy bay đánh phá việc chuẩn bị chiến dịch của ta từ xa.
Bảo vệ vị trí này là tiểu đoàn lê dương số 3, thuộc Bán lữ đoàn lê dương số 13 (3/13 D.B.L.E), được tăng cường và một số quân ngụy do viên quan tư Pesgot chỉ huy. Tiểu đoàn này gồm 4 đại đội. Cứ điểm ở phía tây – bắc (ta gọi là cứ điểm số 1) là điểm tựa chủ yếu của tiểu đoàn, có sở chỉ huy tiểu đoàn và hai đại đội 10 và 12; đại đội 10 là lực lượng cơ động của toàn bộ vị trí. Cứ điểm ở phía bắc (ta gọi là cứ điểm số 2) là đại đội 9. Cứ điểm ở phía đông – bắc (ta gọi là cứ điểm số 3) do đại đội 2 chiếm giữ.
Him Lam được phòng ngự khá phức tạp và vững chắc. Một hệ thống chiến hào chạy ngang, dọc nối liền các hầm chỉ huy, hầm ngủ, hầm đạn, ụ súng thấp nằm sát mặt đất hình thành những điểm tựa vòng tròn. Những ụ súng đều được đắp đất dày từ 1 đến 2 mét. Lưới lửa của Him Lam gồm các loại súng: trung liên, trọng liên, bazooka, súng không giật, phóng lựu đạn, súng cối, mới nhất là súng phun lửa và súng có kính ngắm ban đêm. Lưới lửa này bố trí thành nhiều tầng: trung liên ở tuyến ngoài kiểm soát mặt đất; trọng liên ở cao hơn kiểm soát xa; súng cối, súng không giật đặt ở giữa, gần sở chỉ huy, súng phun lửa ở những hướng đối phương có thể đánh vào. Ở trong và ngoài cụm cứ điểm là một hệ thống công sự phụ, mìn và dây thép gai bố trí rất phức tạp và dày đặc. Mìn gồm đủ các loại: mìn napan, mìn nhựa, mìn sáng, mìn cóc, mìn đĩa, mìn điện…gài hoặc treo la liệt ngay ở hàng rào và thành bãi xen giữa những hàng rào dây thép gai. Hàng rào dây thép gai cũng đủ các kiểu: cũi lợn, giàn mướp, bùng nhùng, mái nhà…chằng chịt bao quanh từng ụ súng, từng vị trí, trên mặt chiến hào, có nơi rộng từ 100 tới 200 mét.
Nếu trung tâm đề kháng bị tiến công thì tất cả các loại máy bay tại sân bay Mường Thanh sẽ yểm trợ, gần 50 khẩu pháo hạng nặng từ Mường Thanh và Hồng Cúm cùng các ổ pháo và cối ở các cứ điểm bên cạnh như Gabrielle (ta gọi là Đồi Độc Lập), bắc sân bay, Dominique…sẵn sàng chi viện bất kỳ lúc nào. Và lực lượng phản kích của Castries chỉ ở cách đó 2,5 kilômét luôn luôn sẵn sàng cứu ứng. Tất cả những hướng có thể bị đối phương uy hiếp, các địa hình mà đối phương có thể bố trí quân hoặc buộc phải tiến qua đều nằm sẵn trong “tọa độ lửa”. Kế hoạch bảo vệ Him Lam đã được diễn tập đi lại nhiều lần.
Viên trung úy với một thái độ có vẻ thành thật khuyên ta không nên đụng tới Besatrice…
Chú thích:
1. Henri Navarre, Sđd, tr. 217.